;
Upasika Kee Nanayon (1901-1978)
Lời giới thiệu của người dịch
Loạt bài về đề tài "Phật giáo và người Phụ nữ" gồm có 8 bài:
ài 1: Phật giáo và người phụ nữ: một sự nghịch lý hay mâu thuẫn (Philippe Cornu)
Bài 2: Phụ nữ và nữ tính trong Phật giáo (Dominique Trotignon)
Bài 3: Con đường của sự quyết tâm (Ilan Dubosc)
Bài 4: Tenzin Palmo: Một nữ du-già nơi xứ tuyết (Dominique Dutet)
Bài 5: Phụ nữ và Phật giáo (Gabriela Frey)
Bài 6: Làm mẹ với tấm lòng của Phật (Jaqueline Kramer- Sanitsuda Ekachai)
Bài 7: Người nữ tu sĩ Phật giáo trong thế giới ngày nay (Ven. Karma Lekshe Tsomo)
Bài 8: Hãy đọc các dòng chữ trong tâm thức mình (Upasika Kee Nanayon)
Và dưới đây là phần chuyển ngữ ba bài giảng sau cùng, 7, 8 và 9 trong trong bài thứ 8 này:
Bài 1: Làm thế nào để phát huy sự nhận định
Bài 2: Các cách hiểu biết khác nhau
Bài 3: Con đường quân bình
Bài 4: Lợi ích của sự bình thản
Bài 5: Một khối nhựa đường
Bài 6: Sự sụp đổ của sự thật quy ước
Bài 7: Sự phức tạp của vô minh
Bài 8: Tánh Không là gì?
Bài 9: Mở rộng con tim
Bài 7
Sự phức tạp của vô minh
(The Intricacies of Ignorance / Les complexités de l’ignorance)
Sự tự lừa phỉnh mình có nhiều lớp chồng lên nhau. Càng tu tập lâu dài và càng tìm hiểu mọi sự vật thì các bạn tất sẽ cảm thấy không nên vội huênh hoang cho rằng mình biết hết. Trái lại, các bạn sẽ ngày càng nhận thấy thật nhiều điều sai trái tạo ra bởi vô minh dưới vô số các thể dạng khác nhau. Việc phân tích các độc tố tâm thần của mình cũng sẽ theo đó mà ngày càng trở nên tinh tế hơn. Trước đây các bạn không hề chú ý đến điều này nên cứ nghĩ rằng quan điểm của mình chính là sự hiểu biết, đấy chẳng qua là cách tự cho rằng là mình hiểu biết thế thôi. Các quan điểm ấy nào có phải là sự hiểu biết đích thật đâu.
(Phép tu tập chủ yếu của Phật giáo là "Con Đường Cao Quý gồm Tám Thành Phần" (hay "Yếu Tố"), tiếng Pa-li: Ariya-atthangika-magga, tiếng Phạn: Arya-astanga-marga, trong các chữ này có các chữ angika (tiếng Pa-li) và chữ anga (tiếng Phạn), và hai chữ này thì có nghĩa là "thành phần" hay "yếu tố". Tiếng Anh dịch các thuật ngữ trên đây là The Noble Eightfold Path. Hán dịch là Bát Chánh Đạo, cách dịch này dễ gây ra hiểu lầm vì có thể cho rằng phép tu tập này gồm có "Tám con đường", thế nhưng thật ra chỉ có một con đường duy nhất, gồm tám "thành phần" hay "yếu tố" cần phải mang ra luyện tập tuần tự và đồng loạt.
Nếu muốn dịch chữ "Bát Chánh Đạo" sang tiếng Việt thì phải dịch là "Con Đường gồm Tám Điều Đúng Đắn", chữ "Đạo" đứng riêng, hai chữ "Bát Chánh" (tám điều đúng đắn) đi chung với nhau, chữ "bát" là một tĩnh từ chỉ số lượng xác định cho chữ "chánh" nhưng không xác định cho chữ "đạo". Văn phạm tiếng Hán đặt tĩnh từ phía trước danh từ. Mạn phép dài dòng làm gián đoạn sự theo dõi và suy nghĩ của độc giả, nhưng thiết nghĩ một từ không rõ nghĩa có thể đưa mình đi lạc một quãng đường rất xa.
