;
Pháp Môn Ứng Dụng
Có nhiều pháp môn tu tập chánh niệm để làm cho tâm ta được thanh thản không dấy động thêm nhiều nghiệp thức vốn hệ lụy đến tâm viên ý mã hoặc tư tưởng vẩn vơ. Quán Tứ Niệm Xứ và Minh Sát Tuệ là căn bản. Thật ra tĩnh thức đều lấy Chơn Trí mà thực hành, chẳng hạn:
Trong Ðại Kinh Sáu Xứ do Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch: Phật giải về nhản căn sắc trần và nhãn thức theo chơn trí. Chúng ta nhìn một vật thì thấy và biết như chơn mắt, thấy biết như chơn các sắc, thấy biết như chơn nhãn thức vì chúng ta đã hiểu được chơn mắt, chơn các sắc, và chơn nhãn thức theo thật tướng của chúng như đã trình bày trên. Chơn mắt, chơn sắc, và chơn nhãn thức là một khi nhìn một vật gì thì sử dụng một lần mà thôi (vô thời gian.) Nếu không kéo dài thời gian thì vật đó còn nguyên thủy: nó-là-nó tại đó và lúc đó, vô thời không hay mắt, sắc (vật,) hay thấy (nhãn thức) vẫn còn chơn nguyên, thấy biết không bị xúc thọ ái lăn trôi theo thời gian mà có những khái niệm, nên mắt, sắc, thấy biết không thay đổi, cố định. Nói chung, trong Tâm chúng ta đều có chứa sẵn biểu hiện Trí Năng, Tình Năng và Hoạt Năng, nên dây thần kinh dẩn truyền lên não hình ảnh của chơn sắc từ chơn mắt để có chơn nhãn thức thì đồng thời đã xúc chạm dây thần kinh thị giác, có nhân nhãn xúc; do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vì chúng ta thấy biết chơn cảm thọ không có thời gian, nên không có ái trước (trong A Lại Da Thức) đối với mắt (mắt không lập lại,) không có ái trước đối với các sắc (hình ảnh các sắc có sẵn tích tụ) và ái trước đối với nhãn xúc (Xúc có sẵn trong ký ức của A Lại Da Thức.) Từ đó do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ mà không có ái trước đối với cảm thọ ấy.
Chữ TÂM Của Chư Phật
Phật Tử đã thấu hiểu lý lẽ chân thật của cuộc đời là vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn, không có gì là tự nhiên sanh mà không có nguyên nhân. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy, "Nhứt thiết duy tâm tạo." Mọi sự mọi việc đều do tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do tâm tạo, nghiệp chướng cũng bởi tại tâm.
Chính là tâm viên ý mã, sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi luôn luôn, thường do tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên con người thường tạo nghiệp bất thiện nhiều hơn là nghiệp thiện mà luật nhân quả áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Nhân nào thì quả nấy.
Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm đã diệt rồi tội cũng vong
Tội vong tâm diệt cả hai không
Đó chính thực là chân sám hối.
Tất cả những tội lỗi gây ra, dù là một niệm đều do tâm chúng ta chủ động, phải thành tâm mà sám hối, Từ đó, chúng ta phát nguyện không tái phạm, cho nên mỗi khi tâm tham, tâm sân, tâm si khởi lên, chúng ta liền biết ngay, dừng lại, không làm theo sự điều khiển, sai khiến của tham sân si, thì tội lỗi sẽ không còn tái phạm nữa. Khi tội lỗi không còn, tâm sanh diệt cũng lặng mất, chúng ta sẻ sống trong trạng thái tịch tịnh, bình yên của tâm trí.
Trong Kinh Vị Tằng Hữu, Đức Phật dạy: Tâm trước nghĩ ác, như đám mây đen che khuất mặt trời. Tâm sau ăn năn nghĩ thiện, như ngọn đuốc sáng tiêu trừ hắc ám. Cái tâm ý điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội tạo nghiệp này, luôn luôn nghĩ đến các điều ác, điều bất thiện, lợi mình hại người, là nguyên nhân chính dẫn chúng sanh vào vòng sanh tử luân hồi, vào cảnh giới đen tối, như đám mây đen che khuất mặt trời. Khi giác ngộ chánh pháp con người biết ăn năn sám hối, bỏ ác làm thiện, tâm trí bình yên sáng suốt, tam đồ ác đạo lánh xa, con người gần với cảnh giới niết bàn hơn, như ngọn đuốc sáng tiêu trừ hắc ám. Cho nên làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của đạo Phật.
