;
Nam Yết là một trong dãy đảo Trường sa, cách Sơn Ca độ một giờ Tàu chạy. Cũng như Sơn Ca, tàu neo khá xa vì biển cạn bờ nông. Sóng bạc đầu cố nuốt trọn những xuồng ca nô nhỏ bé đưa từng thân xác mệt nhoài sau mấy ngày vượt trùng dương, nhưng tất cả đều lóe lên niềm phấn chấn khi điểm xanh cây cối le lói tận chân trời.
Toàn cảnh đảo Nam Yết.
Không ai bảo ai, tất cả đều vui vì có mặt của cỏ cây giữa trùng dương bạt ngàn. Cây cỏ sống được thì con người sống được. Bờ biển Nam Yết không gây khó cho anh em binh sĩ đồn trú khi đón đoàn, tuy nhiên, từng đợt sóng đùa cợt ve vãn cũng đủ ướt ống chân khi bước lên những tấm ván đơn sơ nằm dọc mé nước. Nước ngọt rất hiếm, nước là máu để tồn tại sự sống, là vũ khí bảo vệ sự tồn tại, thế mà, khi lên bờ, từng thau nước lưng đáy, với cái khăn sạch trên giá thau sẵn sàng đón chào khách quý. Tuy được thông báo cặn kẽ trước khi đi, nhất là nước ngọt, thế mà vẫn có những người vố ý với thói quen của dân thị thành, sử dụng vô tội vạ. Uống nước cũng vẫn chừa 1/3 đổ xuống mãnh cát khô khốc trước cái nhìn tiếc rẽ của anh em đồn trú. Nước mưa được chứa vào bể xài quanh năm, dĩ nhiên không đủ.
Cổng vào đảo Nam Yết.
Vào sâu bên trong, những cây bàng lá vuông phủ xanh một phần mặt đất mà cứ ngỡ như cỏ cây tươi tốt. Các gốc dừa chưa đủ sức tồn tại, được bao quanh bởi những mãnh vải mỏng manh để tránh cái gió khô cháy của đại dương và muối mặn biển cả, tuy vậy, các đọt vẫn bị cháy nắng; không một cây nào ngóc đầu khỏi mặt đất để chứng tỏ sức sống vượt áp lực thiên nhiên ngoại trừ dương liễu và cây bàng. Đáng ra, phải hỗ trợ biển đảo phủ xanh thêm mặt đất, thì cũng có những người tận dụng cây con, nhánh ươm của Bàng vuông đem về Thành phố như một chứng tích Trường sa. Sự khắc nghiệt là thế mà, vẫn có những con người xương thịt xác định được quyền sống trước bao khó khăn của đất trời và ác nghiệp của con người với nhau.
Đoàn sinh hoạt với cấp chỉ huy đảo tại hội trường, trao quà qua những lời chúc tụng của Thượng Tọa T. Giác Hiệp trưởng đoàn. Chủ đảo báo cáo sinh hoạt của binh sĩ đồn trú, cuộc sống và niềm khát vọng mà từ đất liền đem đến cho anh em. Cũng như Sơn Ca, nơi đây chỉ có sĩ quan và lính quen nhẵn mặt nhau đến độ gặp nhau đã biết sẽ muốn nói với nhau điều gì. Anh em thường đùa, vừa ra khỏi nhà ăn, gặp nhau đã hỏi: ăn chưa khi trên tay còn cầm đồ đi rữa.” Ôi! Chưa ăn, chừng nào tới giờ cơm?” “Hôm qua bồ tau vừa hẹn chốc sẽ đi phố sắm đồ cưới”...cứ thế, những chuyện không đâu như người lơ lững giữa từng không mà đùa như thật. Tuy đảo có sóng Viettel, nhưng binh sĩ không sử dụng điện thoại cá nhân. Những hạn chế do thiếu điều kiện mà biến người trên đảo cứ như không bình thường, thật ra họ vẫn bình thường nhưng tình cảm sinh hoạt giữa biển đảo và đất liền bị gián đoạn; cái gì đó như khô hạn. Giống anh em tù cải tạo trong rừng sâu, lâu ngày thiếu vắng bóng người dân, gặp ai cũng trân quý. Cũng vậy, cho dù một cô gái xấu tệ, khiếm khuyết, dưới mắt của những người đơn độc cách ly với đất liền, cũng vẫn là người đẹp, người mẫu của Thần đảo cô đơn.
