;
Tuy nhiên ngoài bản tiểu sử ngắn ngủi do Uỷ Ban Liên Phái bảo vệ Phật giáo đưa ra sau sự kiện tự thiêu ngày 11 tháng 6 năm 1963, tức ngày 20 tháng tư nhuận năm Quí Mão, mà sau này đã trở thành tư liệu chính thức phổ biến rộng rãi trong các sách báo cho tới tận hôm nay, cuộc đời của bồ tát Quảng Đức trước thời điểm tự thiêu đó vẫn chưa được nghiên cứu rõ ràng.
Thông thường, chúng ta chỉ biết bồ tát Quảng Đức khi lên 7 tuổi thì được cha mẹ cho cậu ruột mình là thiền sư Hoằng Thâm nuôi dạy, rồi xuất gia và đặt tên đạo là Thị Thuỷ, tự là Hạnh Pháp và hiệu là Quảng Đức. Sau khi thọ giới cụ túc, bồ tát nhập thất tu hạnh đầu đà ba năm, xong thì đi hành hoá ở vùng Vạn Ninh và giữ nhiệm vụ kiểm tăng của Chi hội Phật học Ninh Hoà. Đến năm 1943 vào Nam hành hoá, để tới năm 1963 thì phát nguyện tự thiêu. Về giai đoạn bồ tát Quảng Đức ở Vạn Ninh, ta chỉ biết nét đại cương như vừa thấy.
Gần đây, trong dịp đi điền dã tại Khánh Hoà, nhờ sự giúp đỡ tận tình của đại đức Thích Như Hoằng, một số tư liệu liên hệ đến hoạt động Phật sự của bồ tát Quảng Đức tại vùng Vạn Ninh trước năm 1945 đã được phát hiện, cung cấp cho ta một cái nhìn mới về cuộc đời của bồ tát trong giai đoạn ấy, giai đoạn hình thành nhân cách xả kỷ cứu nhân của bồ tát.
Do thế, chúng tôi cho rằng những phát hiện mới này sẽ đem lại một hiểu biết rõ ràng hơn về con người bồ tát Quảng Đức.
Số tài liệu nầy bao gồm ba loại. Loại thứ nhất là bảy văn kiện liên hệ trực tiếp đến bồ tát Quảng Đức. Loại thứ hai là một văn kiện của bổn sư bồ tát Quảng Đức là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm viết để cúng ruộng cho chùa Long Sơn và tổ đình Linh Sơn và một bài minh khắc trên chuông chùa Long Sơn vào năm Duy Tân thứ hai (1907) do thiền sư Hoằng Thâm đúc sau khi làm chùa xong.
Loại thứ ba là những văn kiện liên hệ với tổ đình Linh Sơn và thiền sư Chơn Hương Huyền Túc Thiên Quang (1862-1939), bổn sư của thiền sư Như Đạt Hoằng Thâm.
Đây là số tư liệu lần đầu tiên phát hiện và công bố, giúp ta có một hiểu biết rõ ràng hơn về hoạt động Phật sự của bồ tát Quảng Đức từ những năm 1917-1945 cùng của các thầy tổ đã tác thành nên con người Quảng Đức trong nửa đầu của thế kỷ XX.
Tập sách này chia làm bốn chương. Chương thứ nhất là dịch và công bố toàn bộ mười bốn văn kiện liên hệ đến bồ tát Quảng Đức. Chương thứ hai là dịch và công bố văn kiện cúng ruộng của Thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm. Chương thứ ba là dịch và công bố các văn kiện liên hệ đến Tổ sư Chơn Hương Thiên Quang và tổ đình Linh Sơn.
Tất cả các bản dịch văn kiện này đều theo niên đại ra đời của chúng, và được đánh số liên tục từ 1 đến 27. Chương thứ bốn là ghi nhận một số nhận xét của chúng tôi về các văn kiện ấy, đặc biệt trong liên hệ với cuộc đời hoạt động Phật sự của Bồ-tát Quảng Đức. Cuối sách chúng tôi cho thiết lập lại niên biểu chi tiết cuộc đời bồ tát Quảng Đức cùng các sự kiện liên hệ.
Số tư liệu mới phát hiện này không chỉ cho ta biết về con người bồ tát Quảng Đức, mà còn về các vị thầy tổ đã có công giáo dưỡng và hình thành nên nhân cách xả kỷ vừa nói. Nhân cách ấy không phải ngày một ngày hai mà có được.
Nó phải trải qua một quá trình tu dưỡng lâu dài trong một truyền thống Phật giáo tích cực nhập thế mình vì mọi người. Số tư liệu vừa nêu cho ta biết thêm về các hoạt động Phật sự của bổn sư bồ tát Quảng Đức là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm và của tổ sư Chơn Hương Thiên Quang.
Không những thế, số tư liệu này còn giúp ta có một nhận thức rõ ràng hơn về một giai đoạn Phật giáo tại một địa phương không nỗi bật lắm về truyền thống Phật giáo như vùng Vạn Ninh, khi Phật giáo Việt Nam cũng như dân tộc đang thực hiện một công cuộc chuyển mình lớn, để đưa dân tộc cũng như Phật giáo từ dạng truyền thống sang dạng hiện đại vào cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX. Đây là một giai đoạn lịch sử chưa được nghiên cứu đầy đủ do chưa tập hợp được nhiều tư liệu.
Bởi vai trò quan trọng của số tư liệu vừa nêu, chúng tôi đề nghị cho phiên dịch và in lại bộ nguyên bản toàn bộ văn kiện trên, nhằm làm cơ sở cho việc nghiên cứu không chỉ cuộc đời bồ tát Quảng Đức, mà còn cả một giai đoạn Phật giáo đầy biến động của lịch sử dân tộc được đầy đủ hơn trong tương lai.
Vạn Hạnh đầu hạ năm Ất Dậu (2005 )
Lê Mạnh Thát
Mười bốn văn kiện về bồ tát Quảng Đức Như ta đã biết, bồ tát Quảng Đức sinh tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà vào năm Đinh Dậu (1897), sau đó được cậu ruột mình là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm (1865-1921) đem về nuôi cho xuất gia đã đặt pháp danh là Thị Thủy, pháp tự là Hạnh Pháp và pháp hiệu là Quảng Đức.
Trong đợt điều tra điền dã mùa hè năm 2005, được sự giúp đỡ và cung cấp của đại đức Thích Như Hoằng trú trì chùa Thiên Tứ ở Núi Đất thuộc làng Mỹ Trạch, xã Ninh Hà, huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà, chúng tôi đã thu thập được một số tư liệu liên hệ đến hoạt động Phật giáo của bồ tát Quảng Đức trong nửa đầu thế kỷ XX tại vùng Vạn Ninh cùng tổ đình Long Sơn, nơi bồ tát Quảng Đức xuất gia và sau đó làm tri sự và tổ đình Linh Sơn, nơi Bồ Tát kế thế làm trú trì vào những năm 1939-1945. Nhân đây, cho phép tôi cám ơn đại đức Như Hoằng đã hết lòng giúp đỡ và cung cấp các tài liệu liên quan đến bồ tát Quảng Đức và tổ đình Linh Sơn tại Vạn Ninh.
Về mười bốn văn kiện liên hệ đến bồ tát Quảng Đức, chúng tôi lần lượt dịch nghĩa toàn bộ chúng tuần tự từ thời điểm sớm nhất cho đến muộn nhất và đánh số theo thứ tự thời điểm ra đời của chúng từ 1 đến 14.
1. Văn kiện ngày 25 tháng 4 năm Bảo Đại thứ 8 (1933)
Khổ 15.5 x 28 gồm 2 tờ giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi. Toàn bộ viết bằng chữ Nho. Chỉ có lời phê của một thủ trưởng (chef de poste) viết bằng bút sắt mực tím. Giữa 2 tờ có đóng dấu giáp lai của xã Phước Thuận và dấu triện của phủ Ninh Hoà.
Bần tăng chùa Thiên Ân xã Phước Thuận tổng Phước Khiêm phủ Ninh Hoà hiệu Quảng Đức cúi đầu trình xin thương xét phê làm bằng cho phép bần tăng lạc thành chùa Phật sự việc như sau:
Năm trước bần tăng có lòng thành, thầm nguyện tu tạo cửa ngõ, đúc vẽ tượng Phật, mọi việc đã hoàn tất. Nay hào lý bổn xã và bần tăng đều chọn giờ Thân ngày 26 tháng này thiết trai, lập đàn, đánh trống, thỉnh chuông, mỗi lễ cẩn thận đầy đủ trai giới sám hối, để đền trả công ơn của Phật tổ. Đến giờ Ngọ ngày 28 thì lễ hoàn mãn.
Bần tăng đến báo rõ cho hào lý sở tại ký nhận, rồi báo rõ cho chánh phó ở trong tổng ký nhận sự thật, nhưng còn trộm sợ không có bằng chứng, chẳng dám tự tiện. Vì thế, cúi xin quan phủ đường đại nhân các hạ xét thương, phê chữ cho phép bần tăng trả ơn Phật tổ. Muôn ngàn trông cậy. Nay cúi đầu trình
Ngày 25 tháng 4 năm Bảo Đại thứ 8 (1933) (có đóng dấu Ninh Hoà phủ ấn và 6 con tem Indochine francais dán hai bên dấu)
Chánh tổng Nguyễn Liên ký (có đóng dấu của tổng Phước Khiêm)
Phó tổng Nguyễn Mộc Phỏng ký
Tùng bát phẩm đội trưởng Võ Văn Đạt thủ ký
Đại hào Lê Đàm thủ ký
Lý trưởng Nguyễn Sanh ký (có đóng dấu của xã Phước Thuận)
Tộc biểu Nguyễn Nhượng thủ ký
Lão nhiêu Lê Mưu thủ ký
Tộc biểu Lê Giảng thủ ký
Tộc biểu Đỗ Uý (có lăn dấu tay)
Tộc biểu Hoàng Huề thủ ký
Tộc biểu Bùi Thậm thủ ký
Tộc biểu Dương Lang (có lăn dấu tay)
Tộc biểu Hồ Qua (có lăn dấu tay)
Tộc biểu Phan Mãnh (có lăn dấu tay)
Tộc biểu Trần Túc (có lăn dấu tay)
Hương bộ Hoàng Tri thủ ký
Hương kiểm Nguyễn Huấn thủ ký
Hương bổn Nguyễn Nghĩa thủ ký
Bần tăng chùa Thiên Ân hiệu Quảng Đức thủ ký
2. Văn kiện ngày 20 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 12 (1937)
Gồm 11 tờ giấy bổi, khổ 14.5 x 2. Trong đó có 2 tờ chép trùng nhau và có đóng dấu của xã Phước Thuận. Chưa rõ lý do cụ thể tại sao lại có một bản chép trùng nhau như thế. Đây chắc là để bảo đảm, nếu bản chính có mất thì còn có bản phó.
Nội dung là để xin sắc tứ cho chùa Thiên Ân. Từ tờ 3 trở đi trên bản danh sách của người ký xin đều có ghi tám chữ Khất mông ân tứ Thiên Ân tự từ (Đơn xin được sắc tứ cho chùa Thiên Ân).
Bần tăng xã Phước Thuận tổng Phước Khiêm phủ Ninh Hoà Lâm Văn Tuất hiệu Quảng Đức cúi đầu trình xin mong ơn may được chuyển bẩm sự việc như sau:
Bần tăng ở thờ Phật chùa cổ tích Thiên Ân tại xã ấy (do nguyên trước xã Phước Đức). Nhưng chùa đó vào khoảng năm Minh Mạng (1820-1840) có trú trì Hoàng Văn Dự pháp danh Thiên Phước ở đấy tu trì. Lần ấy, kính vâng một khoảng trong lịnh vua bảo ngày trung nguyên thiết lập đạo tràng thủy lục siêu độ cho hương hồn các quan binh trận vong, dùng để giúp cho cõi âm được phước, nhân đó nhận được một bức độ điệp do bộ lễ cấp.
Sự ưu ái của ơn vua, dấu xưa vẫn còn, bèn kính sao chép, mong được thưa xin bẩm thỉnh sắc tứ cho chùa Thiên Ân. Kính nghĩ bần tăng tự lúc ở chùa thờ Phật đến nay đã trải qua nhiều năm. Nhân dân các tổng xã thôn lân cận phàm có ai bị trọng bệnh hiểm nguy, đến chùa cầu xin, may nhờ thế mà được yên lành. Điều đó ai cũng điều công nhận là linh nghiệm, phần lớn thật ra là nhờ đức tổ Thiên Phước của bần tăng tu trì từ xưa mà để ơn trạch lại.
Bèn dám cúi xin quan phủ đường đại nhân các hạ may được chuyển bẩm, giúp cho bần tăng được ơn mưa móc thấm vào, thêm sáng ngời cho chùa chiền. Muôn lần trông cậy đức vô cùng. Nay cúi đầu trình có bao các xã lân cận công nhận cùng với chư sơn ký nhận xin ghi vào sau:
Ngày 20 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 12 (1937)
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu xã Phước Thuận)
Nguyên tùng bát phẩm đội trưởng Võ Đạt ký
Lý trưởng Nguyễn Sanh ký (có đóng dấu xã Phước Thuận)
Miễn sai, Nguyễn Tâm thủ ký
Phó tổng dụng Bồi Du thủ ký
Đại hào mục Lê Đàm thủ ký
Hương bộ Huỳnh Tri ký
Hương bộ Nguyễn Mỹ thủ ký
Hương kiểm Huỳnh Kim áp chỉ
Hương mục Nguyễn Đình Tú thủ ký
Hương thơ Nguyễn Bách thủ ký
Chư sơn công nhận như sau:
Hoà thượng chùa cổ tích Linh Sơn xã Hiền
Lương hiệu Thiên Quang vái ký
Chùa cổ tích Thiên Bữu xã Điềm Tịnh tự là Không Tang hiệu Nhơn Sanh vái ký
Giáo thọ chùa cổ tích Long Sơn xã Phú Cang là Quảng An vái ký
Hoà thượng xà lê chùa cổ tích Kim Ấn xã Phú Gia hiệu Vạn Phước vái ký
Trú trì chùa cổ tích Linh Quang xã Xuân Hoà (hiệu) Vạn Trí thủ ký
Trú trì chùa Thiền Sơn xã Trường Lộc hiệu Nhơn Hưng thủ ký
Trú trì chùa Vạn Phước xã Cung Hoà hiệu Nhơn Thị vái ký
Trú trì chùa Kim Long xã Phú Hoà hiệu Nhơn Duệ vái ký
Giáo thọ chùa Linh Sơn xã Tiên Du hiệu Nhơn Hoằng thủ ký
Trú tăng chùa Phước Long xã Phước Lý hiệu Hoằng Chất ký
Tăng chùa Bảo Phước xã Hậu Phước hiệu Nhật Chiếu thủ ký
Tăng trú thủ chùa Khánh Long xã Phước Đa hiệu Phổ Châu vái ký
Tăng trú trì chùa Thiên Bữu xã Mỹ Hợp hiệu Phổ Nhãn vái ký
Chùa Khánh Long xã Long Hoà
Chùa Báo Ân thôn Hội Khánh
Tổng Đồng Trung
Tổng Thân Thượng
Lý trưởng tổng Tu xã Phước Sơn tổng Phước Khiêm ký (có đóng dấu xã Phước Sơn)
Lý trưởng Diệp Quang xã Vĩnh Phú ký (có đóng dấu xã Vĩnh Phú)
Lý trưởng Ngô.. xã phú Nghĩa ký (có đóng dấu xã Phú Nghĩa)
Phó tổng tổng Thân Thượng
Chánh tổng tổng Phước Hà ngoại (có đóng dấu tổng Phước Hà ngoại)
Phó tổng tổng Đồng Trung
Quyền lý trưởng Nguyễn Vịnh xã Xuân Hoà tổng Đồng Trung ký (có đóng dấu xã Xuân Hoà)
Cửu phẩm lý trưởng Võ An xã Phượng Cương tổng Đồng Trung ký (có đóng dấu xã Phượng Cương)
Viện đại biểu nhân dân tỉnh Khánh Hoà
Lý trưởng Phạm Xuân thôn Mỹ Thuận tổng Ích Hạ ký (có đóng dấu xã Mỹ Thuận)
Nguyên tùng cửu phẩm bá hộ Yết ma chùa cổ tích Thiên Ân Lâm Văn Tuất hiệu Quảng Đức thủ ký
Người vâng lịnh chép thay thuộc xã Hiền Lương: Trần Thoả (đệ tử pháp danh Đồng Minh) vái tự ký
3. Văn kiện ngày 13 tháng 3 năm Bảo Đại thứ 15 (1940)
Gồm 12 tờ giấy bổi, khổ 15 x 26.5, mỗi tờ 2 trang a và b. Giữa các trang 1b và 2a và 2b và 3a có đóng dấu giáp lai của xã Hiền Lương. Chữ viết bằng bút lông mực Tàu, nhưng trong phần phương danh những người cúng thì có chỗ viết bằng mực xanh hay mực tím của bút sắt. Chổ thị thực của chánh tổng Phạm Minh ở tờ 1b1 cũng viết bằng bút sắt mực xanh.