Trở lại với "sự hiểu biết đích thật" mà bà Upasika Kee Nanayon nêu lên trên đây, thì đó là thành phần thứ 7 trong số 8 thành phần của "Con Đường Cao Quý gồm Tám Thành Phần" là sự "Quán Thấy Đúng Đắn", Hán dịch là "Chánh Kiến" (tiếng Pa-li: samma-ditthi, tiếng Phạn:samyag-drsti). Sự hiểu biết mang lại từ các kinh nghiệm cảm nhận trong cuộc sống, từ giáo dục và sự quan sát chỉ là những sự hiểu biết lừa phỉnh, kể cả sự hiểu biết khoa học cũng chỉ có giá trị trên một vài khía cạnh hay lãnh vực nào đó mà thôi. Những sự hiểu biết này chỉ mang tính cách "hiểu ngầm" giúp mang lại một sự "mạch lạc" và "hợp lý" nào đó trong sinh hoạt tập thể giữa con người. Sự hiểu biết/quán thấy đích thật về bản chất sâu kín của mọi sự vật (chánh kiến) chỉ có thể đạt được bằng thiền định và sự suy tư lâu dài, và đó mới chính là sự hiểu biết đích thật mang lại bởi phép luyện tập thứ 7 của "Con Đường gồm Tám Thành Phần". Cũng xin nhắc thêm là "Con Đường Cao Quý gồm Tám Thành Phần" (Bát Chánh Đạo) là tâm điểm của "Sự Thật Cao Quý Thứ Tư" trong "Bốn Sự Thật Cao Quý" còn gọi là Tứ Diệu Đế).
Các quan điểm đó chỉ là kết quả mang lại từ sự hiểu biết về các dòng chữ (nhãn hiệu, ngôn từ) mà người ta dùng để chỉ định các sự vật mà thôi. Thế nhưng chúng ta thì lại cứ cho rằng đấy đích thật là sự hiểu biết, và cứ khăng khăng vin vào đấy để tin rằng mình hiểu biết (bà Upasika Kee Nanayon giải thích về bản chất của sự hiểu biết quy ước và công thức thật ngắn gọn và tài tình). Đó là tình trạng tự đánh lừa mình một cách vô cùng tinh vi.
Vì thế phải quan sát cẩn thận, phải phân tích chi tiết các tư duy hiện lên với mình. Nhiều khi chúng lừa phỉnh mình thật trắng trợn, ngay trước mắt mình. Do đó mọi sự có thể chuyển biến thật tệ hại, bởi vì mình không ngờ là mọi sự vật lại có thể đánh lừa mình đến mức độ đó. Chúng ta cứ ngỡ rằng mình là những người sành sỏi. Dù chúng ta thừa sức thao thao bất tuyệt, hết chuyện này đến chuyện nọ, thế nhưng thật ra các sự hiểu biết đó cũng chỉ đơn giản là trí nhớ về chữ nghĩa (các "nhãn hiệu" và các "tên gọi" dùng để chỉ định hay xác định các vật thể và sự kiện) mà thôi. Chúng ta nghĩ rằng chữ nghĩa là trí tuệ, tư duy là trí tuệ, hoặc cũng có thể nghĩ rằng các sự tạo tác tâm thần (thought-formations, tức là các sự diễn đạt của tâm thức về những gì mà nó cảm nhận được từ các sự tiếp xúc của lục giác) là trí tuệ, và cứ thế mà chúng ta pha trộn tất cả các thứ ấy với nhau (đó là sự vận hành hỗn độn và phiến diện của tâm thức mà mình thường đồng hóa với sự "hiểu biết" minh bạch và "hợp lý" của mình). Do đó chúng ta thường tự hào về các mảnh vụn ấy của sự hiểu biết, chúng len sâu vào tâm thức mình và biến tâm thức trở thành méo mó, các mảnh vụn hiểu biết ấy thật ra cũng chỉ là các ảo giác mà thôi. Không mấy khi chúng ta thực hiện được một tâm linh tỉnh giác, trong khi đó các thể dạng tâm thần lừa phỉnh thì lại quá nhiều, chúng bủa vây chúng ta trên khắp mọi mặt (xin chắp tay bái phục bà Upasika Kee Nanayon, đã đọc được tâm thức con người một cách vô cùng tinh tế. Khi nào trông thấy được sự hỗn độn và lầm lẫn đó trong tâm thức mình thì mình mới hiểu được ý nghĩa của "vô minh" trong Phật giáo là gì).
