;
Quảng Nam: Trung ương GHPGVN viếng tang Cố Hòa thượng Thích Chơn Phát
Quang lâm chứng minh và tham dự có Hòa thượng Thích Thiện Nhơn - Chủ tịch HĐTS, HT. Thích Thiện Pháp - Phó Chủ tịch TT kiêm Trưởng Ban Tăng Sự TW, TT. Thích Thiện Thống - Phó Tổng Thư Ký kiêm Chánh VP 2 TW GHPGVN, HT Thích Thiện Pháp Phó chủ tịch kiêm Trưởng Ban tăng sự HĐTS TƯ GHPGVN, HT Thích Như Tín uỷ viên HĐTS TƯ GHPGVN- Phó BTS GHPGVN TP HCM- Trưởng môn phái Lâm Tế Chúc Thánh cùng chư tôn HT trong BTS GHPG TP HCM; HT.Thích Thiện Duyên, Thành viên HĐCM, Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Quảng Nam; HT.Thích Như Thọ, Thành viên HĐCM GHPGVN, Chứng minh BTS PG TP Đà Nẵng; HT.Thích Hạnh Niệm, UV HĐTS, Phó ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Quảng Nam; HT Thích Thiện Thành UVHĐTS TƯ GHPGVN, Phó BTS GHPGVN Tỉnh Quảng Nam; chư tôn đức Tăng Ni Thường trực BTS PG tỉnh Quảng Nam, BTS PG các huyện, thị xã, thành phố, chư tôn đức Tăng Ni trụ trì các tự viện trong và ngoài tỉnh, cùng đại diện các cấp chính quyền tỉnh Quảng Nam, TP.Hội An, phường Thanh Hà và địa phương sở tại cũng như đông đảo Phật tử các giới kính tiếc tiễn đưa.
Thay mặt Môn phong Tổ đình Long Tuyền, TT.Thích Đồng Nguyện, Trưởng ban Hoằng Pháp PG tỉnh, Trưởng ban Hoằng Pháp Phật giáo TP Hội An cung tuyên vài nét về hành trạng cuộc đời của Đại Lão Hòa thượng tân viên tịch.
Theo đó: Hòa thượng thế danh Nguyễn Nghi, sinh ngày 13-10 năm Tâm Mùi (1931) tại làng Kim Bồng, Xã Cẩm Kim, TP Hội An. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Gia, Pháp danh Ấn Hoa, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Xách pháp danh Như Quý. Ngài sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống Phật giáo, nhiều đời có người xuất gia học Phật.
Năm Đinh Sửu (1937), thân phụ ngài qua đời, kế tiếp năm sau thân mẫu cũng tạ thế để lại nhiều nỗi thương cảm trong lòng Ngài khi tuổi còn quá nhỏ.
- Năm Mậu Dần (1938), Ngài đến xuất gia tại chùa Long Tuyền với Hòa Thượng Phổ Thoại (cũng là chú ruột của Ngài) và được bổn sư ban cho Pháp danh Chơn Phát. Từ đây Ngài hầu Thầy học đạo. Tuy là cháu ruột nhưng Hòa Thượng bổn sư rất khắt khe so với chúng điệu cùng trang lứa.
Năm 1946, người Pháp trở lại đánh chiếm Việt Nam, Ngài theo dòng người tản cư lên Thanh Châu một thời gian dài. Năm 1949, sau khi hồi cư Ngài nhập chúng tu học tại chùa Phước Lâm do Hòa Thương Đương Như làm Trụ trì và ngài được đề cử làm Tri sự chăm lo việc chúng.
Năm Canh Dần (1950 )Ngài về lại chùa Long Tuyền hầu Thầy, cũng trong năm nầy, Hòa Thượng Bổn sư truyền giới Sa di cho Ngài và ban Pháp tự Đạo Dũng.
Năm Tân Mão (1951) Ngài được Bổn sư cho nhập chúng tu học tại chùa Chúc Thánh dưới sự chỉ dạy của Hòa Thượng Tăng cang Thích Thiện Quả.
Đầu năm Giáp ngọ (1954), thấy Hòa Thượng Bổn sư sức khỏe yếu dần, Ngài về lại Long Tuyền hầu Thầy. Vào ngày 15-3 năm Bính Ngọ (1954) Ngài được Bổn sư phú pháp hiệu là Long Tôn.
Ngày mồng 9 tháng 4 năm Giáp Ngọ (1954), Hòa Thượng Bổn sư viên tịch, Ngài cùng môn đồ lo việc tang lễ và xây dựng bảo tháp để báo đáp thâm âm giáo dưỡng của Thầy Tổ. Sau khi tang lễ viên mãn, Hòa Thượng Tăng Cang Thiện Quả đã cử Ngài làm tự trưởng chùa Long Tuyền. Tuy nhiên vì muốn thăng tiến trong việc tu học. Ngài đã thỉnh Hòa thượng Đương Như về trụ trì chùa Long Tuyền, còn Ngài thì vào miền Nam tu học.