Trú trì chùa Sắc tứ Linh Sơn hiệu Quảng Đức (và giám tự ) Viên Giác của xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh vì xin báo cáo, lập lời công việc như sau:
Điện Phật của bổn chùa đã trải nhiều năm. Nay bần tăng thấy điều đó đau lòng, khiến bèn thành tâm phát nguyện trùng tu phạm vũ. Nhưng bổn chùa không có tiền bạc của cải xuất ra.
Vì thế, nay báo rõ cùng với chư sơn thiền đức cùng bổn đạo thiện nam tín nữ người hiền con Phật rộng phát lòng từ, giúp cúng tiền bạc nhiều ít, nhân đó mà sửa sang việc Phật. Bởi đó, tôi trình bày đầy đủ cho lý hào trong tổng sở tại chứng nhận sự thật, có bao nhiêu thiện tín viên chức giúp cúng, đều liệt kê phương danh vào sau đây, để ghi bảng lưu truyền. Xin chúc hiện tiền phước thọ tăng long, ngày sau cùng lên nước Phật. Nay xin có lời báo cáo.
Ngày 13 tháng 3 năm Bảo Đại 15 (1940)
Ngày mồng một tháng năm chứng thực: Chánh tổng Phạm Minh ký (có đóng dấu của tổng Phước Tường nội)
Trú trì chùa Sắc Tứ Linh Sơn hiệu Quảng Đức tự ký
Giám tự hiệu Viên Giác thủ ký.
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu của xã Hiền Lương)
Sở tại lý trưởng Trần Ứng Long ký
Chánh cửu phẩm đội trưởng Nguyễn Phương thủ ký
Cửu phẩm Nguyễn Trọng Hào thủ ký
Đại hào mục Nguyễn Công thủ ký
Phó tổng dụng Tạ Văn Khuyến thủ ký
Chánh cữu phẩm đội trưởng Trần Lự cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Trú trì chùa cổ tích Khánh Long kiêm kiểm tăng các chùa huyện nhà hiệu Vạn Minh hộ niệm cúng tiền 1 đồng
Đàn đầu hòa thượng chùa sắc tứ Linh Quang xã Đa Lạt đạo Đa Lạt tỉnh Đồng Nai thượng hiệu Nhơn Thứ giúp cúng tiền 10 đồng ký tên hiện đã giao
Đệ tử chùa sắc tứ cổ tích Long Sơn là đương dương A xà lê hiệu Nhơn Thọ hộ niệm cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa sắc tứ cổ tích Long Sơn là Hòa thượng giáo thọ hiệu Vô Vi hộ niệm cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Trú trì chùa sắc tứ Di Đà là Như Ngọc vâng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa sắc tứ Linh Sơn hộ trang Trần Dược pháp danh Như Quảng cúng tiền 50 đồng hiện đã giao
Trú trì chùa Quảng Long hiệu Hoằng Thọ hộ niệm cúng tiền hai đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa Cổ tích Linh Sơn hiệu Viên Tịnh phụng hộ niệm
Đệ tử chùa Cổ tích Linh Sơn Như Trung phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa cổ tích Linh Sơn Nha Trang hiệu Hoằng Đạo phụng cúng tiền 5 đồng ký hiện đã giao
Đệ tử chùa cổ tích Linh Sơn Nha Trang tự Giải Diệu phụng cúng tiền 5 đồng ký hiện đã giao
Hòa thượng chùa sắc tứ Thiên Hoà Nha Trang hiệu Chân Nguyên phụng cúng tiền tu bổ 3 đồng hiện đã giao
Chủ chùa Sắc tứ Hải Đức tệ nạp Bích Không phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Yết ma chùa sắc tứ Hội Phước Nha Trang hiệu Tín Thành phụng cúng tiền 20 đồng
Linh Phong cổ tự Yết ma Chơn Hoà hộ niệm phụng cúng thủ ký
Chủ chùa chùa Báo Ân ở Hoa Tu hiệu Diệu Đạo phụng cúng 2 đồng
Chánh tổng Nguyễn Diễm xã Tân Phước phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Thủ tự chùa Long Hoà pháp danh Đồng Sanh phụng cúng tiền tu bổ 1 đồng hiện đã giao
Chủ chùa chùa sắc tứ Di Đà xã Mỹ Đồng Võ Thị Cầm pháp danh Như Niệm phụng cúng tiền tu bổ 100 đồng hiện đã giao
Thất phẩm Nguyễn Mưu pháp danh Trừng Mưu xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền chánh điện 300 đồng hiện đã giao
Bùi Du xã Mỹ Đồng pháp danh Như Nhàn cùng vợ pháp danh Như Chánh phụng cúng tiền tu bổ 20 đồng hiện đã gia
Cựu hương bộ pháp danh Như Hữu xã Phước Thủy phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
Lao Thị Cần pháp danh Như Mẫn xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền tu bổ 5 đồng hiện đã giao
Pháp danh Như An thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
La Thị Nam phố Hội An tỉnh Quảng Nam phụng cúng tiền tu bổ 5 hào hiện đã giao
Phan Thị Ức pháp danh Như Tánh xã Tân Đức phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
Lại Thị Chung pháp danh Đồng Thủy xã Phước Thuận phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
Phú Hội thôn đông cúng tiền 5 đồng Thân Trọng Giáp ký hiện đã giao
Pháp danh Như Thanh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 10 đồng ký hiện đã giao
Trần Thông xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Lê Như Đính xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Lê Phát xã Hiền Lương phụng cúng 1 đồng hiện đã giao
Lê Lễ Nghi xã Hiền Lương phụng cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Phú Hội nguyện cúng tiền 10 chẵn hiện đã giao, Phạm Ngọc Quảng tự ký hiện
Phan Quang Đức ngụ Hiền Lương phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Cựu tri yển Trần Tình xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Vợ chồng Nguyễn Xôi Nguyễn Thị Hoán xã Hiền Lương phụng cúng tiền tu bổ 3 đồng hiện đã giao
Vợ chồng Trần Thuần xã Vinh Huề phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Bà cô pháp danh Chơn Thành xã Trung Dõõng phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Võ Minh xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Hoàng Văn Khả và vợ Lê Thị Giàu xã Mỹ Tương phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Võ Khắc Cần pháp danh Như Chỉnh thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Hải Nam bang Ngô Dụ Hoà và vợ Phan Thị Vạn ngụ Tân Mỹ thôn phụng cúng tiền tu bổ 3 đồng hiện đã giao
Hải Nam bang Phù Thị Thành hiệu Chung Thị Thôi phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Hải Nam bang Phan Phong Lợi phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Tam xã Phú Cang phụng cúng 1 đồng hiện đã giao
Nguyễn Văn Nở và vợ Nguyễn Thị Đẩu xã Đô Doanh phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Văn Của pháp danh Như Tài và vợ Lê Thị Diệc pháp danh Như Thừa thôn Tân Đức phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao Dương Thị Tiếu xã Phú Cang phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Muộn pháp danh Như Cảm xã Trung Dõng phụng cúng tiền tu bổ 10 đồng chẵn hiện đã giao
Nguyễn Thị Thìn pháp danh Như Hiển xã Trung Dõng phụng cúng tiền tu bổ 3 đồng hiện đã giao
Bùi Thanh Liên ngụ xã Phú Cang phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
Lê Xán xã Hiền Lương phụng cúng tiền tu bổ 1 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa Sắc tứ cổ tích Thiên Ân Ngô Bình pháp danh Đồng Chính phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
Hội viên hội Phật học xã Mỹ Trạch Ngô Cao Lâu phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Hội trưởng hội Phật học đạo Đa Lạt Võ Đình Dung pháp danh Tâm Thuận phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Đệ tử Nguyễn Thị Cho pháp danh Đồng Lạc đạo Đa Lạt phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Đắc pháp danh Đồng Quả đạo Đa Lạt phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Triều Châu bang Thái Nhâm Đông cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương Sài thôn đệ tử pháp danh Như Tăng phụng cúng tiền 2 đồng ký hiện đã giao
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương Sài thôn đệ tử pháp danh Như Hạnh phụng cúng tiền 3 đồng ký hiện đã giao
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương Sài thôn đệ tử pháp danh Như Thế phụng cúng tiền 3 đồng ký hiện đã giao
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Vĩnh Điềm xã Phạm Thị Tài pháp danh Như Thắng phụng cúng tiền 20 đồng ký hiện đã giao
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương Sài thôn pháp danh Trừng Xưng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Nha Trang Trường Đông thôn Phạm Thị Đoá pháp danh Chơn Vịnh phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Nha Trang Trường Tây thôn Phạm Ngọc Diễm pháp danh Chơn Dũng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Cửu phẩm Hồ Văn Thuần thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Võ Đình Dương thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Sài Cầu Phạm Quyên (cúng) tiền 1 đồng hiện đã giao
Đệ tử pháp danh Thị Dương xã Phú Cang phụng cúng tiền 20 đồng hiện đã giao
Đệ tử pháp danh Như Phổ thôn Khải Lưu cúng tiền 4 đồng hiện đã giao
Đại hào mục Hoàng Cẩâm thôn Khải Lưu cúng tiền 4 đồng hiện đã giao
Pháp danh Như Nghiêm thôn Đại Lãnh phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao ký
Đầu vu cổ tích Khánh Long tự đệ tử Nguyễn Khắc Đính pháp danh Tâm Trung xã Tân Phước ở Tu Bông phụng cúng tiền 2 đồng tự ký hiện đã giao
Hoàng Khiêm pháp danh Như Cung xã Long Hòa phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Miệng thôn Hội Khánh phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Hoàng Thị Lạc pháp danh Như Nhật thôn Hội Khánh phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Huỳnh Chiêm Giảng pháp danh Như Ân xã Phong Phú phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Chánh cửu phẩm đội trưởng Nguyễn Phương xã Hiền Lương phụng cúng tiền 15 đồng hiện đã giao
Cửu phẩm đội trưởng Lê Vận xã Hiền Lương phụng cúng tiền 6 đồng hiện đã giao
Phó lý Lê Đê xã Hiền Lương phụng cúng tiền 2 đồng ký
Hương mục Nguyễn Du xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng có ký hiện đã giao
Cựu hương mục Nguyễn Nhượng xã Hiền Lương phụng cúng tiền 4 đồng thủ ký hiện đã giao
Phó hương bộ Hồ Vừa xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao
Hương lâm Trần Minh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao
Hương bộ Nguyễn Khánh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao
Hương dịch Trần Đức xã Hiền Lương thủ ký phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Miễn sai hương mục Trần Hậu xã Hiền Lương phụng cúng tiền 5 đồng thủ ký hiện đã giao
Cựu hương dịch Lê Chân xã Hiền Lương phụng cúng tiền 2 đồng thủ ký hiện đã giao
Cựu hương mục Nguyễn Hữu Thành xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao
Cựu trùm yển Nguyễn Hữu Thạnh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao
Trường phu Lê Cần xã Hiền Lương cúng tiền 5 đồng thủ ký hiện đã giao
Thiều Quang Lâm xã Lạc An cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Nay pháp danh Như Bình và vợ Nguyễn Thị Diệp pháp danh Như An thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Đặng Thị Nhẫn pháp danh Đồng Sợ xã Vinh Huề phụng cúng tiền 50 đồng, Đặng Thị Nhẫn áp chỉ hiệp giao
Đại hào Hồ Nghị xã Hiền Lương phụng cúng tiền 3 đồng thủ ký hiện đã giao
Tri yển Huỳnh Kiều xã Hiền Lương phụng cúng tiền 2 đồng thủ ký hiện đã giao
Phó tổng dụng Tạ Văn Khuyến phụng cúng tiền 5 đồng chẵn
Nguyễn Phi phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Hương bổn Nguyễn Cẩn phụng cúng tiền 2 đồng ký
Hương dịch Trương Hạ phụng cúng tiền 1 đồâng thủ ký hiện đã giao Hương kiểm Lê Giáp xã Hiền Lương cúng tiền 2 đồng thủ ký hiện đã giao
Phạm Lý phụng cúng tiền 10 đồng chẵn hiện đã giao
Phùng Hữu Phương thôn Tân Mỹ cúng tiền 2 đồng chẵn
Cựu lý trưởng Nguyễn Ưng pháp danh Như Ngoạn xã Quảng Hội phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Trần Liên xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng ký hiện đã giao Vợ chồng Đỗ Văn Tri xã Hiền Lương cùng phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao ký
Chánh cửu phẩm đội trưởng Lý Hiệp Có xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 2 đồng ký
Phó tổng dụng Hồ Lạp xã Xuân Tự phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Ngô Văn Hảo pháp danh Đồng Nguyện xã Hiền Lương Vạn Ninh phụng cúng tiền 5 đồng ký hiện đã giao
Hồ Thái và vợ Hồ Thị Xuyến xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Cửu phẩm lý trưởng Nguyễn Sanh pháp danh Đồng Phóng xã Phước Thuận phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Trần Khổng pháp danh Đồng Ích và vợ Vũ Thị Hiên thôn Ngân Hà phụng cúng tiền 10 đồng hiện đã giao
Cựu lý trưởng Nguyễn Tú thôn Ngân Hà cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Cựu binh phiên Đoàn Thỏa thôn Bách Hà cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Vũ Vạn thôn Bách Hà phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Linh Sơn đường thượng đệ tử Triệu Thị Hưng pháp danh Như Long phụng cúng 1 đồng hiện đã giao
Vũ Thị Pháp pháp danh Tâm Nhuận xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Chung Thị Lành pháp danh Tâm Hiền xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Pháp danh Chơn Chí Hoàng Thiện Tả xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Võ Thị Lượng pháp danh Đồng Số thôn Đại Mỹ Ninh Hòa phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Tú pháp danh Đồng Cẩm thôn Đại Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Bành Thị Hoà pháp danh Đồng Cảm xã Vĩnh Phú phụng cúng tiền 5 đồng đã giao
Con ruột Lưu Chí phụng cúng tiền 1 đồng đã giao
4. Văn kiện ngày 17 tháng 3 năm Canh Thìn Bảo Đại 15 (1940)
Gồm 3 tờ giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi, khổ 15 x 26.5, không bìa. Mỗi tờ 2 trang a và b, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng nhiều nhất là 23 chữ, ít nhất là 4 chữ. Đây là bản kê khai pháp bảo và tự khí cùng vật hạng của tổ đình Linh Sơn khi Bồ tát Quảng Đức về làm trú trì ngôi tổ đình này.