Mọi sự mọi việc trên thế gian này như thế nào đều từ vọng tâm nhị nguyên của chúng ta biến hiện ra cả. Sự cảm thọ tùy theo tâm trạng, tùy theo cá nhân, không ai giống ai, không lúc nào giống với lúc nào, không thời nào giống với thời nào, không nơi nào giống với nơi nào. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy, "Tùy tâm biến hiện." Hay,
"Tâm buồn cảnh được vui sao. Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an."
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật dạy, "Tam giới tâm tận, tức thị niết bàn." Nghĩa là khi nào dứt sạch tâm trong ba cõi, lúc đó chúng ta mới thấy được niết bàn. Ba cõi, còn gọi là tam giới, đó là: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Khi tâm tham nổi lên, chúng ta sống trong dục giới, tức là cảnh giới đắm nhiễm tham dục, cảm thấy đau khổ triền miên vì lòng tham của con người không đáy, không bao giờ thỏa mãn được. Con người sống trong dục giới lúc nào cũng cảm thấy khao khát, thiếu thốn, được bao nhiêu cũng không thấy đủ, cho nên luôn luôn tìm kiếm ngũ dục: tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Khi tâm sân nổi lên, ngay lúc đó, chúng ta sống trong sắc giới, tức là cảnh giới chấp chặt sắc tướng, lòng như thiêu đốt, sắc mặt hung dữ, vì sự tức giận, hay vì bất mãn. Khi tâm si nổi lên, chúng ta sống trong vô sắc giới, tức là cảnh giới vô minh, rất dễ lầm đường lạc nẽo, mê tín dị đoan, rất dễ dàng tạo tội tạo nghiệp bằng nhửng hành động thiếu suy nghĩ, hãm hại trả thù, hại mình hại người. Những giây phút ngu si, lầm lẫn thường là nguyên nhân và hậu quả của những sự hối tiếc, đau khổ sau đó, cho mình và cho người khác, có khi kéo dài triền miên suốt cả cuộc đời.
Dù tâm tham, và tâm sân không còn nhưng còn tâm si thì vẫn tai hại vô cùng. Bởi vậy cho nên phải dẹp trừ tận gốc các tâm tham sân si. Chúng ta phải viễn ly tam độc mới có cuộc sống mới an lạc và hạnh phúc.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai. Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật dạy, "Người nào giữ được nhứt tâm bất loạn, trong một ngày cho đến bảy ngày, khi lâm chung giữ tâm không điên đảo, thì người đó được vãng sanh tây phương."
Trong Kinh Đại Tập, Đức Phật dạy, "Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm, tâm không loạn động, dứt trừ được phiền não, thì chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề." Nghĩa là người tu tập phải luôn luôn quán sát tâm chính mình, luôn luôn giữ gìn chánh niệm, luôn luôn niệm Phật, khi vọng tâm vọng tưởng vọng thức vọng niệm khởi lên, liền biết, không theo. Nhờ đó tâm được an nhiên tự tại, không loạn động, dứt trừ được phiền não, gọi là: nhứt tâm bất loạn. Nhờ công phu tu tập đó, chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề. Khi lâm chung giữ được tâm không điên đảo, cho nên được vãng sanh cảnh giới tịnh độ. Muốn làm được điều này, muốn giữ được tâm trí nhứt như không loạn động, con người phải thấu hiểu và thực hành quán tứ niệm xứ, gồm có: thân, thọ, tâm, pháp.
Quán thân bất tịnh, nghĩa là quán tưởng tấm thân nhục thể vô thường của mình chỉ là một tập hợp từ ngũ uẫn. Quán tấm thân này không phải là mình, đừng bận tâm chuyện còn hay mất, chết rồi cũng bỏ lại không đem theo được.
Quán thọ thị khổ, nghĩa là quán tưởng sự cảm thọ, thọ nhận là khổ, càng chấp chặt chuyện thị phi phải quấy, càng thọ nhận nhiều cảm giác, càng đau khổ nhiều mà thôi. Buông xả thì thanh thản, tha thứ thì thư thái.
Quán tâm vô thường, nghĩa là quán tưởng cái tâm vô minh của mình luôn luôn thay đổi, sanh diệt liên miên, mới nghĩ thế này liền nghĩ thế khác. Tâm (tâm phan duyên) của chúng ta luôn luôn dính với cảnh trần bên ngoài, kinh sách gọi là: Cảnh trần bên ngoài đẹp mắt, vừa tai, thuận ý, thì sanh tâm vui thích. Cảnh trần bên ngoài chói tai gai mắt, nghịch ý, thì sanh tâm tức tối. Nếu cứ theo sự sai khiến của cái tâm vô thường như vậy, chúng ta tạo tác không biết bao nhiêu nghiệp chướng, cho nên trôi lăn, trầm luân trong sinh tử không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.