Tháng 4 năm Ất Mùi (1955) dưới sự trợ duyên của Hòa Thượng Thích Trí Giác, Ngài xuống tàu vào Nam tu học, Ngài trú tại chùa Hưng Long Sài gòn và được Hòa Thượng Thích Trí Hữu đỡ đầu vào học tại Phật học đường Nam Việt tại chùa Ấn Quang, Chợ Lớn do Hòa Thượng Thích Thiện Hòa làm Giám đốc. Cũng trong năm nầy Ngài chính thức thọ Sa di giới tại chùa Ấn Quang do Hòa Thượng Thích Huệ Quang làm đàn đầu.
Năm Bính Thân (1957), Hòa Thượng thọ Cụ Túc Giới tại giới đàn chùa Hải Đức, Nha Trang vào các ngày mồng 7, 8 và 9 tháng Chạp năm Bính Thân (nhằm ngày 07,08 và 09-01 năm 1957 do Hòa Thượng Thích Giác Nhiên làm Đàn đầu truyền giới.
Tháng 3 năm Nhâm Dần (1962), Ngài trở về chùa Long Tuyền. Lúc nầy Hòa Thượng Đương Như đã già yếu nên giao việc Trụ trì để Ngài tiếp tục gánh vác Phật sự mà Thầy Tổ đã dày công gây dựng. Năm nầy, Ngài được chư tôn đức mời giữ chức vụ Trị sự phó Giáo hội Tăng già Quảng Nam, kiêm Giảng sư của Tỉnh hội.
Tháng 3 năm Quý Mão (1963), Hòa Thượng được mời giữ chức vụ Trị sự Trưởng Giáo hội Tăng già Quảng Nam. Cũng trong năm nầy, Phật giáo rơi vào Pháp nạn, Hòa Thượng là một trong những nhà lãnh đạo Phật giáo Quảng Nam tranh đấu cho sự trường tồn của Chánh pháp.
Kể từ ngày kế nghiệp Trụ trì chùa Long Tuyền, hằng năm Ngài đều tập chúng An cư tại đây. Từ đó, việc An cư tập trung của chư Tăng Quảng Nam được hình thành, song song với công việc nầy Ngài còn tổ chức tu Bát Quan Trai cho Phật tử tại gia và duy trì suốt mấy thập kỷ qua.
Là một người luôn ưu tư cho sự giáo dục đào tạo Tăng tài của Phật giáo Tỉnh nhà, vào năm Canh Tuất (1970) Hòa Thượng xin phép Tổng Vụ Giáo Dục mở Phật học Viện tại chùa Long Tuyền, đã được Tổng vụ cho phép và bổ nhiệm Ngài chức vụ Giám viện Phật Học Viện. Ngài liền cấp tốc mở lớp Trung Đẳng đặc biệt để đào tạo cán bộ kịp thời cho Giáo hội.
Năm Ất sữu (1985) Hòa thượng khai giới đàn truyền Cụ túc tại chùa Long Tuyền và được cung thỉnh làm đàn đầu Hòa Thượng.
Trong suốt cuộc đời tu hành, Hòa Thượng đã biên soạn và dịch một số tác phẩm như sau:
- Lịch sử Phật giáo Việt Nam
- Danh Tăng Tự Viện Phật giáo Quảng Nam
- Chùa Long Tuyền xưa và nay
- Thập đại đệ tử Phật (dịch)
- Đại cương ý nghĩa kinh Địa Tạng (dịch)
- Tứ đại và tứ đại chủng (dịch)
Phần lớn những tác phẩm của Ngài đều in dưới dạng lưu hành nội bộ để phổ biến cho Tăng, Ni, Phật tử trong tỉnh tham cứu.
Kể từ khi Trú trì chùa Long Tuyền đến nay, Hòa thượng từng bước trùng tu, kiến thiết các công trình nguy nga tráng lệ.
Với công phu tu tập tự thân và công đức sâu dày của Hòa Thượng trong sự nghiệp Hoằng pháp lợi sạnh, Hòa Thượng đã được TW.GHPGVN tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa Thượng trong kỳ đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ IV (2002-2007) đồng thời được cung thỉnh vào Hội đồng Chứng Minh GHPGVN.
Thời gian thấm thoát trôi qua, đời người cũng đã về chiều, Ngài thấy sức khỏe giảm đi nhiều nên giao tất cả mọi Phật sự tại chùa cho chúng đệ tử, còn Ngài nghiêm mật trì danh niệm Phật buông bỏ mọi duyên.
Kể từ năm Bỉnh thân 1957 Ngài tấn đàn thọ cụ túc đến năm Bính Thân nầy là vừa đúng 60 hạ lạp. Sau lễ kỷ niệm Phật Đản sinh PL 2560, DL 2016, chư Tăng vào mùa An cư kiết hạ mới được mấy ngày thì vào chiều tối ngày 22 tháng 4 năm Bính Thân, không bệnh tật gì Ngài nhóm họp đệ tử dặn dò rồi an nhiên viên tịch vào lúc 17g50' (tức giờ Dậu) Hưởng thọ 86 tuổi và 60 hạ lạp.
Dưới đây một số hình ảnh ghi nhận tại buổi lễ:
Nguồn: http://phatgiaoquangnam.vn