Ngày 17 tháng 3 năm Canh Thìn Bảo Đại thứ 15 (1940)
Chùa Linh Sơn hiệu là Hoằng Chất vâng chép
Bổn chùa là cổ tích Linh Sơn được sắc tứ (ngày tháng 3 năm này được sắc tứ). Nay hiện có trú trì là Hoà thượng yết ma hiệu Quảng Đức, nay pháp bảo và tự khí cùng vật hạng của bổn chùa Linh Sơn do nguyên cố đàn đầu hoà thượng ông lưu truyền lại ở đây xin nhận ghi vào sau:
Chùa ngói bốn tòa, tường vách bao quanh bốn phía đều đầy đủ (do trải qua đã lâu, hư nát nhiều)
Đơn ruộng, giấy khế ước Tây Nam 13 trang (ruộng Chương, Cầu Cao, ruộng Bàu ở địa phận xã Hiền Lương, gò Đỏ thuộc địa phận xã Vinh Huềø, do ngày 15 tháng này, nghiệp chủ có ghi lời giao nhận tồn chiểu bên ngoài)
Hình tượng Phật Thánh do đẻo sơn đúc hoạ:
Phật tam thế ba ngôi
Tượng Phật trung 12 tượng
Tượng Phật tiểu 12 tượng
Tượng Hộ pháp 2 tượng
Tượng Thánh già lam 3 tượng
Tượng Chúa Bà hoàng cô 5 tượng
Tượng Tiêu Diện bàn ngoài 5 tượng
Hình vẽ Lục Tổ trên giấy 1 bức
Sám bài 12 bộ ( 10 bức)
Hình vẽ Thập Điện trên giấy 1 bức
Hình vẽ La Hán trên giấy 1 bức
Tượng Già lam vẽ trên giấy và bố 2 bức
Long vị hậu tổ 1 ngôi
Long vị cố giác linh Hoà thượng ông 1 ngôi
Long vị giác linh Hoà Thượng chùa Long Sơn 1 ngôi
Long vị đương kim 1 ngôi
Màn gió án thờ tiên linh 1 bức
Long vị và thần vị của đàn na thí chủ 16 bàn
Chuông trống pháp bảo
Hồng chung cổ tích 1 chiếc
Trống sấm 1 chiếc
Chuông gia trì 1 chiếc
Chuông bảo chúng 1 chiếc
Chuông hạng trung 1 chiếc
Chuông hạng tiểu 1 chiếc
Trống trung 1 chiếc
Mõ lớn 1 chiếc
Mõ nhỏ 2 chiếc
Linh chẩn tế 2 chiếc
Tang 2 chiếc
Tích trượng bia son 1 bộ
Y bát pháp bảo
Y đỏ 25 điều 1 chiếc
Y đỏ lợt 25 điều 1 chiếc
Y chín điều tơ trắng 1 chiếc
Mũ tỳ lư, mũ hiệp chưởng 2 chiếc mới tốt
Mũ tỳ lư cũ rách 1 chiếc
Tràng phan loại mới 6 cái
Bàn rước loại mới của Hà Nội 2 chiếc
Bàn rước loại cũ 2 chiếc
Long bài 1 hộp
Linh bảo ấn 1 chiếc
Ấn in năm tháng 1 chiếc
Tánh tích pháp hiệu của cố Hòa thượng ông 1 hộp
Pháp kính 1 chiếc
Phật quang chẩn tế 1 bộ
Cọp đất 1 bộ
Ấn in năm tháng Tam bảo 2 chiếc
Kinh điển cũ mới
Thiền môn nhật tụng 1 quyển
Luật Tỳ ni nhật dụng thiết yếu 1 quyển
Tỳ ni nhật dụng 1 quyển
Long thư tịnh độ 1 quyển
Luật giải loại cũ 1 quyển
Chi na tỳ kheo giới bổn lưu nghĩa loại cũ 1 quyển
Địa tạng kinh loại mới 1 bộ (3 quyển)
Tam bảo kinh loại mới 1 bộ (3 quyển)
Mông sơn thí thực khoa loại cũ 2 quyển
Trung khoa du già loại mới 2 quyển
Mông sơn khoa đại bản loại mới 1 quyển
Du già thí thực khoa nghi đại bản loại cũ 1 quyển
Bát dương kinh loại mới 1 quyển
Báo ân kinh loại mới 1 bộ 1 quyển
Thủy sám đại bản loại mới 1 quyển
Vô lượng nghĩa kinh 1 quyển
Kim cang quảng thích thượng trung hạ 1 quyển (bản sao)
Đại phương tiện báo ân kinh loại cũ 3 quyển (1,2,3,4,5,6,7)
Lục tổ bảo đàn kinh cựu đại bản 1 quyển
Kim quang kinh loại mới 1 bộ cọng 5 quyển (1.2.3.4.5.6.7.8.9.10)
Kim cang giải nghĩa kinh loại cũ 1 quyển
Bát dương kinh loại cũ 2 quyển
Thủy sám kinh loại cũ 1 bộ 3 quyển
Ngọc lịch tiểu bản 3 quyển
Cựu Pháp hoa kinh 4 quyển
Ngũ bách kinh loại mới 1 quyển
Bán nguyệt kinh 1 quyển
Pháp Hoa kinh loại mới 1 bộ 7 quyển
Báo ân kinh loại mới 1 bộ 3 quyển
Dược sư kinh 1 quyển
Phạm võng kinh 1 quyển
Nhã tục công văn 1 bộ 4 quyển
Cao vương Quán Thế Âm kinh
Phổ Môn giấy tây 1 quyển
Quan thánh đế quân chân kinh mới cũ 3 quyển
Tịnh trù cấp thủy phóng sanh phóng đăng dương phan thiên 1 cặp (dấu chữ của sư ông)
Tông tích bí truyền thiền lâm thiên tiểu bản 1 tập
Thiền môn sách tấn 1 quyển
Vu lan bồn kinh 1 quyển
Luận ngữ 2 quyển
Mạnh tử 3 quyển
Trung dung 1 quyển
Thi kinh 1 quyển
Nam quốc địa dư 1 quyển
Địa lý 1 quyển
Tử vi 1 quyển
Y thơ 4 quyển (lại bản chép 1 quyển
Tự điển 1 quyển
Vận 1 quyển
Ngọc hạp thông thơ loại cũ 1 quyển
Vật hạng linh tinh trở xuống
Bình vôi 1 ống
Bàn thờ ghế thờ lớn nhỏ dài ngắn mỗi thứ cộng 18 chiếc
Ván ngựa 2 bộ (gồm 12 tấm)
Thẩu sành (đồ đựng cơm) 2 cái
Chén bát nung tốt xấu 300 chiếc
Giường nằm 4 chiếc
Nồi đồng lớn nhỏ 6 chiếc (1 tuổi 1 chiếc, 2 tuổi 2 chiếc, nửa tuổi 1 chiếc, 3 tuổi 2 chiếc, tuổi lỡ 1 chiếc
Nồi gang đại tiểu 2 chiếc
Cối đá giả bột 1 chiếc
Cối xay lúa 1 chiếc
Cối giả gạo 2 chiếc (đá và cây)
Đèn toạ đăng 3 chiếc
Đèn thường dùng loại nhỏ 6 cây
Trường kỷ mây một chiếc
Hộp đồng cao trù 3 chiếc
Đồ trà 2 bộ hai dĩa 8 chén nhỏ
Hộp gỗ 4 cái (1 cái cẩn xà cừ)
Ang đất 2 cái (chứa nước lạnh)
Lu đất loại lớn 1 cái
Thạp đất chứa gạo 2 cái
Vò đất chứa tương 10 cái
Bình trà 2 cái (lại 1 cái)
Tam sơn cẩn xa cừ 1 bức
Lò đồng hút thuốc 1 cái
Rương giác 1 cái
Chậu hoa bằng đất lớn nhỏ 10 chậu
Chùa Linh Sơn hiệu là Hoằng Chất thủ ký
Trần Thoả viết thay tự ký
5. Văn kiện ngày mười tháng giêng năm Bảo Đại thứ 16 (1941)
Gồm 3 tờ giấy bổi láng có một bìa lưng màu đỏ gạch, đóng lại bằng chỉ giấy bổi, khổ 15.5 x27, không đánh số tờ. Mỗi tờ 2 trang a và b. Trang 1a có 8 dòng, mỗi dòng trung bình 27 chữ, chép nội dung lá đơn viết cho quan huyện Vạn Ninh xin phép đem ruộng chùa cho mượn để lấy tiền sửa chùa.
Từ các trang 1b-2a và trang 2b-3a, ở giữa có đóng dấu giáp lai của xã Hiền Lương và tổng Phước Tường nội, ghi lại niên đại và tên các người đứng đơn cũng như viên chức làng xã.
Tông phái sắc tứ chùa cổ tích Linh Sơn tại xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hoà là Lâm Văn Tuất Yết ma hoà thượng sung kiểm tăng hiệu Quảng Đức kính trình vì được ơn mong phê làm bằng sự việc sau:
Trải trước đây, cố hoà thượng hiệu Thiên Quang xây dựng chánh điện và nhà cửa đông tây ba toà của bổn chùa Linh Sơn, lai lịch đã trải qua nhiều năm cho tới đây. Nay bần tăng nhận lấy tông phái nầy, thấy cây gỗ ngói gạch phần lớn đã hư nát, đến nỗi bần tăng và lý hào bốn xã gia tâm giúp đỡ nghĩ làm, lại nhận được số tiền công hứa trích cho của quan trên.
Nhưng trộm nghĩ công trình thì lớn nặng, chánh điện Phật đường chưa được thành tựu trang nghiêm, đến nỗi bần tăng nói rõ với lý hào bổn xã cho được tự do đem các sở ruộng chùa của bổn chùa cho mướn, để lấy tiền sung vào việc chi trả các khoản trùng tu chùa. Vì thế, cúi mong huyện đường đại nhân các hạ phê cho làm bằng, hầu tiện thừa hành Phật sự.
Nay kính thừa kê các ruộng do dâng cúng mà bổn chùa đã có để trình xét. Nay kê:
Các thửa ruộng ở chỗ Cầu Cao, chùa Các, chùa Chương thuộc địa phận xã Hiền Lương
Các thửa ruộng ở gò Đỏ thuộc địa phận xã Vinh Huề
Nay xin kê
Ngày mồng mười tháng giêng năm Bảo Đại 16
Chứng thực: Chánh tổng Phạm Minh ký (có đóng dấu tổng Phước Tường nội)
Yết ma chùa sắc tứ cổ tích Linh Sơn hiệu Quảng Đức thủ ký
Sở tại lý trưởng cửu phẩm Trần Ứng Long chứng ký
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Chánh cửu phẩm đội trưởng Trần Lự
Chánh cửu phẩm bá hộ Trần Diệp thủ ký
Chánh cửu phẩm Nguyễn Phương thủ ký
Cửu phẩm đội trưởng Lê Vận thủ ký
Cửu phẩm bá hộ Nguyễn Trọng cảnh thủ ký
Đại hào mục Nguyễn Công thủ ký
Đại hào mục Lê Tế thủ ký
Đại hào mục Hồ Nghị thủ ký
Đại hào mục NguyễnThả thủ ký
Miễn sai hương kiểm Lê Lương thủ ký
Miễn sai hương mục Trần Yến thủ ký
Phó tổng dụng Tạ Văn Khuyến thủ ký
Phó tổng dụng hương bổn Nguyễn Cẩn thủ ký
Chánh hương bộ Nguyễn Khánh thủ ký
Phó lý Lê Đê thủ ký
Phó hương bộ Hồ Vừa thủ ký
Hương lâm Trần Minh thủ ký
Hương dịch Trần Khôi thủ ký
Cựu hương mục Nguyễn Thành thủ ký
Cựu trùm yển Nguyễn Thạnh thủ ký
Cựu hương dịch Ngô Hảo thủ ký
Cựu hương thơ Trần Văn Thông thủ ký
Hương mục Nguyễn Du thủ ký
Cựu phó lý Nguyễn Vạn thủ ký
Thay viết thế xin bằng Trần Thoả (người xã Hiền Lương) tự ký.
6. Văn kiện ngày 13 tháng giêng năm Bảo Đại 16 (1941)
Gồm 18 tờ giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi, khổ 14.5 x 26. Trong số 18 tờ này, có đến 5 tờ để trống cả mặt không có viết chữ, tức các tờ 5, 7, 8, 9 và 11, nhưng lại có khuôn dấu xã Hiền Lương đóng dấu giáp lai, chứng tỏ các tờ này đã xuất hiện ngay từ đầu, lúc văn kiện mới ra đời. Chữ viết dễ đọc bằng bút lông mực Tàu, nhưng thỉnh thoảng có hai dòng viết bằng bút sắt. Văn kiện đây đề cập đến việc quyên tiền cho công tác trùng tu chánh điện tổ đình Linh Sơn.
Yết ma tông phái chùa sắc tứ cổ tích Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hoà hiệu Quảng Đức viết lời báo cáo sự việc sau:
Trải trước đây, cố hoà thượng hiệu Thiên Quang xây dựng chánh điện Linh Sơn của bổn chùa. Lai lịch trải qua nhiều năm, đến nay cây gỗ ngói gạch phần lớn bị giộp hư phải nên sửa lại mới một phen.
Vì thế, bần tăng vâng nhận công phái này, trùng tu dựng lại, kính cáo chư sơn thiền đức và An nam Phật học hội cùng bổn đạo con Phật, thiện tín viện chủ các lớp người phát lòng từ tế lớn vui giúp của cải ít nhiều, xưng dương giúp nghĩ, mãi lưu ơn miên viễn, ghi bảng lưu truyền quí tính phương danh đều thấm nhuần quả phúc. Nay có lời kính cáo. Lại chúc hiện tiền phước thọ tăng long, ngày sau đều lên cảnh Phật.