Do đó chúng ta phải suy tư và hành xử như thế nào hầu có thể nhìn xuyên qua các mảnh vụn ảo giác đó với một tâm linh thật tỉnh thức. Đấy là cách giúp mình đọc được tâm thức mình. Nếu như sự chú tâm (awareness/sự tỉnh giác, tỉnh thức) có thất thoát đi thì cũng không nên tìm cách đuổi bắt nó, mà phải dừng lại và quay nhìn vào nội tâm mình. Đối với bất cứ gì thâm nhập vào tâm thức và quấy rối nó thì các bạn cũng chỉ cần chú tâm theo dõi chúng với tất cả sự tỉnh thức của mình. Các bạn không thể nào ngăn cấm chúng được, bởi vì đấy là những gì thật tự nhiên (các sự cảm nhận phát sinh từ sự tiếp xúc của lục giác, là kết quả tự nhiên mang lại từ sự vận hành chung của thân xác và tri thức, chúng ta không thể nào ngăn chận được các chức năng đó của chúng, dưới một góc nhìn nào đó thì đấy là "sự sống" nói chung). Do đó các bạn cũng không nên tìm cách cô lập hóa tâm thức mình một cách quá đáng. Các bạn chỉ cần đơn giản duy trì sự tỉnh giác, theo dõi chúng xem chúng xoay sở ra sao, chúng còn "thật" đến mức độ nào vào đúng các thời điểm đó (hay là chúng hiện đang biến thành ảo giác?), chúng biến mất như thế nào và hiện lên trở lại như thế nào. Các bạn theo dõi chúng, và cứ tiếp tục theo dõi chúng thế thôi (trong khi ngồi thiền nếu có các ý nghĩ, các cảm tính hay tư duy hiện lên với mình, thì đấy là chuyện tự nhiên, thế nhưng cố gắng không nên chạy theo chúng, cũng không để cho chúng tung hoành và làm cho tâm thức mình bị tràn ngập bởi các thứ xúc cảm do chúng gây ra. Hãy "thụt lùi" lại một bước để quan sát chúng, theo dõi chúng, xem chúng muốn gì, nhưng không được tiếp tay với chúng. Đấy chính là cách không để mình rơi vào cái bẫy do chúng giăng ra. Thế nhưng sau đó vẫn phải tiếp tục giữ sự chú tâm bởi vì các tư duy khác có thể sẽ hiện ra. Khi nào tự duy trở nên thưa thớt và yếu dần thì khi đó chúng ta cũng sẽ cảm nhận được thể dạng thanh thản, vắng lặng và trong sáng hé lộ trong tâm thức mình). Chỉ cần đơn giản theo dõi chúng là cũng đủ giúp mình đọc được những gì bên trong con người của mình, quán thấy sâu xa được các nguyên nhân và hậu quả bên trong chính mình, giúp mình suy tư về chính mình (những gì thâm nhập vào tâm thức mình hay hiện ra trong tâm thức mình đều là hậu quả phát sinh từ nghiệp của chính mình, phản ảnh các "hành động" trong quá khứ của mình. Do đó hãy dừng lại - hay thụt lùi lại - để quan sát và theo dõi chúng, nhưng không để cho chúng tiếp tục tạo ra các nguyên nhân mới đưa đến các nghiệp mới). Đấy là cách giúp mình phát huy sự tỉnh giác và khả năng quán thấy của mình ngày càng sắc bén hơn. Nếu các bạn không luyện tập theo cách đó thì sẽ khó tránh khỏi tâm thức bị bao phủ bởi bóng tối. Đôi khi tâm thức mình cũng có thể tìm thấy một kẽ hở trống vắng, một chút thanh thản nào đó, khiến mình cảm thấy hài lòng và cho rằng như thế là cũng quá tốt rồi (không ngờ rằng mình có thể đi xa hơn như thế rất nhiều).