Quán pháp vô ngã, nghĩa là quán tưởng các pháp trên thế gian này đều không có bản thể nhứt định, gọi là: vô ngã. Các pháp, tức là tất cả sự sự vật vật trên đời, không có cái gì cố định, không phải tự nhiên sanh ra, không phải tự nhiên diệt đi. Tất cả chỉ là một dòng chuyển biến không ngừng. Con người thấy đó mất đó. Chuyện gì rồi cũng đổi thay, rồi cũng qua mau. Đừng phí sức, đừng bận tâm với các pháp sanh diệt của thế gian.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy, "Lục căn chính là cội gốc của sanh tử luân hồi. Lục căn cũng là cội gốc của giải thoát niết bàn." Bởi vì, lục căn của chúng ta, tức là sáu giác quan, gồm có: nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân và ý, khi tiếp xúc với lục trần, tức là sáu trần cảnh bên ngoài, gồm có: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, mà không đắm nhiễm, không dính mắc, không sanh lục thức, trong kinh sách gọi là: lục tặc, thì chúng ta đâu có bị phiền não, trong lòng đâu có nổi sóng gió, gọi là: tam bành. Dù hằng ngày vẫn tiếp xúc với mọi người, mọi cảnh trong cuộc đời, chúng ta không tham, không sân, không si. Giữ gìn được như vậy tức là chúng ta giải thoát khỏi phiền não khổ đau, sống trong cảnh giới niết bàn an lạc, ngay hiện đời vậy.
Mắt trông thấy hình sắc thì nhận biết rõ ràng nhưng tâm không khởi niệm thương hay ghét, ưa hay không ưa. Tai nghe thấy tiếng thì nhận biết rõ ràng đó là tán thán hay phê phán, nhưng tâm không khởi niệm khoái chí hay bực bội. Mũi ngửi thấy mùi thì nhận biết rõ ràng là mùi hương gì, nhưng tâm không khởi niệm thích hay không thích. Lưỡi nếm vị thì nhận biết rõ ràng là vị gì, nhưng tâm không khởi niệm khen ngon hay chê dở. Thân xúc chạm thì biết rõ ràng là tốt hay xấu, nhưng không khởi niệm dễ chịu hay khó chịu. Tâm ý nghĩ suy thì nhận biết rõ ràng là đúng hay sai, phải hay quấy, nhưng tâm không khởi niệm kỳ thị, đố kỵ, so sánh, hơn thua, tranh chấp thì chúng ta đã thoát khỏi vòng trầm luân sanh tử khổ đau đó vậy.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy, "Căn bản của sanh tử luân hồi là Vọng Tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn là Chân Tâm." Nghĩa là chúng sanh sở dĩ bị trầm luân sanh tử vì luôn luôn sống với vọng tâm, tức là tâm viên ý mã, tâm phân biệt, luôn luôn thay đổi. Muốn tâm trí sáng suốt thanh tịnh, an nhiên tự tại, chúng ta cần quán sát tâm chính mình: Khi các vọng tâm nổi lên, chúng ta liền biết, không theo, như vậy vọng tâm lắng xuống, diệt mất, chân tâm hiện ra rõ ràng.
Bản tâm thanh tịnh, hay chân tâm bất sanh bất diệt, không sanh không diệt, thường hằng, vĩnh viễn, luôn luôn hiện hữu. Chỉ có vọng tâm: tham lam, sân hận si mê, mới có sanh và diệt, mà thôi. Chẳng hạn như khi gặp chuyện bất như ý, tâm liền khởi sanh bực tức oán giận. Lúc đó, chúng ta quên mất bản tâm thanh tịnh của mình, tức là quên mất mình là ai, chỉ biết tức tức giận giận. Lâu sau nguôi dần, tâm trở lại trạng thái bình thường, tâm sân hận diệt đi, không còn nữa. Sanh diệt có nghĩa là như vậy.