Ngày 13 tháng giêng năm Bảo Đại 16 (1941)
Chứng thực: Chánh tổng Phạm Minh ký (có đóng dấu tổng Phước Tường nội)
Yết ma chùa sắc tứ cổ tích Linh Sơn hiệu Quảng Đức thủ ký
Lý trưởng sở tại cửu phẩm Trần Ứng Long chứng ký
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Chánh cửu phẩm đội trưởng Trần Lự phụng cúng tiền chánh điện 5 đồng hiện đã giao
Chánh cửu phẩm bá hộ Trần Diệp thủ ký
Chánh cửu phẩm Nguyễn Phương thủ ký
Cửu phẩm đội trưởng Lê Vận thủ ký
Cửu phẩm bá hộ Nguyễn Trọng Cảnh thủ ký
Đại hào mục Nguyễn Công thủ ký
Đại hào mục Lê Tế thủ ký
Đại hào mục Hồ Nghị thủ ký phụng cúng tiền chánh điện 6 đồng
Miễn sai hương kiểm Lê Lương thủ ký
Miễn sai hương mục Trần Yến thủ ký
Phó tổng dụng Tạ Văn Khuyến thủ ký
Phó tổng dụng hương bổn Nguyễn Cẩn thủ ký
Chánh hương bộ Nguyễn Khánh thủ ký
Phó lý Lê Đê thủ ký
Phó hương bộ Hồ Vừa thủ ký
Hương lâm Trần Minh thủ ký
Hương dịch Trần Khôi thủ ký
Cựu hương mục Nguyễn Hữu Thành thủ ký
Cựu hương thơ Trần Văn Thông thủ ký
Hương mục Nguyễn Du thủ ký
Cựu hương bổn Nguyễn Vinh áp chỉ phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã giao
Đại hào mục Nguyễn khả thủ ký
Cựu phó lý Nguyễn Vạn thủ ký
Cựu hương dịch Phan Lộc áp chỉ
Thay viết lời thế đệ tử Trần Đồng Minh (tức Thoả) tự ký
Chư sơn thiền đức hộ niệm giúp cúng dựng lại chánh điện như sau:
Giáo thọ hoà thượng chùa sắc tứ cổ tích Long Sơn hiệu Quảng An vâng tổ đường cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Giáo thọ hoà thượng chùa cổ tích Hoa Tiên của Diên Khánh hiệu Phổ Thiên cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Chánh tri sự chùa Phú Phong của Diên Khánh hiệu Bảo Đàn giúp cúng tiền 3 đồng ghi cúng
Giáo thọ hoà thượng chùa Khánh Long hiệu Nhơn Hưng phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Trú trì chùa sắc tứ Di Đà hiệu Huyền Châu phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Trú Trì chùa cổ tích Quảng Long hiệu Hoằng Thọ phụng cúng tiền 10 đồng dựng lại chánh điện
Trú trì chùa Long Hòa pháp danh Đồng Trì hiệu Từ Tín phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã giao
Đức Tân phổ của Tân Mỹ pháp danh Thi Dương hiệu Từ Thái phụng cúng tiền chánh điện 3 đồng
Chi hội Phật học Ninh Hòa cúng tiền như sau:
Chánh đại diện Bùi Dương phụng cúng 5 đồng (Quan huấn đạo Đồng Đức hiện đã giao)
Đại diện Cao Chính phụng cúng tiền 4 đồng (hiện đã giao)
Huỳnh Cao Sách 2 đồng (pháp danh Đồng Trí hiện đã giao)
Ngô Kỳ và Ngô Cao Lâu của Mỹ Trạch (Đồng Bảo và Đồng Xuân) cúng 5 đồng
Nguyễn Liên xã Văn Định phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Nguyễn Hội xã Phước Đa pháp danh Đồng Trung phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Nguyễn Châu xã Phú Thạnh pháp danh Quảng Tu cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Ngô Bình đệ tử chùa Thiên Ân cùng gia quyến pháp danh Đồng Chính cúng 5 đồng hiện đã giao
Lạc An Phạm Lựu đệ tử chùa Thiên Ân pháp danh Đồng Thọ cúng tiền 1 đồng
Đệ tử Lê Hoàng xã Phú Thạnh pháp danh Chơn Huy cúng tiền 1 đồng
Vợ chồng Lại Mô pháp danh Đồng Nhẫn xã Văn Định phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Nguyễn Hiền pháp danh Đồng Lương ngụ xã Tân Ninh cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Thông lại phủ Ninh Hòa Lương Đình Hy pháp danh Tâm Tiến phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Phương danh bổn đạo thiện tín phát tâm giúp cúng chánh điện liệt kê như sau:
Thất phẩm Nguyễn Mưu pháp danh Trừng Mưu xã Mỹ Đồng tổng
Phước Tường nội huyện Vạn Ninh phụng cúng tiền 400 đồng chẵn (hiện đã giao)
Vợ chồng cựu lý trưởng Bùi Văn Du pháp danh Như Nhàn Như Chánh xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 50 đồng hiện đã giao
Lý trưởng Nguyễn Ốc pháp danh Đồng Tại hiệu Huệ Tác xã Vinh Huề phụng cúng tiền 2 đồng chưa giao
Hương thơ Nguyễn Ái pháp danh Đồng Nhân hiệu Từ Thành xã Vinh Huề phụng cúng tiền 1 đồng chưa giao
Đệ tử Lê Thị Diệc pháp danh Như Thừa thôn Tân Đức phụng cúng tiền chánh điện 10 đồng hiện đã giao
Huỳnh Thị Điệu xã Hiền Lương phụng cúng tiền chánh điện 20 đồng hiện đã giao
Vợ chồng Phan Quang Đức người Minh Hương ngụ xã Hiền Lương phụng cúng tiền 13 đồng hiện đã giao
Vợ chồng lão nhiêu cựu hương trưởng Lê Kỷ xã Hiền Lương phụng cúng tiền chánh điện 10 đồng chẵn hiện đã giao thủ ký
Vợ chồng phó lý Trần Mẫn xã Minh Hương ngụ thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền chánh điện 2 đồng hiện đã giao
Cữu phẩm Hồ Văn Thuần thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao ký
Tăng già Nguyễn Đồng Kính xã Quảng Hội phụng cúng 2 đồng, hiện giao 1 đồng
Vợ chồng Bùi Yên thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền chánh điện 2 đồng hiện đã giao
Liên Thị Hoa ngụ xã Tân Mỹ quyên tiền 3 đồng hiện đã giao
Cựu hương bộ Lê Lương ngụ xã Tân Mỹ phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã giao
Quản Văn Hương pháp danh Như Qui xã Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng
Lữ Cao Gia pháp danh Như Hào thôn Tân Mỹ cúng tiền 1 đồng
Phạm Sử ngụ thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng ký hiện đã giao
Phạm Vi thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 đồng
Đệ tử Trần Thật pháp danh Đồng Tâm chùa Sắc tứ Thiên Ân cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Nguyễn Năng pháp danh Như Nhẫn thôn Phú Hội phụng cúng tiền chánh điện 10 đồng hiện đã giao
Ngô Văn Kỳ pháp danh Đồng O xã Xuân Tự phụng cúng tiền chánh điện 5 đồng hiện đã giao
Phạm Hối xã Quảng Hội phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Pháp danh Như Ngang xã Quảng Hội cúng tiền 2 đồng (Nguyễn Thị Lai)
Nguyễn Thị Ổn pháp danh Đồng Yến xã Quảng Hội phụng cúng tiền chánh điện 2 đồng hiện đã giao
Nguyễn Đình Lan xã Phú Gia phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Cô Năm Diệu Hữu xã Bảo An phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Chủ chùa Sắc tứ Di Đà Võ Thị Cầm pháp danh Như Niệm được vua sắc ban Háo nghĩa khả gia cúng tiền 100 đồng cùng bốn cột cây kè chánh điện trị giá tiền 55 đồng hiện đã giao
Phan Thị Quí phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Đặng Thị Nhẫn pháp danh Đồng Sợ xã Vinh Huề phụng cúng tiền 50 đồng hiện đã giao
Phan Thị Ức pháp danh Như Tánh ngụ thôn Tân Đức phụng cúng tiền 10 đồng hiện đã giao (do Hải thạch bát xích hiện giao)
Trần Thị Như xã Hiền Lương phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã giao
Nguyễn Cò Trần Thị Diễu xã Hiền Lương phụng cúng tiền chánh điện 2 đồng hiện đã giao
Vợ chồng lão nhiêu Nguyễn Văn Xuy xã Hiền Lương phụng cúng tiền chánh điện 3 đồng ký hiện đã giao
Vợ chồng cựu hương bộ Trần Hữu pháp danh Như Hữu xã Hiền Lương phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Chế Thị Liên thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hịên đã giao
Nguyễn Lợi thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Tam xã Phú Cang phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã giao
Dương Thị Tiếu xã Phú Cang phụng cúng tiền chánh điện 2 đồng hiện đã giao
Trương Thị Quyên thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Lê Thị Chuyền pháp danh Tâm Luân xã Thanh Minh phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Quèn xã Vinh Huề phụng cúng tiền 0 đồng ký chưa giao
Đặng Thị Đoá thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Đặng Văn Chữ thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Phan Liêm thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Nguyễn Úy thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 3 hào hiện đã giao
Hồ Đốc thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 hào hiện đã giao
Nguyễn Văn Đại thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 3 hào hiện đã giao
Đỗ Thị Tỏi thôn Tân Mỹ phụng cúng 2 hào hiện đã giao
Nguyễn Văn Chuột thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 hào hiện đã giao
Diệp Nhân Cơ thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 hào hiện đã giao
Thừa lịnh chép thế lời thông cáo là đệ tử Trần Thoả pháp danh Đồng Minh tự ký.
7. Văn kiện ngày mồng chín tháng hai năm Bảo Đại 16 (1941)
Gồm 4 tờ đóng lại với hai tờ bìa trước sau màu gạch bằng chỉ giấy bổi. Khổ 15 x 28. Nội dung văn kiện xin quan huyện Vạn Ninh cho phép dựng lại chùa Bảo Sơn dưới sự chứng minh của Bồ tát Quảng Đức, lúc đang làm trụ trì tổ đình Linh Sơn. Đặc biệt là trang 2b có một bản dịch chữ quốc ngữ của văn kiện viết bằng bút sắt, chúng tôi cũng cho in lại nguyên bản luôn, để làm tài liệu tham khảo.
Chủ chùa chùa Bảo Sơn xã Phước Thủy tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh là cựu hương mục Nguyễn Địch vái bẩm vì mong được ơn phê cho việc sau:
Xã của dân nguyên trước dấu cũ có cảnh chùa trải qua đã lâu. Vào khoảng năm Thành Thái (1889-1906) chùa bị đổ sập (do còn có di tích là chiếc trống trung một mặt) khiến cho vận làng suy vi, dân tình nghèo khổ, đến nay đã trải qua nhiều năm.
Nay dân nhân có một sở ruộng đất trưng riêng (ruộng 1 mẫu, đất 4 mẫu) là 5 mẫu thuộc địa phận của bổn xã, tục gọi là xứ Rọc Mây, núi mây tịch mịch, phong cảnh thanh tú. Vào năm Bảo Đại thứ 2 (1927) dân đã trình với bổn sư đàn đầu hoà thượng hiệu Thiên Quang chùa Linh Sơn (xã Hiền Lương) chứng minh, tha thiết xin dựng lại ngôi chùa ấy, thiết lập nên am tranh ở chỗ đó, Ngài bèn cho hiệu Bảo Sơn, đốt hương thờ Phật. Nay đã 4 năm rồi, dân tình đều được an khang đều cùng vui vẻ.
Nhưng từ đó đến nay chưa có xin phép. Nay dân thiết nghĩ trùng tu dựng lại, tự xuất của nhà (do huê lợi của 5 mẫu ruộng đất chi dụng lấy tiền. Dân nói rõ với lý hào bổn xã ký chứng nhận để dân được tiện lợi đến quan xin. Vì thế, cúi xin quan (huyện đường) đại nhân các hạ rộng ban đường nhân mong nhờ văn phê, để cho dân được nhận đức mà dựng lại chùa Phật. Muôn lần nhờ vả. Nay xin vái.
Ngày mồng chín tháng hai năm Bảo Đại 16 (1941)(có đóng dấu Vạn Ninh huyện ấn, và lời phê thính bằng -cho phép)
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu xã Phước Thủy)
Lý trưởng cửu phẩm Ngô Lực nhận ký (có đóng dấu xã Phước Thủy)
Nguyễn Địch (pháp danh Như Đương) thủ ký
Cựu hương bộ Trần Hữu thủ ký
Cựu hương kiểm Lê Chính thủ ký
Chánh hương bộ Lê Ký (có đóng dấu hương bộ xã Phước Thủy)
Hương kiểm Nguyễn Lều thủ ký
Hương lâm Trần Mít thủ ký
Viết thế để xin chứng: Trần Thỏa (người xã Hiền Lương) tự ký
Yết ma hòa thượng chùa sắc tứ cổ tích Linh Sơn hiệu Quảng Đức làm chứng minh tự ký
Cố vấn giáo thọ hòa thượng chùa sắc tứ cổ tích Long Sơn hiệu Nhơn Thọ hộ niệm ký
Thọ giáo hòa thượng chùa Long Phước hiệu Nhơn Viên chứng minh hộ niệm vi tự ký
8. Văn kiện ngày mồng 1 tháng 7 năm Nhâm Ngọ (1942)
Khổ 21 x 29, gồm 1 tờ giấy trắng A4 in từ bản khắc gỗ của chính bồ tát Quảng Đức. Đây là một thơ gởi mời chư vị tôn túc và Phật tử tham dự lễ đón bằng sắc tứ của chùa Linh Sơn.
Nam mô A Di Đà Phật
Phật lịch năm 2505
Mãng nghe Phật do tâm tạo, đạo dùng tăng hoằng. Nay có trú trì chùa cổ tích Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hoà hiệu Quảng Đức và giám tự Viên Giác cùng bổn đạo của bổn xã được ơn hoàng thượng sắc tứ bổn chùa, chọn được buổi sáng ngày 16 tháng 7 để đánh chuông cung nghinh sắc tứ, lại đón nghinh Bà miếu, vốn đã xin phép thiết đại trai đàn nhằm từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 7, có đầy đủ thuyết pháp, chẩn tế, trai tăng, tụng kinh, lục cúng, trên để báo ơn Phật tổ, tiếp nữa là đáp lại ơn đức của giác linh cố hoà thượng. Kính mong các viên chức cùng quý quyến ngày đó quang lâm để nghe kinh lễ Phật.
Trên đây là thiệp mời.(…….)
Quang lâm, lòng đạo tâm vui lành. (…) mong vậy
Ngày mồng 1 tháng 7 năm Nhâm Ngọ
Yết ma hoà thượng chùa Linh Sơn cùng môn đồ bổn đạo đồng kính thỉnh
Bổn xã xã Hiền Lương đồng kính thỉnh.
9. Văn kiện ngày mồng 1 tháng 2 năm Bảo Đại 19 (1944)
Gồm 17 tờ giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi, khổ 14.5 x 25.5. Trong đó có 7 tờ, tức các tờ 7, 8, 13, 14, 15, 16 và 17 để trống, không viết chữ nào. Mỗi tờ có 2 trang a và b. Từ trang 2b cho đến trang 8a có khuôn dấu xã Hiền Lương đóng giáp lai. Còn những trang về sau dù để trống hay có chữ đều không thấy có đóng dấu giáp lai. Chữ viết chủ yếu bằng bút lông mực Tàu, nhưng có khi cũng viết bằng bút sắt mực xanh như ở tờ 10a8. Số tờ này là do chúng tôi đếm, chứ bản thân văn kiện không có đánh số trang. Đây là văn kiện quyên tiền để trùng tu chánh điện tổ đình Linh Sơn.
Nam mô A Di Đà Phật tác đại chứng minh
Yết ma chùa sắc tứ Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa hiệu Quảng Đức xin viết lời báo cáo việc sau:
Nay chánh điện chùa đã trải qua nhiều năm hư nát, bần tăng đau lòng xót mắt, phát nguyện trùng tu dựng lại để thờ Phật cho trang nghiêm.
Trộm nghĩ bổn chùa không có tiền bạc của cải xuất ra, bèn nói rõ cho chư sơn thiền đức và hội viên An Nam Phật học hội cùng bổn đạo Phật tử thiện nam tín nữ rộng phát lòng từ, giúp cúng cây gỗ vật hạng ít nhiều, để sửa lại điện Phật. Tôi cũng báo rõ cho hào lý sở tại chứng nhận sự thực có bao nhiêu người hảo tâm giúp cúng tên tuổi ghi vào bản liệt kê dưới đây. Xin chúc hiện tiền phước thọ tăng long, mất rồi cùng lên nước Phật. Vì thế, nay xin có lời báo cáo
Ngày mồng một tháng hai năm Bảo Đại 19 (1944)
Yết ma chùa sắc tứ Linh Sơn hiệu Quảng Đức tự ký
Bổn xã điều đồng ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Chánh trưởng ban chánh cửu phẩm đội trưởng Trần Lự thủ ký
Phó trưởng ban cửu phẩm đội trưởng Nguyễn Phương ký
Hội viên cửu phẩm văn giai Trần Ứng Long
Cửu phẩm Lê Đê thủ ký
Miễn sai Trần Yến thủ ký
Sở tại lý trưởng Lê Như Đính ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Phó lý trưởng Nguyễn Khánh thủ ký
Chánh hương bộ Hồ Vừa thủ ký
Hương dịch Trần Thương thủ ký
Hương mục Nguyễn Xuân Du ký
Hương lâm Trần Minh thủ ký
Yết ma hoà thượng chùa Phụng Sơn Ninh Hoà hiệu Nhơn Sanh phụng cúng tiền hộ niệm 10 đồng hiện đã giao
Thích Hưng Từ chùa Kim Long Ninh Hoà phụng cúng tiền 10 đồng
Giáo thọ chùa Thạch Sơn hiệu Nhơn Hoằng phụng cúng tiền 5 đồng
Trú trì chùa Phước Long xã Phước Lý hiệu Hoằng Chất cùng bổn đạo giúp cúng tiền 50 đồng vái ký
Thích tử chùa Phổ Hóa Bình Thành hiệu Viên Tịnh phụng hộ niệm cúng tiền 50 đồng
Trú trì chùa Khánh Long Tuân Thừa hiệu Từ Vân phụng cúng tiền 10 đồng
My Phong Am hiệu Khánh Vỹ xã Nga My huyện Phổ Đức tỉnh Quảng Ngãi cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Bổn đạo Quách Hữu Thiêm cùng thất trung Lao Thị Cần pháp danh Như Mẫn phụng cúng tiền 30 đồng
Bổn đạo tín nữ Văn Thị Dược pháp danh Đồng O phụng cúng tiền 20 đồng
Lão nhiêu Nguyễn Văn Chung pháp danh Đồng Nguyện cùng gia quyến xã Phú Sơn phụng cúng tiền 20 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Nghi pháp danh Đồng O xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền 20 đồng hiện đã giao
Hội viên Phật học hội Ninh Hoà Hoàng Như Quan pháp danh Tâm Uyển phụng cúng 10 đồng hiện đã giao
Hộ tự chùa Thiên Bữu Lao Thiện Chánh pháp danh Như Trung phụng cúng tiền 10 đồng
Võ Thị Lượng pháp danh Đồng Số thôn Đại Mỹ phụng cúng tiền dựng chánh điện 50 đồng hiện đã giao
Lại Văn Mô pháp danh Đồng Nhẫn và vợ Nguyễn Thị Nhàn pháp danh Đồng Phú xã Văn Định phụng cúng tiền 50 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Quyến pháp danh Đồng Thọ xã Mông Phú phụng cúng tiền dựng chùa 50 đồng hiện đã giao
Bành Thị Hoà pháp danh Đồng Cảm xã Vĩnh Phú phụng cúng tiền dựng chùa 15 đồng hiện đã giao
Ôn Sĩ Hoàng Nhật Quang pháp danh Đồng Nhật xã Minh Hương phụng cúng tiền dựng chùa 10 đồng hiện dã giao
Đỗ Trọng Thành pháp danh Đồng Quả xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền dựng chùa 5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Hiệu pháp danh Đồng Vọng xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền dựng chùa 30 đồng hiện đã giao
Nguyên giáo sư Nguyễn Xuân Khoá pháp hiệu Từ Pháp xã Cung Hoà phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Phan Thị May pháp danh Đồng Đắc xã Thạch Thành phụng cúng tiền 50 đồng hiện đã giao
Cửu phẩm lý trưởng Nguyễn Định pháp danh Đồng Quang xã Thạch Thành phụng cúng tiền 20 đồng
Đặng Thị Bạng pháp danh Đồng Xúc xã Thạch Thành phụng cúng tiền 30 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Trì pháp danh Như Thiện xã Thạch Thành phụng cúng tiền 10 đồng
Dương Thị Khuynh pháp danh Đồng Ứng xã Phước Lý phụng cúng tiền 4 đồng hiện đã giao
Lục Ngọc Cẩn xã Minh Hương phụng cúng 10 đồng hiện đã giao
Nguyễn Chất pháp danh Đồng Trực cùng gia quyến xã Lạc Xuân phụng cúng tiền 10 đồng hiện đã giao
Trần Thị Chước pháp danh Giác Hạnh tự Diệu Hoá tỉnh Quảng Ngãi phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Lại Văn Tụng và thất trung Phạm Thị Mực xã Văn Định phụng cúng tiền dựng chùa 5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Mẫn cùng con ruột Nguyễn Văn Đà xã Văn Định phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Nguyễn Văn Tú pháp danh Đồng Cẩm thôn Đại Mỹ phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Bổn đạo Triệu Thị Hưng pháp danh Như Long, Thẩm Thị Tròn pháp danh Như Viên cùng cúng tiền 5 đồng
Chánh trưởng ban Lê Tấn Lực xã Cung Hoà phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Phạm Thị Thứ xã Cung Hoà phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Phó trưởng ban Lê Bút pháp danh Nguyên Quảng xã Cung Hoà phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Lý trưởng Lê Duy Thanh xã Cung Hoà phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Chủ chùa chùa Long Thọ hiệu Bảo Giác phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa Thiên Quang Phạm Thị Liên pháp danh Tâm Hoa tự Diệu Hương cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa Long Thọ Nguyễn Thị Chí pháp danh Nguyên Niệm cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Chánh trưởng ban Trần Lục pháp danh Đồng Sự xã Tuân Thừa cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Cựu lý trưởng Trần Cái pháp danh Đồng Bồn tự Thiện Lợi xã Tuân Thừa cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Toạ chủ chùa Từ Bi hiệu là Thường Trân phụng cúng tiền 1 đồng
Trần Thị Lộc pháp danh Tâm Lịch xã Quang Vinh phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Cửu phẩm giáo sư Trần Dụ xã Quang Vinh phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Trà Văn Tri pháp danh Đồng Ân xã Lạc Ninh phụng cúng tiền 3 đồng
Đổ Tất pháp danh Đồng Thiện cùng gia quyến xã Lạc Xuân phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Lê Minh pháp danh Đồng Nguyệt phụng cúng tiền 2 đồng
Lê Minh Hối pháp danh Đồng Ngộ xã Bá Hà phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Văn Thật pháp danh Chúc Hạnh xã Tân Khê phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Huỳnh Thị Ích pháp danh Chúc tựu xã Phong Thạnh phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Sóc pháp danh Chúc Diệu xã Phong Thạnh phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
10. Văn kiện ngày 1 tháng 2 năm Bảo Đại 19 (1944)
Gồm 8 tờ giấy đỏ đóng lại bằng chỉ bổi trắng có bìa trước và sau bằng giấy trắng. Khổ 13.5 x 24.5. Trong đó chỉ 3 tờ đầu và tờ thứ 6 là có viết chữ, còn 4 tờ kia trống chữ viết bằng bút lông mực Tàu, dễ đọc. Đây cũng là văn kiện đi quyên tiền xây dựng chánh điện tổ đình Linh Sơn năm đến những người Việt gốc Hoa.