Nếu nhìn vào trường hợp của Đức Phật thì các bạn tất sẽ nhận thấy ngay là dù đạt được một sự hiểu biết siêu việt đến đâu đi nữa thì Ngài cũng không bao giờ dừng lại ở đó. Ngài luôn tự nhủ: "Nhất định còn có thể đẩy sự hiểu biết về điều đó xa hơn như thế nữa". Trước hết Ngài phát huy sự tỉnh giác và sự quán thấy sâu xa qua tất cả mọi sinh hoạt của mình (tức là giai đoạn đầu tiên trên con đường tu tập của Đức Phật, kể cả thời kỳ tu tập khổ hạnh, bởi vì khổ hạnh là một cách trấn áp các các đòi hỏi của thân xác nhắm phát huy sự tập trung tâm thần), thế nhưng sau đó thì Ngài cũng tự nhủ: "Thật hết sức rõ ràng là ngoài các thứ ấy ra còn có rất nhiều điều khác cần phải đạt được, phải vượt xa hơn như thế nữa" (câu này thật quan trọng bởi vì trong thế giới Tây Phương ngày nay người tu tập Phật giáo thường dừng lại ở cấp bậc "tỉnh giác" hay "tâm linh tỉnh thức" (mindfulness/"chánh niệm"), nhằm giúp mình loại bỏ khổ đau trong tâm thức mình, thế nhưng đấy cũng chỉ là các bước đầu chập chững. Chủ đích mà Đức Phật nêu lên là Trí Tuệ. "Tâm linh tỉnh thức" chỉ là một điều kiện tất yếu đưa đến sự "Quán Thấy" bản chất của chính mình và thế giới. Sự "Quán Thấy" hay "Trí Tuệ" đó mới có thể giúp mình vượt thoát ra khỏi thế giới hiện tượng được).Trong khi đó thì chúng ta luôn cảm thấy tự mãn và khoe khoang về các thành tích mà mình đã thực hiện được. Chúng ta cố gắng làm việc này hay việc nọ trong một khoảng thời gian nào đó và sau đấy thì cho rằng mình đã biết hết, không cần phải làm gì thêm nữa. Sự kiêu hãnh và tự hào đó sẽ làm giảm đi sự tỉnh giác của mình.