Chân Tâm, tức là bản tâm thanh tịnh mà tất cả nhân sinh đều có. Giáo lý của đạo Phật cao siêu mầu nhiệm ở chỗ chỉ bày rõ ràng chân lý không phân biệt, không kỳ thị, tất cả mọi người đều có thể hiểu một cách rõ ràng. Muốn làm được điều này, muốn chân tâm hiển hiện, chúng ta cần phải thấu hiểu và tu tập bốn tâm rộng lớn (tứ vô lượng tâm.) Đó là từ, bi, hỷ, xả. Khi có tâm từ và tâm bi, chúng ta sẽ dễ cảm thông với muôn loài, nhứt là với loài người, với những người chung quanh. Do đó, tâm giận tức, tâm sân hận có thể giảm bớt, nhẹ bớt đi. Khi có tâm hỷ và tâm xả, chúng ta sẽ bớt được các tâm ganh tị, tâm đố kỵ, tâm hơn thua, tâm cố chấp. Cho đến khi nào tứ vô lượng tâm tròn đầy, vọng tâm tan biến, tâm ý trở nên an nhiên tự tại, chân tâm hiển hiện. Đây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo đạo Phật, " Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không theo, đó là chân tâm. Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác kịp thời, liền theo niệm đó, trở thành vọng tâm. Cũng ví như là khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động, ví như cái tâm lăng xăng lộn xộn. Mặc dù gió thổi, mặt biển vẫn yên, là biển thái bình, cũng ví như là bản tâm thanh tịnh, hay tâm bình thường. Điều đáng quan trọng không phải là vọng tâm thay đổi bất chợt, bất thường nói trên, mà chính là cái chân tâm, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm, của tất cả chúng ta vậy." Nhận được thế nào là chân tâm, chính là mục đích cứu kính của đạo Phật, được Đức Phật giảng giải rõ ràng trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Tâm Địa Quán, Kinh Kim Cang, Bát Nhã Tâm Kinh, Linh Lăng Già, Kinh Hoa Nghiêm và trong nhiều bộ kinh điển khác.
Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật dạy, "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách." Nghĩa là khi ngộ được bản tâm thanh tịnh, soi xét thấy rõ năm uẩn đều không, tâm không còn ngăn ngại, không còn sợ hải, chúng ta sẽ vượt qua được tất cả mọi khổ ách, xa lìa điên đảo mộng tưởng, đạt được cứu cánh niết bàn. Năm uẩn gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Phần thân xác, có hình tướng, nhận thấy được bằng mắt thường, gọi là sắc. Phần tinh thần, hay tâm linh, không hình tướng, không nhận thấy được bằng mắt thường, gồm có thọ, tưởng, hành, thức. Chúng ta nên biết rằng nguồn gốc của mọi sự đau khổ trên thế gian này đều do tâm cố chấp nhiều thứ, nhất là chấp ngã, chấp pháp, mà ra.
Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy: Con người vì vô minh cho nên có hai thứ chấp:
chấp ngã và chấp pháp. Đó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc đời. Nếu hiểu được một cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính gây ra khổ đau này, chúng ta sẽ tìm được an lạc và hạnh phúc thực sự ngay trong cuộc sống hiện tại.
Chấp Ngã là chấp cái sắc thân giả tạm và cái vọng tâm vô thường, trong kinh sách gọi chung là ngũ uẩn, lại cho là thực, lại tưởng chính là mình (cái tôi,) cho nên mới phiền não và khổ đau. Cái sắc thân tứ đại giả tạm này của con người bao gồm bốn thứ: đất, nước, gió, lửa, không phải là thực. Bởi vì nếu sắc thân tứ đại này thực là của con người, thì nó phải tuân lệnh và tùy thuộc quyền xử dụng của con người. Con người ai ai cũng muốn cái thân tứ đại trường sanh bất tử này trẻ mãi không già, khỏe mãi không đau, còn mãi không hoại. Cho nên quán thấy năm uẩn đều không, sắc tướng và vọng tâm đều không thực, con người phá được sự quan trọng của bản ngã, dẹp được tự ái, thoát được phiền não, không còn khổ đau, cho nên tâm trí an nhiên tự tại. Đó là giáo lý vô ngã của đạo Phật.
Chấp Pháp nghĩa là đối với tất cả các pháp trên đời, bao gồm mọi sự mọi việc thế gian, con người chấp chặt vào tập quán, chủ quan cá nhân, thành tích khả năng, suy nghĩ hiểu biết, kiến thức sở học, kinh nghiệm bản thân, không muốn thay đổi, không muốn cải thiện, không muốn sửa chữa, không muốn chuyển hóa, không muốn nghe ai, luôn luôn chấp chặt chỉ mở cái miệng lưỡi lắc léo không xương tạo ra khẫu nghiệp. Đời người chẳng qua chỉ là hơi thở, khi thở hơi ra mà chẳng hít vào được nữa, thì ô hô tử vong. Mi thở mi sống!