Nam mô A Di Đà Phật tác đại chứng minh
Yết ma hoà thượng chùa sắc tứ cổ tích Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hoà hiệu Quảng Đức, giám tự hiệu Viên Giác và các bổn đạo nhằm xin có lời báo cáo việc sau:
Trộm nghĩ thuyền đạo vượt biển, gió mát thổi khắp thì bước lên bờ đạo để đoàn viên; trăng tuệ sáng trời thuyền từ biển nam tỏ lòng thành mà ích lợi. Vì bổn chùa tại xã Hiền Lương do nguyên cố hoà thượng Thiên Quang dựng xây, trải qua năm tháng, cây gỗ hư nát rất nhiều.
Nối gót mà bần tăng trở về nhận ở, vâng việc trùng tu nhà cửa đông tây và cổng tam quan hiện đã xong rồi. Chỉ một toà chánh điện chưa thể làm lại trùng tu chấn chỉnh. Nhưng nghĩ lại bổn chùa có ít của cải đâu thể cán đán nhà lớn. Vì thế, bần tăng lập tờ này báo rõ việc quý vị thương chủ cục và thiện tín hảo tâm của Thanh bang hoặc phát lòng từ lớn giúp cúng tiền của, bố thí vật hạng để trùng tu lại chánh điện của chùa.
Được ơn rất lớn may mắn xiết bao, xin ghi phương danh cúng vào đây, tức để ghi bảng lưu truyền tới chốn xa.(do liệt quý vị tưởng niệm đến việc Phật mà cho của cải gì, bao nhiêu thì bần tăng nghĩ tình ghi lên bảng ở chùa để đời đời lưu chiếu trước thì giúp cho long thần hộ hựu, thứ nữa thì để tai mắt mọi người có thể thấy nghe)
Nay xin có lời báo cáo. Kính chúc gió trong trăng sáng núi Phổ Đà, hiện tại sống thì nay thêm phước thọ. Giả như chết rồi thì an bài nhất định dưới cửa Bắc sơn, nguyện về trời tây Cực lạc.
Nam mô A Di Đà Phật
Nay kính chúc
Thiện tín thanh bang lớn nhỏ chư liệt quý vị xét cho
Ngày mồng một tháng hai năm Bảo Đại 19
Nhằm ngày tốt tháng thới năm Giáp Thân
Chùa sắc tứ Linh Sơn Thích hiệu Quảng Đức tự ký
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Chánh trưởng ban chánh cửu phẩm đội trưởng Trần Lự thủ ký
Phó trưởng ban chánh cửu phẩm đội trưởng Nguyễn Phương thủ ký
Hội viên cửu phẩm văn giai Trần Ứng Long
Cửu phẩm Lê Đê thủ ký
Miễn sai Trần Yến thủ ký
Sở tại lý trưởng Lê Như Đính ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Phó lý trưởng Nguyễn Khánh thủ ký
Chánh hương bộ Hồ Vừa thủ ký
Hương dịch tình thương thủ ký
Hương mục Nguyễn Xuân Du ký
Hương lâm Trần Minh thủ ký
Lưu Chí Tường phụng cúng tiền dựng chùa 3 đồng hiện đã giao
Phương sanh đường phụng cúng tiền chánh điện 5 đồng
Đồng Thái phụng cúng tiền chánh điện 5 đồng hiện đã giao.
11. Văn kiện ngày 8 tháng 12 năm Bảo Đại (1944)
Gồm 1 tờ giấy A4, chữ viết tay bằng quốc ngữ của Hội đồng hào mục làng Hiền Lương thuận nhượng đất công hoang của làng cho tổ đình Linh Sơn để làm nghĩa địa chùa theo yêu cầu của bồ tát Quảng Đức. Tờ thuận nhượng này viết vào ngày 8 tháng 4 năm 1944, có chữ ký của lý trưởng xã Hiền Lương cùng hội đồng hào mục làng ký tên và đóng dấu. Văn bản viết bằng chữ quốc ngữ, nhưng lý trưởng lại ký bằng chữ Nho.
Tờ thuận nhượng đất công hoang
Chúng tôi là ban Hội đồng Hào mục làng Hiền lương, tổng Phước tường nội, huyện Vạn ninh, tỉnh Khánh hoà,
Đồng ưng thuận nhượng đất công hoang như sau nầy:
Cứ theo lời tường của ngài Lâm Văn Tuất, Kiết ma Hoà thượng hiệu Quảng Đức, trụ trì chùa Sắc tứ Linh Sơn rằng:
Nguyên cảnh chùa Linh Sơn hiện nay nội cuộc chánh điện, nhà đông, nhà tây, Miếu bà, Tam quan và bảo tháp rộng chừng 2 mẫu, đã thành tụ nguy nga rồi, nay ngài lại tường xin thêm đất công hoang chung quanh cảnh chùa, ước hơn hai mẫu, tục danh là gò gia để làm nghĩa địa.
Đất ấy đông giáp đình làng, lại gần viên gia cửu phẩm Trần Ứng Long, viên gia Nguyễn Trực và viên gia Trùm Mạnh;
Tây giáp công điền Đồng Bé lại gần đường xe lữa;
Nam giáp viên gia Nguyễn Địch, lấy 2 cây trụ cửa ngõ chùa làm giới hạn,
Bắc giáp sông.
Ngài tường xin khai phá làm nghĩa địa để ngày sau mai táng những người thiện tín, Thích tử thiền môn khi lâm chung.
Còn tất cả người trong làng, ai có từ trần thì được mai táng nơi vạt đất từ bảo tháp giọc đến Miếu bà, nhưng phải do chủ chùa chỉ định cho có trật tự, không được tự tiện.
Cứ lời tường như vậy, làng chúng tôi xét lại chỗ đất ấy quả là một khoảnh đất công hoang chứ không xâm phạm công tư điền thổ nào cả, nên làng chúng tôi cũng đồng ưng thuận nhượng khoảnh đất công hoang ấy lại cho chùa Sắc tứ Linh Sơn để làm nghĩa địa.
Nay thuận nhượng
Làm tại thôn Hiền Lương ngày 8 tháng 4 năm 1994
12. Văn kiện ngày 01 tháng 10 năm 1960
Gồm 2 tờ giấy A4 đánh máy bằng chữ quốc ngữ, bên lề có dán 4 con niêm của Việt Nam Cọng Hoà có đóng dấu, mỗi con giá 10 đồng. Nội dung là biên bản khám xét ngày 01 tháng 10 năm 1960 của hội đồng khám xét gồm những người đại diện chính quyền xã Ninh Đông và thôn Phước Thuận cùng cựu lý hào thân sĩ, để giải quyết yêu cầu xin vi bằng ruộng đất chùa của tự trưởng chùa Thiên Ân và thân hào thân sĩ thôn Phước Thuận. Biên bản này lập ra để trình cho quận trưởng quận Ninh Hoà thẩm xét để giải quyết. Nguyên do của yêu cầu cấp vi bằng này là vì “trong thời kỳ còn ổn định có đủ giấy tờ thực trưng ba sở đất và giấy tờ phụng cúng của các thiện tín hảo tâm, đều giao cho ông Hoà thượng Lâm Văn Tuất chấp giữ. Đến năm 1948 chiến tranh, ông Lâm Văn Tuất tẩu thoát mất và giấy tờ cũng bị mất, thất lạc không kiếm tìm được”. Như vậy việc yêu cầu cấp vi bằng năm 1960 chắc chắn là có sự tham mưu của bồ tát Quảng Đức cho vị đương nhiệm quản lý chùa Thiên Ân thời đó là ông Lê Thành.
Tỉnh Khánh Hoà VIỆT NAM CỌNG HOÀ
Quận Ninh Hoà
Xã Ninh Đồng BIÊN BẢN NHẬN XÉT
Số: 688/ HC.ĐĐĐ.NĐ
Hôm nay là ngày 1 tháng 10 năm 1960 hồi 10 giờ.
Chúng tôi một hội đồng gồm có:
– Ông Đoàn Phiêu Đại diện xã Ninh Đông.
– Võ Xuân Sơn Hội viên kinh tế xã.
– Nguyễn Cương Ban nông vụ xã.
– Đặng Hơn Thôn trưởng Phước Thuận.
– Lê Thành tự trưởng chùa Thiên Ân, Phước Thuận.
– Bùi Du, Nguyễn Bá cựu lý thân hào, thân sĩ. Và 13 ông bàn cận ký tên sau đây đều hội tại chùa Thiên Ân và quý thân hào thân sĩ thôn Phước Thiện, xã Ninh-Đông, quận Ninh-hoà, tỉnh Khánh-hoà.
Chiếu đơn xin của quý ông trên đề ngày 10/9/1960 về việc xin vi bằng mất cựu đơn khẩn ruộng đất của chùa Thiên ân, toạ lạc tại thôn Phước thuận xã Ninh Đông quận Ninh-hoà tỉnh Khánh-hoà đã bị mất giấy tờ trong thời kỳ chiến tranh.
Hội đồng chúng tôi đến tận nơi khám xét:
1.- là diện tích của 3 sở tư điền thổ của chùa Thiên ân là 47.988m2 thành 9 mẫu 6 sào 3 thước ta đều toạ lạc tại thôn Phước thuận diện tích và chi tiết giới cận của 3 sở như sau:
SỞ THỨ NHẤT: do của ông Tổ khai sơn chùa Thiên ân là Bửu – Tịnh tậu mải và ông Trương Quyền cúng hồi năm 1802, diện tích là 29.843 m2 thành 5 mẫu 9 sào 12 theo tam bộ kiến điền Phước thuận tại xứ đông cầu ké và cây trâm, 1 khoảnh từ đám số 215 đến 229 và số 337 (và số 291 thổ mộ)
– thổ hạng ba 4 mẫu 1 sào 8 thước.
– điền hạng ba 1 mẫu 5 sào 13 thước. Tục danh là ruộng chùa và giới cận như sau:
– Đông cận tư thổ viên gia, Cao Bổ, tư điền Nguyễn Chức, Nguyễn Cương, Đặng Bôn và Gò mả
– Tây cận sông Chò.
– Nam cận tư thổ viên gia, Nguyễn Đạt và Nguyễn Khao.
– Bắc cặn tư điền Nguyễn Cương, Cao Tuyển và tư thổ Nguyễn Quân.
SỞ THỨ HAI: do của bà Hào, bà Trộm cúng, diện tích là 12.810m2 thành 2 mẫu 5 sào 10 thước theo tam bộ kiến điền của thôn Phước thuận gồm có 14 đám tại xứ đông cầu ké, từ đám số 327 đến số 340 tục danh là ruộng bà hào và giới cận như sau thuộc tam hạng điền.
– Đông cận mương nước (mương chủ) Phước thuận.
– Tây cận tư điền Nguyễn Thị Mươi, tư thổ viên gia Ng-Chức.
– Nam cận công điền viên gia Nguyễn Dìn và Nguyễn Thép.
– Bắc cận tư thổ viên gia Hồ Đình và tư điền Nguyễn Khiêm và Nguyễn Thị Chín.
SỞ THỨ BA: do của ông Trương Quyền bà Phạm Thị Quá cúng, diện tích là 5.355m2 thành 1 mẫu 0 sào 11 thước theo tam bộ kiến điền của thôn Phước thuận gồm có 15 đám từ số 24 đến số 38 thuộc tam hạng điền tại xứ đông thiện điền, tục danh là ruộng tiên điền và giới cận như sau:
– Đông cận mương nước bến chai.
– Tây cận mương chủ Phước thuận
– Nam cận là công điền Phước Thuận.
– Bắc cận mương chủ và công điền Phước Thuận.
Đông tây tứ cận của ba sở tư điền thổ của chùa, Thiên Ân trên là đúng theo đơn xin và sơ đồ không bị xâm chiếm công tư điền thổ của ai.
2. Diện tích của ba sở tư điền trên quả thật của chùa Thiên Ân
– một sở của ông Bửu Tịnh tạo lập hồi Gia Long thứ nhất (1802)
– một sở của bà Hào, bà cúng cho chùa có tạt bài vị thờ.
– một sở của vợ chồng ông Trương Quyền và bà Phạm Thị Quá cúng có tạt bài vị để tại chùa trong lúc trước trong thời kỳ còn ổn định có đưa giấy tờ thực trưng ba sở đất và giấy tờ phụng cúng của các thiện tín hảo tâm, đều giao cho ông hoà thượng LÂM VĂN TUẤT chấp giữ. Đến năm 1948 chiến tranh ông Lâm Văn Tuất tẩu thoát mất và giấy tờ cũng bị mất thất lạc không kiếm tìm được, cũng quả thật như đơn xin và chứng thật của ông thôn trưởng và bàn cận nơi toạ lạc của sở tư điền thổ trong thời bị mất giấy tờ.