Chư Tôn đức làm lễ cầu nguyện và an vị tôn tượng Phật.
Đoàn lên chùa, vẫn kiểu dáng chùa Sơn Ca, vẫn nét cong mềm mại, mái ngói móc câu đỏ thẳm trên nền xanh của trời, tường vôi màu khói lam cho dịu đất nóng biển khơi, ban nghi lễ miền Bắc an vị tôn tượng như giúp cho anh em đồn trú đa phần miền Bắc, sống lại những ngày tháng của quê hương; họ thành kính ngồi chấp tay lắng nghe như muốn nuốt trọn từng câu kinh tiếng mỏ. Hồi chuông ngân đã đánh động một góc đảo để tạo sự sống tâm linh hòa cùng âm ba của sóng gào. Những giây phút nầy thật sự sung sướng và ý nghĩa khi đất liền hòa hợp cùng biển đảo chan chứa trong tâm hồn người con Việt tộc giữa chốn xa xôi. Tình cảm và lòng thương đang tồn tại sự cảm thông không phân biệt chính kiến, tín ngưỡng hay giai cấp xã hội. Tất cả chỉ là một khối thể hiện lòng yêu quê hương, bảo vệ giống nòi.
Thủy thủ và các chiến sỹ dự lễ cầu nguyện.
Có lẽ đa phần anh em đồn trú đều là cư dân miền duyên hải nên việc đánh bắt hải sản để tự cung tự cấp thêm chất đạm ngoài thịt hộp cũng không mấy khó. Cái khó là mãnh lưới, móc câu không đủ ra xa khi chẳng một thuyền bè hay phương tiện nào khác. Vài con chó không mấy tròn trịa ngơ ngác nhìn du khách. Vì là đoàn Phật giáo, nhiều vị tự hỏi, những chú cẩu nầy là bạn của những người trên đảo hay là thực phẩm bất đắc dĩ khi say mồi nhớ lại phố phường “liên hiệp xí nghiệp thịt cầy” ở phố Bắc? Ngoài vài chú cẩu, không có sinh vật heo, gà, vịt ngan nào có mặt, có lẽ không đủ nước ngọt cho chúng sống.
Sau vài giờ sinh hoạt và làm lễ an vị tôn tượng, đoàn cũng phải chia tay với những gương mặt trẻ đen nhẽm nắng biển, da thịt săn chắc, giọng nói nặng nề nhưng vẫn không dấu được một tình cảm, một khao khát đời thường mà đáng ra sau khi đất nước thống nhất, tất cả con dân có quyền được hưởng cuộc sống an lành ấm êm với thân nhân bè bạn trong cảnh thái bình.
Tác giả trên đảo Nam Yết.
Cộng nghiệp của dân tộc phải chung sống với những kẻ vô minh luôn muốn nhấn chìm tổ quốc, biệt nghiệp của từng con dân luôn gánh nặng trách nhiệm của cha ông để lại. Cho dù bão tố bất thường trên đại dương cũng khó nhận chìm phần đất của quê hương nếu toàn dân đồng lòng bảo vệ. Cho dù mấy đen bao phủ bốn bề thì cũng phải có lúc ánh sáng le lói từ bầu trời xuyên tầng không để soi sáng thế nhân.
Giọt nắng yêu thương của con người đồng chủng tộc hay giọt nắng vô tình của đất trời bao la đều là ánh sáng sưởi ấm đất tổ quê cha trước bạo tàn thâm độc. Đoàn thăm viếng là giọt ấm lòng người hướng về các biển đảo xa xăm của quê hương Hồng Lạc Việt Nam.
01/7/2014