Trong Kinh Tịnh Danh, Đức Phật dạy: Mặt trời mặt trăng vẫn thường sáng tỏ, tại sao người mù lại chẳng thấy? Chúng ta như người mù biết mà không thấy được tự tâm bởi vì nghiệp thức che đậy, chúng sanh thường biết đó là chân lý nhưng vẫn cố chấp vào cái biết chủ quan, cho nên chẳng thấy thế giới Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, chẳng nhận ra bản tâm thanh tịnh thường hằng.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật dạy: Tất cả chúng sinh đều có bản tâm thanh tịnh. Chúng sinh chẳng nhận thấy được, vì bị vô minh che lấp. Con người ai ai cũng có bản tâm thanh tịnh, luôn luôn sáng tỏ. Chỉ vì tâm tham lam, hoặc vì tâm sân hận, hoặc vì tâm si mê cố chấp cho nên con người mới tạo tội tạo nghiệp, làm cho tâm trí loạn động, thường xuyên bất an, điên đảo loạn cuồng, để rồi trôi lăn vào vòng sanh tử luân hồi, đã muôn kiếp trước, và sẽ tiếp tục trôi lăn, muôn kiếp về sau, khó mà dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Chính vì biết như vậy mà cố chấp không chịu kiến vì bị nghiệp thức che đậy, vô minh che lấp, con người chẳng thấy được thế giới Như Lai trang nghiêm, bản tâm thanh tịnh.
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy: Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc. Chuyện quá khứ qua rồi đừng luyến tiếc, đừng nhớ nghĩ làm gì cho bận tâm, chỉ gieo thêm nghiệp chướng chứ chẳng ích lợi gì. Chuyện hiện tại rồi cũng qua mau, cố níu kéo cũng chẳng được, có lo âu phiền muộn cũng chẳng ích lợi gì. Chuyện tương lai chưa đến, lo lắng, ưu tư, sầu muộn cũng chẳng ích lợi gì. Cho nên, giữ gìn tâm trí được như như, bình tĩnh, thản nhiên. Đó chính là nghiệp quả, nghiệp báo, quả báo mà ra. Chuyện gì phải tới nó sẽ tới, lo sợ cũng chẳng ngăn cản được đâu. Cứ bình tỉnh mà run!
Hiểu sâu được luật nhân quả, chúng ta sẽ bình tĩnh thản nhiên chấp nhận quả báo xảy đến. Nếu không muốn có quả báo xấu, chúng ta phải chấm dứt gây nghiệp nhân xấu, tức là chấm dứt tâm tham sân si, tức là dừng ba nghiệp thân khẩu ý bất thiện. Trong kinh sách gọi là dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Thấy thì dể, nói dể, hiểu dể nhưng hành mới khó! Mấy người chúng ta làm được nhửng điều Phật dạy này?
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy, "Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng tâm mình là điều cao quí nhứt." Thắng người dể hơn tự thắng chính mình. Tự thắng mình tức là tự kềm chế hành động, ngôn ngữ, ý nghĩ của chính mình. Tự thắng tâm mình, nhẫn nhịn được mà không thấy nhục nhằn, nhịn mà không nhục, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, mới đáng kính phục, mới là điều cao quí nhứt. Muốn làm được như vậy, tức là muốn tự thắng tâm mình, chúng ta cần phải tu tập ba môn học giải thoát, còn gọi là tam vô lậu học, đó là Giới, Định, Tuệ. Giới là ranh giới, là hàng rào ngăn ngừa chúng ta tạo tội tạo nghiệp. Phật Tử tại gia có 5 giới phải giữ, đó là sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Phật Tử phát tâm xuất gia, trở thành tu sĩ, phải giữ 10 giới, 250 giới, hay 348 giới, tùy theo thời gian và công phu tu tập. Nhờ giữ gìn nghiêm ngặt các giới luật, cho nên không tạo tội tạo nghiệp, tâm mới được an nhiên tự tại, trong kinh sách gọi là tâm thiền định. Khi tâm an định được bao nhiêu, trí tuệ bát nhã phát sanh bấy nhiêu, nhờ đó chúng ta thêm tinh tấn, thấu rõ chánh pháp, tiến nhanh trên con đường giác ngộ và giải thoát.