3. Việc mất giấy tờ vì lý do: chiến tranh nên giấy tờ bị thất lạc cũng quả y như đơn xin và lời chứng của bàn cận.
Vậy hôm nay hội đồng khám xét chúng tôi lập biên bản này kính đệ trình lên ông QUẬN TRƯỞNG QUẬN NINH HOÀ thẩm hành./.
Hội đồng khám xét ký tên:
Đại diện xã: Đại diện kinh tế: Ban nông vụ xã: Thôn trưởng Phước Thuận:
Đoàn Phiêu Võ Xuân Sơn Nguyễn Cương Đặng Hơn
Ký tên Ký tên Ký tên Ký tên
Hội đồng hào lão: Bàn cận ký chứng:
Bùi Du Nguyễn Bá Nguyễn Cương Nguyễn Chức
Ký tên Ký tên Ký tên Dấu tay
Lê Thành Nguyễn Khao Cao Tuyền
Ký tên Ký tên Ký tên
Nguyễn Thép Nguyễn Quận Nguyễn Dìn
Ký tên Ký tên Ký tên
Nguyễn Thị Chín Hồ Đinh Nguyễn Khiêm
Ký tên Ký tên Ký tên
Nguyễn Thị Mười Cao Bổ Nguyễn Đẹt.
Ký Ký tên Ký tên
13. Văn kiện ngày 09 tháng 2 năm 1961
Gồm tờ giấy A4 đánh máy bằng chữ quốc ngữ bên lề có dán 2 con niêm của Việt Nam Cọng Hoà, giá mỗi con 10 đồng và có đóng dấu nội dung là chứng chỉ vi bằng do quận trưởng quận Ninh Hoà tỉnh Khánh Hoà cấp cho ông tự trưởng chùa Thiên Ân nhằm “giúp cho ông tự trưởng chùa Thiên Ân đầu đơn tại toà án để xin xác nhận quyền sở hữu của chùa, giúp cho việc điều tra và xét xử của toà án được nhanh chóng dễ dàng và tạm thời cho ông tự trưởng chùa Thiên Ân được hưởng hoa lợi các sở ruộng này cùng thọ nạp thuế cho chánh phủ”.
TRUNG NGUYÊN TRUNG PHẦN VIỆT – NAM CỘNG – HÒA
Tỉnh Khánh hòa
Quận Ninh hòa CHỨNG CHỈ VI BẰNG
Số 990 HC/CCĐĐ
– Chiếu đơn ngày 10-9-60 của ông TỰ TRƯỞNG chùa THIÊN ÂN tại thôn Phước thuận xã Ninh Đông quận Ninh Hòa, xin chứng chỉ vi bằng mất cựu văn khế trong thời kỳ chiến tranh cho 3 sở ruộng chùa tọa lạc tại thôn PHƯỚC THUẬN, xã NINH ĐÔNG, quận NINH HÒA kê như sau:
1/- SỞ THỨ NHẤT: diện tích được 5 mẫu 9 sào 12 thước ta gần tứ cận như sau:
Đông giáp viên gia Cao Bổ, tự điền Nguyễn chức, Nguyễn Cương, Đặng Bốn và Gò mã.
Tây – Sông chò.
Nam – viên gia Nguyễn Đẹt, Nguyễn Khao.
Bắc – tư điền Nguyễn Cương, Cao Tuyền và Nguyễn Quân.
2/-SỞ THỨ NHÌ: diện tích được 2 mẫu 5 sào 10 thước ta gần tứ cận như sau:
Đông giáp: Mương nước Phước Thuận
Tây – tư điền Nguyễn Thị Mười, tư thổ Nguyễn Chức.
Nam – công điền và viên gia Nguyễn Dìn và Nguyễn Thép.
Bắc – tư thổ Hồ Định, tư điền Nguyễn Khiêm và Nguyễn thị Chín.
3/- SỞ THỨ BA: diện tích được 1 mẫu 0 sào 11 thước ta gần tứ cận như sau:
Đông giáp mương nước bến chài.
Tây – mương chủ Phước thuận.
Nam – công điền.
Bắc – mương chủ và công điền.
Chiếu biên bản điều tra và khám đất số 688-HC/CCĐĐ-NĐ ngày 1-10-60 của hội đồng xã Ninh Đông xác nhận việc mất cựu văn khế nói trên của chùa Thiên Aân là đúng sự thật và diện tích tứ cận y như trong biên bản có kèm theo lược đồ của đương sự.
Chiếu thông cáo số 5354-HC/ CCĐĐ-NĐ ngày 15-11-60 của quận Ninh Hòa đã mãn hạn niêm yết mà không có người nào khiếu nại về các sở ruộng nói trên.
Nay cấp cho ông TỰ TRƯỞNG chùa THIÊN ÂN chứng chỉ vi bằng mất cựu văn khế các sở ruộng nói trên để chấp chiếu.
Chứng chỉ này chỉ có giá trị về phương diện hành chánh, giúp cho ông TỰ TRƯỞNG chùa THIÊN ÂN đầu đơn tại tòa án để xin xác nhận quyền sở hữu của chùa, giúp cho việc điều tra và xét xử của tòa án được nhanh chóng dễ dàng và tạm thời cho ông TỰ TRƯỞNG chùa THIÊN ÂN được hưởng hoa lợi các sở ruộng này cùng thọ nạp thuế cho chánh phủ
NINH HÒA, ngày 9 tháng 2 năm 1961
QUẬN TRƯỞNG QUẬN NINH HÒA
Nơi nhận
Ông Tự Trưởng chùa THIÊN ÂN
1 bản chứng chỉ vi bằng
1 biên bản khám đất
3 bản lược đồ để chấp chiếu TRẦN NGỌC NGHI
Ông đại diện hội đồng xã Ninh Đông (ký tên đóng dấu)
1 bản chứng chỉ vi bằng
1 biên bản khám đất
3 bản lược đồ để lưu tại xã
Hồ sơ và lưu chiếu.
14. Văn kiện ngày 24 tháng 10 năm 1961
Gồm 1 tờ giấy A4 đánh máy bằng chữ quốc ngữ, có con niêm Việt Nam Cọng Hoà đóng dấu, giá 20 đồng. Nội dung là phán quyết của toà án sơ thẩm Khánh Hoà đối với quyền sở hữu bất động sản của chùa Thiên Ân đối với 9 mẫu 6 sào 3 thước điền thổ của mình, mà khế ước bị thất lạc trong thời gian chiến tranh từ 1945 đến 1954. Số khế ước này của chùa Thiên Ân nguyên do bồ tát Quảng Đức chấp giữ. Sau đó, do điều kiện khách quan cho phép, thầy Giác Huệ cùng với giáo hội tăng già tỉnh Khánh Hoà đã đứng ra xin quyền sở hữu vừa nói.
TRÍCH LỤC BẢN CHÍNH ĐỂ TẠI PHÒNG LỤC SƯ TÒA SƠ THẨM KHÁNH HÒA
Ngày 24-10-1961 VIỆT- NAM CỘNG – HÒA
Án hộ số 250/ DS NHÂN DANH QUỐC DÂN VIỆT NAM
Án xác nhận Tòa sơ thẩm Khánh Hòa khán định về án ông
quyền sở hữu bất động sản. NGUYỄN HỮU THỨ ngồi ghế công tố viên và
Vụ số 586/ 61 ông NGUYỄN HỮU CHẤN ngồi ghế lục sự đã
—– nhóm lại ngày 24 tháng 10 năm 1961 trong phiên
Có mặt xử các ông: xử công khai tại Pháp đình công đường tòa sơ
NGUYỄN TOẠI: Chánh án thẩm Khánh Hòa và đã tuyên án như sau:
NGUYỄN HỮU THỨ: Biện lý BẢN ÁN
NGUYỄN HỮU CHẤN: lục sự TÒA ÁN
Chiếu đơn đề ngày 30-9-1961 của THÍCH HẠNH HẢI tục danh Phan Cẩm Long, chánh trị sự trưởng giáo hội tăng già Khánh hòa và đại diện tăng già quận Ninh hòa trình bày rằng chùa Thiên Ân ở thôn Phước Thuận, xã Ninh Đông, quận Ninh Hòa có ba sở tư điền thổ tọa lạc tại thôn Phước Thuận là:
– Sở thứ nhất: diện tichs 29.843m2 tức 5 mẫu 9 sào 12 thước do Trương Quyên cúng cho chùa hồi năm 1802
– Sở thứ hai: diện tích 12. 810 m2 thành 2 mẫu 5 sào 10 thước do các bà Nguyễn Thị Hào, Nguyễn Thị Trộm lập hậu điền.
– sở thứ ba: diện tích 5.355 m2 thành 1 mẫu 0 sào 11 thước do Trương Quyên và Phạm Thị Quá cúng cho chùa.
Ba sở tư điền thổ này thật của tư hữu của chùa Thiên Ân có lớp trú trì kế thế cùng thuộc quyền của tăng sĩ. Đến năm 1945 trong thời chiến tranh, trụ trì đương thời chùa Thiên Ân là hòa thượng Thích Quảng Đức lánh nạn văn khố bị thất lạc, ngôi chùa bị tàn phá. Đến năm 1960 Lê Thành hiệu là Giác Huệ về làm tự trưởng trùng tu lại chùa và quản trị các điền thổ đã xin vi bằng chứng chỉ thất lạc văn khế tại quận Ninh hòa.
Đến nay Lê Thành già yếu nên đem giao lại cho giáo hội tăng già quận Ninh hòa nên giáo hội cử nguyên đơn đứng đơn xin tòa công nhận quyền sở hữu về ba sở điền thổ nói trên.
Chiếu biên bản điều tra và khám đất số 688-HC/ CCĐĐ-NĐ ngày 1-10-60 của hội đồng xã Ninh đông xác nhận việc mất văn khế về các tư điền thổ nói trên của chùa Thiên Ân
Chiếu thông cáo số 5354-HC/ CCĐĐ-NĐ ngày 15-11-60 của quận Ninh Hòa đã mãn hạn niêm yết mà không có ai khiếu nại về các bất động sản nói trên.
Chiếu chứng chỉ vi bằng ngày 9-2-61 của quận trưởng Ninh Hòa.
Chiếu tài liệu hồ sơ thì có đủ bằng chứng là những bất động sản nói trên thuộc quyền sở hữu của chùa Thiên Ân.
VÌ NHỮNG LẼ ẤY
Xử công khai, theo đơn thỉnh cầu, sơ thẩm về dân sự.
Xác nhận rằng những tư điền thổ sau đây tọa lạc tại thôn Phước thuận, xã Ninh Đông quận Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa là thuộc quyền sở hữu của chùa Thiên Aân ở thôn Phước Thuận:
SỞ THỨ NHẤT: diện tích 29.843m2 thành 5 mẫu 9 sào 12 thước do Trương Quyên cúng vào chùa năm 1802.
Đông cận: tự thổ viên gai Cao Bổ, tự điền Nguyễn Chức, Nguyễn Cương, Dạng Bốn và Gò mả
Tây cận: sông chò
Nam Cận: tự thổ viên gia Nguyễn Dẹt và Nguyễn Khao
Bắc cận: tự điền Nguyễn Chương, Cao Tuyên và tự thổ Nguyễn Quận.
SỞ THỨ HAI: diện tích 12. 810 m2 thành 2 mẫu 5 sào 10 thước do các bà Nguyễn Thị Hào, Nguyễn Thị Trộm lập hậu điền.
Đông cận: Mương nước Phước Thuận
Tây cận: Tư điền Nguyễn Thị Mười, tư thổ viên gia Nguyễn Chức.
Nam cận: Công điền và viên gia Nguyễn Dìn và Nguyễn Thép.
Bắc cận: Tư thổ viên gia Hồ Định, tư điền Nguyễn Khiêm và Nguyễn thị Chín.
SỞ THỨ BA: diện tích 5.355 m2 thành 1 mẫu 0 sào 11 thước do Trương Quyên và Phạm Thị Quá cúng cho chùa.
Đông cận: Mương nước bến chài.
Tây cận: Mương chủ Phước thuận.
Nam Cận: Công điền Phước thuận.
Bắc cận: mương chủ và công điền Phước thuận.
Đễ nguyên đơn chịu án phí.
Đã lập phán định và đã tuyên tại ngày tháng năm kể trên tại Pháp đình công đường tòa sơ thẩm Khánh Hòa.
Ký tên: NGUYỄN TOẠI NGUYỄN HỮU CHẤNH
Trước bạ tại Nha Trang, ngày 6 tháng 12 năm 1961
TA HUYNH
SAO Y CHÍNH BẢN
Bản sao cấp cho THICH HANH HAI theo lời yêu cầu
Nha Trang, ngày 21 tháng 12 năm 1961
CHÁNH LỤC SƯ
LƯƠNG TƯ PHẤN
CHƯƠNG II: Hai tư liệu liên hệ với thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm
Chương II là hai văn kiện liên hệ đến việc cúng ruộng và đúc chuông của bổn sư Bồ tát Quảng Đức là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm. Vì là cậu ruột của bồ tát Quảng Đức, nên thiền sư cũng sinh ra và lớn lên tại cùng quê là làng Hội Khánh huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hoà. Thiền sư là người con thứ ba trong gia đình, sinh năm Đinh Tỵ (1857), tên đời là Nguyễn Giá, anh ruột của bà Nguyễn Thị Nương là mẹ của bồ tát Quảng Đức.
Thiền sư xuất gia muộn, lớn hơn vị thầy của mình là thiền sư Chơn Hương Huyền Túc Thiên Quang đến cả 6 tuổi. Thiền sư sinh ngày 1 tháng 5 năm Đinh Tỵ (1857) và cũng mất trước thầy mình 18 năm vào ngày 23 tháng 11 năm Tân Dậu (1921), thọ 67 tuổi. Tương truyền trước khi xuất gia, thiền sư đã luyện tập các môn huyền học. Dân vùng Vạn Ninh còn kể chuyện thấy thiền sư cỡi cọp từ trong núi đi ra. Cọp vùng này thuộc loại dữ nhất nước, như ca dao đã từng ghi nhận: cọp Khánh Hoà, ma Bình Thuận.
Sau khi xuất gia, học tập và thọ giới với bổn sư của mình tại tổ đình Linh Sơn, thiền sư đã đến làng Phú Cang ở tại chùa Long Hoà của làng này cho đến lúc khai sơn chùa Long Sơn vào năm Thành Thái thứ 10 (1899). Chính tại ngôi chùa này vào cuối năm 1976, chúng tôi đã phát hiện ra bản in xưa nhất của tác phẩm dài nhất của văn học quốc âm Việt Nam là Hứa sử truyện vãn do chính tác giả là thiền sư Toàn Nhật Vi Bảo Quang Đài (1757- 1834) đứng in.
Văn bản này đã trở thành tư liệu cơ sở cho công tác nghiên cứu và công bố các thơ văn mà chúng tôi tập hợp được thành Toàn tập Toàn Nhật Quang Đài. Căn cứ vào bản kê khai pháp bảo tự khí của tổ đình Linh Sơn do Hoằng Chất thiết lập vào năm Bảo Đại 15 (1940) ở trên ta không thấy có văn bản ấy. Điều này chứng tỏ nó phải được chính thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm đã thỉnh ở đâu đó về chùa Long Sơn của mình, nếu không nữa thì các đệ tử, trong đó có khả năng là Bồ tát Quảng Đức của chúng ta đã làm việc ấy.
Dẫu sao đi nữa, ngoài Bồ tát Thị Thủy Hạnh Pháp Nhơn Tri Quảng Đức, thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm đã đào tạo được một số đệ tử kế thừa mình tại chùa Long Sơn cũng như các chùa khác ở Vạn Ninh.
Chẳng hạn, thiền sư Thị Hớn Hạnh An Nhơn Thọ (1881-1947) đã kế thế bổn sư mình để làm trú trì chùa Long Sơn, thiền sư Thị Cảnh Hạnh Phước Viên Minh (1881-1967), thế danh Lâm Văn Quy, là anh ruột của Bồ tát Quảng Đức, trú trì chùa Pháp Hải ở làng Lạc Hoà, Ninh Hoà v.v….
Cho nên, sự có mặt của Hứa sử truyện vãn tại tổ đình Long Sơn chứng tỏ, nếu không được các vị ấy thỉnh về thì chắc chắn cũng được các vị ấy đọc và học tập. Từ đó, nó có ảnh hưởng nhất định trên tư tưởng và hành động của đồ chúng tổ đình Long Sơn.