Vài lời ghi chú của người dịch
Nghiệp không phải là một thứ gì đó "bay" trong không gian và "vượt" qua thời gian "thâm nhập" vào thân xác mình để mà đày đọa hay là ban thưởng mình. Nghiệp được ghi khắc trên dòng luân lưu của tri thức và cũng sẽ hiện ra trở lại trên dòng tri thức ấy của mỗi cá thể. Tư duy, ảo giác, xúc cảm, tác ý... trong tâm thức, cũng như các ngôn từ và hành động trên thân xác, tất cả đều là hậu quả phát sinh từ nghiệp. Hãy nêu lên một thí dụ cụ thể, bối cảnh bên ngoài hay các sự kiện nào đó (các cơ duyên) xảy ra trước mắt khiến mình "nhớ lại" hay "hồi tưởng lại" các việc mà mình từng làm cũng như các xúc cảm mà mình từng cảm nhận được trước đây (nghiệp trong quá khứ). Sự "nhớ lại" đó (nghiệp hiện ra trở lại) sẽ làm bùng lên các "xúc cảm mới" (tạo ra hậu quả) liên quan đến các" xúc cảm" mà mình từng cảm nhận được từ trước (nghiệp quá khứ). Sự "nhớ lại" đó có thể mang lại cho mình "khổ đau", "hạnh phúc" hay "trung hòa" (chẳng hạn như chuyện cũ hiện ra trở lại trong ký ức nhưng không tạo ra cho mình một sự xúc cảm đáng kể nào). Tóm lại trí nhớ là sự "hiện ra trở lại" của nghiệp. Hãy nêu lên một thí dụ cụ thể, một số người mỗi khi "nhớ lại" những sự thua thiệt và mất mát to lớn trước đây của mình thì cảm thấy đau buồn, hận thù và tức bực: đấy là nghiệp của mình hiện lên với mình. Một số người khác mỗi khi "nhớ lại" các sự biển lận, lường gạt và hung bạo của mình trước đây và ngày nay nhận ra các sự đần độn và ngu xuẩn ấy của mình, trước những gì đang xảy ra trước mắt mình cũng như các sự chê cười và khinh bỉ của kẻ khác đối với mình, thì đấy cũng chính là hậu quả của nghiệp mà mình tự tạo ra cho mình trong quá khứ.
Thật ra nghiệp rất nhiều, trùng trùng điệp điệp, rất phức tạp và đa dạng: mỗi sự suy nghĩ, mỗi lời nói, mỗi hành động đều tạo ra nghiệp. Sự vận hành của nghiệp dưới hình thức "nhớ lại" những gì trong quá khứ cũng chỉ là một mô hình đã được đơn giản hóa rất nhiều, nhưng đấy cũng là cách giúp chúng ta hình dung phần nào quá trình ghi khắc và khích động trở lại của nghiệp bên trong tâm thức của mỗi cá thể. Trí nhớ chỉ biểu trưng cho một khía cạnh rất nhỏ của sự vận hành chung của tâm thức, trong khi đó thì nghiệp nhiều vô kể, phức tạp và tinh tế, liên tục tương tác với nhau và biến đổi không ngừng trên dòng luân lưu của tri thức. Hãy trở lại với thí dụ cụ thể trên đây, trong số những người cùng gánh chịu gian nan, thiệt thòi và mất mát như nhau, thì cũng có một số "quên đi nhanh chóng", nhưng một số khác thì lại "nhớ rất dai", chẳng qua là vì nghiệp của họ được ghi khắc quá sâu đậm mà họ thì lại không có phương tiện nào để làm cho nó phai mờ đi. Riêng đối với những người tu tập Phật giáo thì cũng xin mạn phép nhắc thêm là quá trình đó của nghiệp vận hành trên dòng tri thức của mỗi cá thể xuyên qua không gian và thời gian, thân xác chỉ là một sự cấu hợp tạm thời hiện ra trên dòng biến động của quá trình ấy trong một khoảng thời gian nào đó mà thôi.