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật dạy, "Không hạnh phúc nào có thể so sánh với sự yên tĩnh của tâm trí." Trên thế gian, con người cảm thấy hạnh phúc dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Có người cho rằng giàu sang quyền thế, danh vọng, địa vị, đó là hạnh phúc. Thực sự, những người như vậy vẫn còn khổ đau phiền não và sanh tử luân hồi, vẫn sống với vọng tâm điên đảo, trong tâm trí không thực sự được an lạc vì chấp trụ vào hữu thường. Cho nên, hạnh phúc tối thượng chính là sự yên tĩnh của tâm trí. Bởi vì, sự yên tĩnh của tâm trí có thể giúp đỡ con người đạt được giác ngộ và giải thoát.
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật dạy, "Tâm khẩu nhứt như (Tâm khẩu không khác.)" Tâm nghĩ sao, miệng nói vậy. Cho nên tâm nên nghĩ tốt thì miệng sẻ nói tốt. Như vậy, mới không bị khẩu nghiệp, cuộc sống mới được an lạc. Ngược lại, tâm nghĩ một đàng, miệng nói một nẻo, miệng nói như vậy, tâm không như vậy, nên sách có câu: Miệng thì nói tiếng nam mô. Trong lòng chứa cả một bồ dao găm. Hay thường ngụy biện cho mình là khẩu xà tâm Phật nhưng thật sự là khẩu phật tâm xà khó mà lấy thước để đo được lòng người. Trong sách có câu: Tri nhân tri diện bất tri tâm, nghĩa là biết người chỉ biết mặt, không biết được tâm địa. Cho nên chư Tổ có dạy: Phản quan tự kỷ, nghĩa là hãy quay lại, quán sát tâm chính mình, để giữ tâm khẩu nhứt như.
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật dạy, "Chủng chủng hý luận kỳ tâm tắc loạn. Nhược đắc định giả tâm tắc bất tán." Người nào bàn luận một cách vô ích những chuyện thị phi, đúng sai phải quấy, tranh đua hơn thua, tâm ý của người đó tức nhiên loạn động. Còn người nào khắc chế được tâm niệm của mình, người đó đắc được cảnh giới thiền định, dù là sơ thiền, nhị thiền tam thiền, hay được tứ thiền, tức nhiên tâm ý không còn tán loạn nữa. Khi tâm địa, hay tâm thức của con người, hoàn toàn không tịch, trống rỗng lặng lẽ, lẵng lặng thanh tịnh, không còn chứa chấp những vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm nào cả, thì trí tuệ bát nhã tự bừng sáng. Tâm được thanh tịnh thì cảnh vật cũng thanh tịnh, chúng sanh chung quanh cũng được bình yên.
Trong Kinh Tịnh Danh và Kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật dạy, "Tâm tịnh thì độ tịnh. Tâm địa bình thì thế giới bình." Khi những vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm đã dứt sạch, người tu tập không còn tham, không còn sân, không còn si. Đến đây, người tu tập đạt được cảnh giới bất nhị, không còn thị phi, tú cú, không còn tạo nghiệp, không còn cố chấp. Trong kinh sách gọi đó là cảnh giới: vô tâm vô niệm, hay là cảnh giới: nhứt tâm bất loạn. Lúc đó, tâm tịnh, tâm địa bình, tâm vô quái ngại, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, tức là tâm an nhiên tự tại, không còn điều gì có thể ngăn ngại được. Do đó, chúng ta xa rời những thứ điên đảo, lìa bỏ được mộng tưởng, đạt được cứu kính niết bàn. Làm cho mọi người chung quanh cảm thấy an ổn, yên tâm, khi sống gần và tiếp xúc người tu tập có tâm tịnh, tâm địa bình. Chúng sinh tu được tâm tịnh thì thế giới sẻ được thanh bình, quốc gia an ninh, xã hội lành mạnh, gia đình hạnh phúc và đời sống sẻ bớt khổ đau.
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật dạy, "Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện." Nghĩa là khi khắc chế được tâm ý, trụ tâm ở một chỗ, bằng cách tụng kinh, niệm Phật, thiền quán, qua sự hiểu biết chánh pháp, tâm trí bình tĩnh thản nhiên, không còn chuyện gì để cãi vã nữa, để tranh chấp nữa, cho nên không có sự việc gì người tu tập không hiểu biết sáng tỏ, rõ ràng, không biện luận được một cách thông suốt. Điều này giải thích rằng không có vị Phật nào không biết thuyết pháp độ sanh.
Còn nữa...