Hứa sử truyện vãn được truyền bá rất rộng rãi, đặc biệt tại các vùng Nam trung bộ và Nam bộ. Phần lớn những bản in và chép tay, dù xuất hiện ở các vùng khác của đất nước, cũng chủ yếu xuất phát từ hai vùng ấy. Sự tình này giải thích không ít tại sao những vùng đấy đã sản sinh ra nhiều nhân tài Phật giáo, mà tiêu biểu là thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán (1668-1746), người khai sáng ra dòng thiền Thiên Thai Thiền Tôn ở Huế và Võ Trứ người cùng với Trần Cao Vân cầm đầu cuộc khởi nghĩa năm 1887 tại Phú Yên mà thực dân Pháp gọi là “giặc thầy chùa” trong quá khứ và nhất là Bồ tát Quảng Đức của chúng ta trong thời hiện đại.
Bản thân thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm thông qua lời lẽ trong văn kiện cúng ruộng ngày 12 tháng chạp năm Duy Tân thứ hai (1907) cho tổ đình Linh Sơn, Long Hòa và Long Sơn cho ta thấy một phần nào tâm nguyện hộ đạo của Người.
Bản thân chùa Long Sơn là do chính thiền sư Hoằng Thâm khai sơn vào năm Thành Thái thứ 10 (1899). Điều này chứng tỏ thiền sư đã xuất gia và theo học với thầy mình tại tổ đình Linh Sơn một thời gian. Rồi sau đó, căn cứ vào văn kiện cúng ruộng cho chùa Linh Sơn và Long Hòa, ta biết thiền sư đã ra ở chùa Long Hoà.
Chùa này là ngôi chùa do dân làng Phú Cang dựng nên. Cho nên, đến năm 1899, thiền sư đã khai sơn chùa Long Sơn cũng tại làng ấy. Việc xây dựng chùa Long Sơn kéo dài trong một thời gian dài, cho đến ngày 28 tháng 2 năm Duy Tân thứ 2 (1907) thì hoàn tất việc đúc đại hồng chung cho chùa, hiện vẫn còn. Cùng năm với việc đúc chuông, đến tháng chạp thì thiền sư đã đem ruộng cúng cúng cho ba chùa Long Sơn, Linh Sơn và Long Hoà.
Tổ Hoằng Thâm làm xong những việc đó thì đến ngày 23 tháng 11 năm Tân Dậu (1921) thiền sư đã vĩnh viễn ra đi. Các đệ tử của thiền sư, trong đó có bồ tát Quảng Đức lúc ấy đang làm tri sự chùa, đã cùng nhau đưa tiển vị thầy mình đến nơi an nghĩ cuối cùng và xây tháp ở bên trái phía trước chùa. Trong số các văn kiện liên hệ đến tổ Hoằng Thâm, ta hiện chỉ mới phát hiện được hai. Đó là bài minh khắc trên chuông chùa Long Sơn ghi tên những vị chứng minh và cúng tiền đúc nên quả chuông đó vào ngày 28 tháng 2 năm Duy Tân thứ 2 và văn kiện cúng ruộng cho chùa Long Sơn, Linh Sơn và Long Hoà vào ngày 12 tháng 12 năm Duy Tân thứ 2 (1907).
15. Văn kiện ngày 28 tháng 3 năm Duy Tân thứ hai (1907).
Văn kiện này là một bài minh khắc trên đại hồng chung của chùa Long Sơn đúc vào ngày 28 tháng 3 năm Duy Tân thứ hai (1907) do thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm thực hiện.
Nội dung ghi trên bốn mặt của thân chuông, mỗi mặt khắc một chữ ghi lại tên mùa là Xuân, rồi Hạ, rồi Thu và Đông, chủ yếu ghi tên những Phật tử đã cúng tiền đúc chuông dưới sự chứng minh của tổ sư Thiên Quang chùa Linh Sơn và Hiền Thạnh chùa Linh Thượng. Bắt đầu từ mặt chữ Xuân, bài minh này đọc:
(xuân) Trú trì chùa cổ tích Long Sơn xã Phú Cang tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hoà tỉnh Khánh Hoà nước Đại Nam hiệu Hoằng Thâm kính thưa:
Đến chỗ vết Phật, mắt trông bờ kia mà thấy cao sáng.
Nhờ được sự che chở mà bần tăng tự đến cửa thiền cùng bổn xã tự ra tiền của và quyên góp mười phương, vâng dựng chùa Phật, để làm báu pháp, nay đã trải nhiều năm mà chuông trống chưa có. Nay việc tu sửa chùa chiền đã hoàn thành, hương chủ của bổn xã nguyện phát tâm thỉnh hồng chung một chiếc. Có bao nhiêu tiền bạc quyên được và quý danh xin khắc vào trên chuông:
(hạ) Yết ma chùa Linh Sơn hiệu Thiên Quang chứng minh.
Yết ma chùa Linh Thượng hiệu Hiền Thạnh chứng niệm.
Hương chủ sở tại Võ Văn Trung pháp danh Ngộ Đắc phụng cúng tiền 10 đồng.
Hương trưởng Thái Văn Lương cúng tiền 2 đồng.
Thủ sắc Ngô Khanh pháp danh Tâm Quang cúng tiền 1 đồng.
Yển tri Phạm Văn phụng cúng tiền 3 đồng.
Cựu lý trưởng Đinh Văn Tài cúng tiền 1 đồng.
Cựu phó lý Võ Văn Trọng cúng tiền 1 đồng.
Binh Ngô Văn Lộc cúng tiền 5 quan.
(thu) Võ Văn Giới pháp danh Thị Chiếu cúng tiền 1 đồng.
Đệ tử chùa Thánh Kinh Bành Viên Khải cúng tiền 5 hào.
Trú trì chùa Nghĩa Phương Triệu Phổ Quảng cúng tiền 3 quan.
Điển toà chùa Linh Sơn pháp danh Như Độ cúng tiền quan điệu Hoằng Phước cúng tiền 1 đồng.
Phạm Văn Mâu pháp danh Thị Tâm cúng tiền 1 đồng.
Nguyễn Thị Hậu cúng tiền 3 quan.
Trương Mẫn cúng tiền 1 đồng.
Nguyễn Văn Ngoan cúng tiền 1 quan 5 hào.
Nguyễn Thị Ký cúng tiền 3 quan.
Y Nguyễn Hữu Chí cúng tiền 1 đồng.
Bổn đạo chùa Linh Sơn Nguyễn Ngọc Tung pháp danh Như Kịch cúng tiền 2 đồng.
(đông) cựu lý trưởng Chất cúng tiền 5 hào.
Cựu lý truởng Nguyễn Văn Chữ cúng tiền 1 đồng.
Vợ chồng lý trưởng xã Vinh Hoà Nguyễn Văn Thành cúng tiền 1 đồng.
Lê Văn Ngọt cúng tiền 1 đồng.
Hoàng Văn Tịch cúng tiền 1 quan 5 hào.
Hồ Thị Bằng cúng tiền 1 quan 5 hào.
Đinh Điệu cúng tiền 1 đồng.
Hương Lễ cúng tiền 6 quan.
Hồ Văn Tang xã Xuân Tự cúng tiền 1 đồng.
Danh Đặng Quán pháp danh Như Tiến cúng tiền 3 quan.
Bổn đạo chùa Linh Sơn pháp danh Như Niệm cúng tiền 3 quan.
Võ Văn Tự cúng tiền 2 quan.
Hồ Như Tâm cúng tiền 3 quan.
Ngày 28 tháng 3 năm Duy Tân thứ 2
Nguyện khắp lớn nhỏ đều thành chánh giác.
16. Văn kiện này ngày 12 tháng 12 năm Duy Tân thứ 2 (1907)
Văn kiện này là một bản sao của chính bản do thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng thực hiện ngày 15 tháng 5 năm 1958 lúc ấy đang trú trì chùa Linh Sơn, có chứng thực của Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương ngày mồng 3 tháng 6 cùng năm cũng như sự xác nhận của Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hoà ngày 30 tháng 9 năm 1958.
Văn kiện này hiện chỉ có 2 tờ giấy bổi láng, khổ 14×20, đóng chung với bản sao 6 văn kiện cúng ruộng đất khác của chùa Linh Sơn và được Đại diện hội đồng xã Vạn Lương chứng thực vào cùng một ngày. Nội dung viết bằng chữ Hán như sau:
Đệ tử Nguyễn Như Đạt, tự Giải Nghĩa, hiệu Hoằng Thâm chùa cổ tích Long Sơn xã Phú Cang tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hoà trăm lạy xin thưa về việc phụng cúng tự điền cùng trần tình sự duyên:
Đạt từ lúc nhận giới điệp của bổn sư tới nay, vui thấy mây từ, mừng gội mưa pháp, bốn ân tưởng đến, thường quấn tấc lòng, nhưng không biết làm sao. Lòng trái với việc, tình bị cảnh trở đến nỗi ngổn ngang chưa định, mịt mờ không thông. Những đêm thanh vắng lúc tham thiền tưởng nhớ, thì lòng trần vứt hết, bèn may mắn mở được một con đường giác ngộ.
Vì thế, Đạt không tiếc những gì mình có, chỉ muốn dùng đem để trả ơn. Đạt xin đem những pháp khí, tự sản cùng tự điền của Đạt (16 mẫu) đưa vào chùa cổ tích Long Sơn để tiện về một mối. Còn ba mẫu thì xin dâng cúng cho chùa Linh Sơn của bổn sư để biểu nghĩa thầy trò, ba mẫu thì đem dâng cúng cho chùa Long Hòa nơi mình ở để đáp lại ơn đất nước.
Cúi mong hoà thượng bổn sư treo cao trời tuệ, tác đại chứng minh, duỗi lòng xét nhận hầu giúp tâm thành của Đạt vươn thấu tới hư không, để cho một tấm hạ tình của Đạt chóng tiêu hết những lo lắng trần tục. Đạt khôn xiết cảm tạ đội ơn.
Nay ruộng ba mẫu đem dâng cúng có gì cũng đem nơi chốn kê ra dưới đây. Nay lời dâng cúng ruộng xin kê:
Dâng cúng ruộng 3 mẫu toạ lạc tại xứ Đồng Bé (đông giáp ruộng chùa và sông, tây giáp ruộng chùa, nam giáp đường sông và bắc giáp ruộng chùa).
Sở ruộng 3 mẫu.(hạng nhất 7 sào, hạng nhì 8 sào, hạng ba một mẫu và hạng tư 5 sào)
Ngày 12 tháng 12 năm Duy Tân thứ 2 (1907).
Bổn xã đồng ký.
Xã Vinh Huề bổn xã đồng ký.
Đệ tử hiệu Hoằng Thâm tự ký.
Vâng viết lời: Đệ tử Phạm Ngũ Giáo tự ký.
Chương III: Văn kiện liên hệ đến Tổ đình Linh Sơn
Chương này tập trung 12 văn kiện liên hệ chủ yếu đến tổ đình Linh Sơn và thiền sư Chơn Hương Huyền Túc Thiên Quang về các sinh hoạt Phật sự ruộng đất và xây dựng của tổ đình. Thiền sư Thiên Quang sinh giờ Dần ngày 28 tháng 12 năm Nhâm Tuất (1863) và mất vào giờ Dần ngày 26 tháng 12 năm Mậu Dần (1939), thế danh là Phạm Huyền Túc, tại làng Sơn Hoà tỉnh Phú Yên. Cha là cụ Phạm Dĩ mẹ là bà Nguyễn Thị Điền.
Lớn lên, thiền sư đến xuất gia với tổ Ấn Chánh Tổ Tông Huệ Minh, nên sau đó được đặt tên là Chơn Hương Thiên Quang. Ta hiện chưa truy ra pháp tự của thiền sư. Những người đồng hàng và đệ tử của thiền sư Ấn Chánh đều bắt đầu bằng chữ đạo như Chơn Chánh Đạo Tâm Pháp Tạng, người đã chép bản Hứa sử truyện vãn vào năm Thành Thái Ất Mùi (1895), Chơn Tâm Đạo Tánh Pháp Thân, người đã khai sơn chùa Phước Huệ tại Huế và chú giải Tam bảo biện hoặc luận v.v..
Thiền sư Chơn Quang lớn lên thì đất nước đang bị nạn ngoại xâm do giặc Pháp gây ra. Chính tại quê hương Phú Yên của mình, những người Phật tử yêu nước đã anh dũng đứng lên dưới sự lãnh đạo của các thiền sư Võ Trứ và Trần Cao Vân, quyết liệt chống trả với kẻ thù vào những năm 1893.
Đây hẳn là thời điểm thiền sư Thiên Quang đã vào vùng Vạn Ninh lánh nạn để tránh sự trả thù đê hèn của giặc, sau khi cuộc khởi nghĩa Võ Trứ Trần Cao Vân thất bại. Dù với thời điểm nào, ta cũng có thể chắc chắn là thiền sư vào trú trì chùa Linh Sơn vào khoảng thời gian ấy.
Lý do suy nghĩ như vậy xuất phát từ chỗ tổ Thiên Quang có người đệ tử là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm, mà ta biết đã khai sơn chùa Long Sơn vào năm Thành Thái thứ 10 (1899) và trước khi khai sơn, đã đến ở chùa làng Phú Cang.
Việc khai sơn chùa ấy vào năm đó chứng tỏ thiền sư phải xuất gia cũng trên dưới 10 năm, một khoảng thời gian cần thiết để một người xuất gia có thể rời thầy mình, để đi hành hoá ở một trú xứ mới. Cần nhớ rằng khi cuộc khởi nghĩa Võ Trứ Trần Cao Vân xảy ra, thiền sư Thiên Quang mới 30 tuổi, tức về mặt đời sống đạo vẫn còn trẻ lắm. Dẫu thế, tuy ta không biết thiền sư Hoằng Thâm xuất gia vào lúc nào, nhưng điều chắc chắn là phải xuất gia vào khoảng 1893, nếu không là trước đó.
Chỉ chừng ấy thôi thì những văn kiện này cũng đáng để chúng ta quan tâm, vì chúng có thể giúp hiểu thêm một giai đoạn Phật giáo thông qua sinh hoạt của một ngôi chùa. Đặc biệt khi giai đoạn ấy là một giai đoạn đất nước đầy những biến cố, lớp lớp người yêu nước đã liên tục đứng lên để đấu tranh cho nền độc lập của tổ quốc.
Tuy nhiên, cũng thông qua các văn kiện ấy, chúng ta không những biết về các hoạt động của tổ Chơn Hương Huyền Túc Thiên Quang, mà còn biết thêm về các công việc của tổ Như Đạt Hoằng Thâm và bồ tát Quảng Đức. Chẳng hạn, trong văn kiện ngày mồng mười tháng 4 năm Ất Tỵ (1905) ta biết vào thời điểm ấy tổ Hoằng Thâm đang làm “thủ tòa chùa Long Sơn tỉnh Khánh Hoà”.
Rồi trong văn kiện ngày mồng 6 tháng 6 năm Khải Định thứ 2 (1917), tổ lại là “giáo thọ chùa cổ tích Long Sơn”. Cũng trong văn kiện này, vào thời điểm 1917 bồ tát Quảng Đức đang làm “tri sự chùa cổ tích Long Sơn”. Chính vì những chi tiết này mà các văn kiện ở đây tỏ ra có một sức hấp dẫn lạ thường đối với chúng ta.
17. Văn kiện ngày 21 tháng 11 năm Thành Thái 14 (1902)
Đây là một bản sao trên giấy bổi láng có chứng thực của Đại diện hội đồng xã Vạn Lương ngày 3 tháng 6 năm 1958 và của vị trú trì chùa Linh Sơn là thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng vào ngày 13 tháng 5 năm 1958 cùng với sự phê duyệt của Ban trị sự Phật giáo tỉnh hội Khánh Hoà ngày 30 tháng 9 năm 1958. Gồm 3 tờ, khổ 13×21, đóng chung cùng với các văn kiện có sự chứng thực của xã Vạn Lương cùng ngày. Văn kiện viết bằng chữ Nho, nhưng trang b của tờ thứ nhất có một đoạn phê tiếng Pháp viết bằng bút sắt mực xanh.
Các vị chức dịch binh dân xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Quảng Phước phủ Ninh Hoà xin lập tờ bán đất ruộng sự việc như sau:
Bổn xã có một chủ tuyệt tự để lại một thửa ruộng nguyên là một mẫu 6 sào đo theo chiều rộng cộng lại thành 6 mẫu, toạ lạc tại địa phận của bổn xã, tục gọi là xứ Cây Cau, đông giáp ruộng chùa tây giáp ruộng công, nam giáp ruộng công, bắc giáp ruộng công, đông tây bốn phía đúng như trong sổ bộ. Nay bổn xã lập tờ bán đứt cho người thôn Hội Khánh là Trần Thị Từ pháp danh Như Chí, đúng giá một ngàn bốn trăm quan tiền.