Trong cuộc sống thường nhật chúng ta không ngừng đuổi bắt các thứ tư duy, xúc cảm, tác ý, và phát ra các ngôn từ và hành động đủ loại, nhưng tuyệt nhiên không hề ý thức được là phia sau những thứ ấy là sự chi phối và thúc đẩy của nghiệp. Chỉ có người hành thiền mới biết dừng lại và quay nhìn vào tâm thức mình để quán thấy sự thúc đẩy ấy của nghiệp tồn lưu trên dòng tri thức mình, nghiệp luôn tương tác với cơ duyên để tạo ra nghiệp mới. Bà Upasika Kee Nanayon qua bài giảng trên đây khuyên chúng ta hãy dừng lại để khám phá ra sự vận hành sâu kín đó bên trong tâm thức mình bằng một câu vô cùng chính xác và sâu sắc: "Chỉ cần đơn giản theo dõi những gì hiện lên trong tâm thức mình thì cũng đủ giúp mình đọc được chính mình, quán thấy sâu xa được các nguyên nhân và hậu quả bên trong chính mình, giúp mình suy tư về chính mình". Sự suy tư ấy là để quán thấy bản chất của mình cũng chỉ đơn giản là một sự cấu hợp - từ thân xác đến tâm thần - phát sinh từ các tác động phức tạp của nghiệp và các cơ duyên trói buộc mình trong thế giới hiện tượng mà thôi. Hóa giải được động cơ thúc đẩy đó của nghiệp bên trong tâm thức mình chính là cách mang lại sự giải thoát cho mình.
Tóm lại thiền định là một phương pháp vô cùng hữu hiệu giúp chúng ta quán thấy được nghiệp và các tác động của nó hầu giúp mình kịp thời biết dừng lại, quan sát nó, theo dõi nó, thụt lùi một bước để tự tách rời mình ra khỏi nó. Điều đó có nghĩa là không để cho nó gây ra một tác động nào đối với mình, và mình thì cứ bình thản mặc cho nó tự tan biến trong sự vắng lặng của bầu không gian trống không trong tâm thức mình. Thiền định có thể hóa giải được nghiệp là như vậy.
Bài 8
Tánh Không là gì?
(Emptiness vs.Void / Qu'est-ce qua la Vacuité)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là tất cả đều biến mất và trở thành hư vô hay không?
Mỗi khi nói đến một tâm thức trống không (empty/vide) thì không nên hiểu là tâm thức bị hủy diệt. Những gì bị hủy diệt là sự nắm bắt và bám víu của tâm thức (các nhãn hiệu, các dòng chữ đưa đến các thứ xúc cảm). Những gì cần làm là chú ý xem mỗi khi Tánh Không hiện ra thì nó sẽ giống như thế nào, và nhất là không nên nắm bắt lấy nó. Chủ đích của Tánh Không là tạo ra cho các bạn một phương tiện vượt thoát cái chết - tức là sự trống không của cái "ngã" - thế nhưng tâm thức thì vẫn tiếp tục vận hành, hiểu biết và đọc được những gì bên trong nó. Không nên dán lên sự cảm nhận về Tánh Không một nhãn hiệu (một dòng chữ) nào cả, và cũng không nên bám lấy nó (và xem đấy là một sự thực hiện của mình). Tất cả cũng chỉ đơn giản có thế.
Tánh Không có nhiều cấp bậc và thuộc nhiều thể loại khác nhau . Tuy nhiên một khi đã có thể loại này và thể loại kia thì đấy không phải là Tánh Không đích thực, bởi vì bên trong cái Tánh Không ấy còn tàng ần ý định tìm hiểu xem là nó thuộc thể loại nào và mang các đặc tính như thế nào, v.v. (Tánh Không là một thể dạng cảm nhận, không phải là một đối tượng để hình dung hay tìm hiểu). Đấy là những gì phải suy nghĩ thật sâu xa nếu các bạn thật sự muốn tìm hiểu Tánh Không là gì. Nếu Tánh Không chỉ mang tính cách bên ngoài - có nghĩa là phát sinh từ một tâm thức an bình, không tư duy và đã loại bỏ được cảm tính về cái ngã - thì chưa phải là Tánh Không đích thật. Tánh Không đích thật nằm rất sâu, không phải ở cấp bậc thanh thản của tâm thức hay sự tập trung tâm thần. Tánh Không đích thật là một thứ gì đó vô cùng sâu kín.
Thế nhưng qua những gì mà chúng ta tự học hỏi được hoặc nghe người khác thuyết giảng thì chúng ta thường có xu hướng nghĩ rằng sự trống không của tâm thức trong thể dạng an bình