Việc giao nhận tiền xong, bèn lập văn khế giao cho chủ mua chấp chiểu, đem cúng cho hoà thượng bổn sư chùa Linh Sơn xã Hiền Lương của chúng tôi hiệu Thiên Quang vâng giữ để đáp nhu phí hương đèn cho tam bảo và cha mẹ của chủ mua, đời đời nối nhau cho đến mãi mãi, để cúng để kỵ, để làm rộng ruộng phước. Đến như thuế lệ thì chiếu theo bổn xã mà đăng nạp. Ngày sau người nào trong xã không được nói trái, lẽ gì thì phải chịu lấy tội. Đây là tờ bán đứt ruộng.
Ngày 21 tháng 11 năm Thành Thái thứ 14 (1902)
Lý trưởng Nguyễn Văn Chợ nhận ký
Cựu lý trưởng Trần Văn Thiêm thủ ký
Lão nhiêu Trần Văn Đạt điểm chỉ
Cựu lý trưởng Thành thủ ký
Cựu lý trưởng Xuân thủ ký
Hương hào Đức thủ ký
Cựu lý trưởng Lộc điểm chỉ
Cựu lý trưởng Hoàn thủ ký
Cựu lý trưởng Chánh thủ ký
Tri yển Tự
Trùm yển Thuần thủ ký
Tráng Bính thủ ký
Tráng Duyên điểm chỉ
Tráng Nở điểm chỉ
Cựu hương trưởng Bá điểm chỉ
Tráng Bối thủ ký
Tráng Lung thủ ký
Tráng Diệu điểm chỉ
Tráng Thiệu điểm chỉ
Tráng Tình thủ ký
Cựu phó lý Xung thủ ký
Viết lời Nguyễn Thống tự ký
No 33. Vente en une rôle le 20 Décembre 1902 d’une rizière faites par les autorités communales du village de Hiền Lương, phủ de Ninh Hòa, à la nommée Trần Thị Từ, bonzesse de la pagode dite Linh sơn tự, qui donne comme don à la dite pagode, moyennant cent soixante dix huit piastres en ligatures, mille quatre cents ligatures. 3% sur 178$00. Recu dix piastres soixante huit cents.(3% sur 178$00 = 5$34 plus amende)
P.o. L’Administrateur adjoint.
Signature illisible et cachet
18. Văn kiện ngày 12 tháng 7 năm Thành Thái thứ 15 (1903)
Khổ 14 x 21, gồm 2 tờ giấy bổi láng, đóng chung với 6 văn kiện khác có chứng thực của Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương ngày 3 tháng 6 năm 1958. Đây là một bản sao do thượng tọa trú trì chùa Linh Sơn là thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng thực hiện vào ngày 15 tháng 5 năm 1958, có chứng thực của Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương vào ngày 3 tháng 6 năm 1958 và khán duyệt của Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa ngày 30 tháng 9 năm 1958. Nội dung viết bằng chữ nho mực Tàu, đề cập đến việc cúng ruộng cho chùa Linh Sơn của bà Trần Thị Từ.
Trần Thị Từ pháp danh Như Chí và con ruột Nguyễn Tấn Khoa thôn Hội Khánh tổng Phước Tường ngoại huyện Quảng Phước phủ Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa xin lập tờ cúng ruộng sự việc như sau:
Nguyên trước song thân thị sinh hạ chỉ được hai người. Anh ruột thị trước đã qua đời. Tiếp đó, cha mẹ thị cũng đã đi chơi cõi tiên. Chỉ còn mình thị. Hễ là con gái sinh ra là nhắm nhà khác, cô quả một thân, sợ trăm năm sau không người nối thờ. Lòng mong báo đáp, còn thẹn phận gái thiếu sót nhiều. Nghĩ kế muốn lâu dài, phải nhắm tới cửa thiền mà gởi dấu.
Nay thị tình nguyện xuất tiền của, mua đứt chủ ruộng một thửa tọa lạc tại xứ Cầu Cau xã Hiền Lương, giá tiền một ngàn bốn trăm quan, đông tây bốn bên đúng như trong khế. Nay đem dâng cúng cho Hòa thượng bổn sư Thiên Quang chùa Linh Sơn vâng giữ để làm ruộng chùa và trả phí hương hoả cho cha mẹ thị, để cúng để kỵ, đời đời nối nhau, ngỏ hầu lâu dài cùng trời đất, trải bể dâu mà không nát. Trước đi sau tiếp, theo thứ lớp mà mãi truyền. Được như vậy thì song thân thị thỏa niềm an ủi ở dưới đất, mà mẹ con thị cũng nhận ơn tế độ tại bến mê.
Do thế, lập tờ đơn này cùng bản khế gốc, vái giao cho bổn sư chấp chiểu, lưu làm khoán sắt ngàn muôn năm của bổn chùa, ngày sau con cháu thị không được nói trái lẽ gì. Nay dâng tờ cúng ruộng, do ruộng một thửa lớn nhỏ hai mươi bốn hạng. Nay do.
Ngày 12 tháng 7 năm Thành Thái thứ 15 (1903)
Trần Thị Từ pháp danh Như Chí điểm chỉ
Con ruột Nguyễn Tấn Khoa thủ ký
Người làm đơn: Phạm Ngũ Giáo tự ký
19. Văn kiện ngày 10 tháng 4 năm Ất Tỵ (1905)
Khổ 16 x 26, gồm 6 tờ giấy bổi đóng bằng chỉ giấy bổi với hai bìa trước sau màu gạch. Nội dung kêu gọi quyên góp để đúc lại tượng Phật cho tổ đình Linh Sơn do thiền sư Chơn Hương Thiên Quang thực hiện.
Yết ma hòa thượng chùa Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Quảng Phước phủ Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa hiệu Thiên Quang xin lập tờ thiện khuyến:
Hưởng ơn lành của Phật tổ thì bước nền cũ ở gò cao, qua chỗ yên của người xưa thì cỡi lấy nhà trên núi. Đã trải mười năm ngóng trông, được lấy nền hư tại Hiền Lương. Thấy nền đó gặp buổi tranh giành, nhân lúc gần trưa, trời hè khí hun, về nam gió tạt. Than ôi, rường cột điện Phật, thảy giao cho một mồi lửa. Cơ đồ thê thảm, hình tượng cũng trở thành rụi tàn.
Bần tăng há ngồi nhìn, há yên lòng ư? Do thế, đã nhọc mình đau óc, hết sức chạy lui chạy tới, dựng lấy một am chùa, vẽ mấy tượng Phật. Thế mà đã một kỷ, trước mây che khỏi gió mưa. Thế mà đã mười năm, nhờ đó mà công phu nổi lại.
Nay một gian chùa am sắp đổ, mỗi nghĩ một mình khó kham. Mấy tượng Phật chưa đúc, thâm tâm nguyện lớn sao đáp, nên lòng mãi lo âu, chí mãi trông ngóng. Cho nên, trình bày cầu xin bố thí, khuyên lành phương xa. Kính mong thạc đức hiền nhân ban ơn, giúp cho cơ đồ sắp đổ trở lại như xưa.
Kính nghĩ người nhân quân tử ban ơn, xót những hình tượng đã hư nát, phải phục hồi lại cho rực rỡ sáng tươi. Như thế thì dòng thơm mãi chảy, phước lớn vô cùng. Trên bản ghi tên cùng với tháng năm bất tuyệt. Trong bản lưu chiếu cũng đời đời chẳng thể quên mất. Đại nguyện lòng này đâu phải trộm thôi, há dám dong dài. Vậy thôi, xin trước bản xem xét.
Ngày 10 tháng 4 năm Ất Tỵ (1905)
Yết Ma hoà thượng hiệu Thiên Quang ấn ký.
Lý trưởng xã Hiền Lương Nguyễn Thông nhận thực ký.
Thủ toạ chùa Long Sơn tỉnh Phú Yên hiệu Thiên Đạo phụng cúng tiền 2 đồng
Thị tăng chùa Khánh Long hiệu Minh Khánh phụng cúng tiền 3 đồng
Đoàn Thị Tố phụng cúng tiền 1 đồng.
Thủ toạ chùa Long Sơn tỉnh Khánh Hoà hiệu Hoằng Thâm phụng cúng 3 đồng.
Nam xương Trần Thị Quyển phụng cúng tiền 1 đồng
Phạm Văn Liên thôn Đông Hải phụng cúng tiền 3 quan
Châu Nam Xương thôn Đông Hải vui cúng tiền 1 đồng chẳn hiện đã giao
Châu Thành Huệ vui cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Châu Tự Phụng vui cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Châu Lệ Kim vui cúng tiền 5 hào hịen đã giao
Thôn Đông Hải phụng cúng tiền 3 quan
Phước Điền cúng tiền 3 quan
Nguyễn Thi Lũ cúng tiền 1 quan
Võ Văn Thống Trần Văn Viên cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Thị Thức cúng tiền 1 quan
Lê Thị Cảnh cúng tiền 5 đồng
Võ Văn Mân thôn Thang Đông tổng Xương Hà huyện Vĩnh Xương vui cúng tiền 5 hào
Trần Văn Thắng phụng cúng tiền 2 quan
Nguyễn Thị Cẩn phụng cúng tiền 1 quan
Đặng Văn Xung phụng cúng tiền 1 quan
Đăng Tiêu Văn Đá phụng cúng tiền 5 xu
Nguyễn Văn Mao phụng cúng tiền 1 quan
Lữ Thừa Chân phụng cúng 1 đồng
Trần Thị Chi cúng 4 hào
Nguyễn Văn Chu, Lê Thị Quyên cúng tiền 1 đồng
Thông sự Quan Dụ Phước vui cúng 5 hào
Nguyễn Văn nên thôn Đông Hải phụng cúng tiền 3 quan
Chùa Hiền Lương, chùa Khánh Long phụng cúng
Trần Văn Tuy thôn Đông Hải phụng cúng tiền 2 quan
Chùa Hiền Lương chùa Khánh Long phụng cúng
Lê Văn Tung thôn Phú Thọ phụng cúng chùa Khánh Hoà tiền 1 đồng Tung tự ký
Nguyễn Thị Tuyệt thôn Phú Thọ cúng tiền 1 hào
Lê Thị Thử thôn Phú Thọ cúng tiền 6 hào
Lê Văn Dài thôn Phú Thọ cúng tiền 1 đồng Dài tự ký
Lê Quang Trạch thôn Như Đàm cúng tiền 5 hào
Nguyễn Văn Phụng thôn Phú Thọ cúng tiền 4 hào
Nguyễn Du thôn Phú Thọ cúng tiền 4 hào
Nguyên chánh tổng Nguyễn Phú Xuân thôn Phú Thọ cúng tiền 4 hào
Nguyên tri hương Lê Thoả thôn Bình Tây phụng cúng tiền 4 hào hiện đã giao
Cựu xã phó Đặng Văn Phỉ thôn Bạch Hà cúng tiền 3 quan
Chùa Hiền Lương, chùa Khánh Long phụng cúng
Nguyên thủ bổn Đổ Văn Xa thôn Bá Hà phụng cúng tiền 3 quan
Chùa Hiền Lương, chùa Khánh Long phụng cúng
Lương Khai Hoà thôn Bá Hà phụng cúng tiền 3 quan
Chùa Hiền Lương, chùa Khánh Long phụng cúng
Nguyên Nguyễn Văn Hạnh thôn Bình Tây phụng cúng tiền 4 hào hiện đã giao
Chánh tổng Lê Thiện tổng Hà Ngoại phụng cúng tiền 5 hào tự ký
20. Văn kiện ngày 6 tháng 6 năm Khải Định thứ 2 (1917).
Khổ 16 x 30, gồm 8 tờ đóng lại bằng chỉ giấy bổi 2 bìa trước sau màu gạch. Nội dung viết bằng chữ Nho mực tàu, đề cập đến việc quyên tiền sửa chùa Linh Sơn. Giữa các tờ đều có đóng dấu giáp lai của Xã Hiền Lương.
Hoà thượng chùa cổ tích Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hoà tỉnh Khánh Hoà hiệu Thiên Quang cùng với hộ chủ Trần Như Trí cúi trình việc khuyên phát tâm trùng tu sau:
Hưởng hồng ân Phật tổ thì đền chùa phải nguy nga, trải dựng xây mấy phen thì bao lần trao đổi chịu nhiều năm mưa gió thì nay xem nó thấy nát hư. Há yên lòng mà ngồi xem, chẳng mù mắt mà tìm thấy.
Do thế, lòng mãi lo âu, chí mãi nhắm tới. Mỗi muốn trùng tu, mà nghĩ một cây không thể chống được nhà lớn. Khó kham một mình nên mong chắp lớp ngõ hầu dệt nên áo cừu. Đã vậy, phải nhọc lòng vắt óc, đâu từ hết sức bôn ba, vì để rộng cầu bố thí, khuyên lành phương xa.
Kính nghĩ đại đức ban ơn, giúp cho chùa đền sắp nổi. Kính mong người nhân ra huệ, dựng lại rường cột cho vút cao. Để có thể ở, để có thể trụ, mà thấy được nó rực rỡ lại và tươi sáng thêm thì ngõ hầu bỏ cũ dựng mới, cùng vung tên thơm vào nơi bất hủ, làm sáng đời trước, để ơn lớp sau, cùng gội phước lớn đến vô cùng. Đó cúng là ý của người lành giống với bần nạp. Cho nên, dám nhắm tới quý vị mong được lượng cao. Nay vâng có lời khuyến.
Ngày 6 tháng 6 năm Khải Định thứ 2 (1917)
Tăng là hoà thượng Thiên Quang cúi trình ký
Bổn xã đồng ký ( có đóng dấu xã Hiền Lương)
Tăng bổn chùa cúng tiền 50 đồng (do nguyên cai Cung xã Vinh Huềø cúng bổn sư để lại sau xây bảo tháp, vì thiếu, dùng tiền này vá vào, việc xong, nay do đó)
Bổn xã hộ chủ Trần Văn Chu pháp danh Như Trí thủ ký phụng cúng tiền 50 đồng
Nguyên thông ngôn Thương chánh Nguyễn Phổ vái cúng tiền 4 hào hiện đã giao
Chùa Trùng Khánh hiệu Chơn Niệm hoà thượng hộ niệm phụng cúng tiền 5 đồng, việc rồi vâng nhận ký rõ
Yết ma hoà thượng chùa Phước Điền chùa Như Pháp phụng cúng tiền 2 đồng tự ký
Trú trì chùa Long Thạnh hiệu Hoằng Ứng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao ký
Trương Thị Thọ phụng cúng 3 quan tiền ký hiện đã giao
Mai Văn Đoài thôn Xuân Mỹ phụng cúng tiền 3 hào hiện đã giao
Vợ chồng phó lý trưởng Nguyễn Tham xã Phú Gia tổng Phước Thiện phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Bần tăng chùa Kim Quy hiệu Tứ Đức cúng tiền 1 đồng
Thẩm Hương Hiệu và con ruột Thẩm Vinh, Thẩm Thơ phụng cúng 3 quan hiện đã giao
Lê Công Dụng xã Phú Gia phụng cúng tiền 1 quan hiện đã giao
Tri hương Phan Thuỵ xã Phú Gia cúng tiền 4 hào
Thủ sắc Nguyễn Tập xã Phú Gia cúng tiền 3 quan hiện đã giao
Cựu tri hương Đắc xã Phú Gia phụng cúng 5 hào, hiện đã giao 5 hào ký
Hương trưởng Lê Muộn xã Phú Gia phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao ký
Phạm Văn Trực xã Phước Thủy phụng cúng tiền 3 quan tự ký
Lý trưởng Phạm Ngọc Điển phụng cúng tiền 1 đồng tự ký
Sương phụ Bùi Thị Thoả xã Hiền Lương phụng cúng tiền 30 quan ký
Giáo thọ chùa cổ tích Long Sơn hiệu Hoằng Thâm phụng cúng cây gỗ
Đinh Chơn Hậu cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Thị Hoa pháp danh Thị Liên cúng tiền 20 quan, lúa 30 đấu
Giám tự chùa cổ tích Long Sơn Nguyễn Vô Vi phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Tri sự chùa cổ tích Long Sơn hiệu Quảng Đức phụng cúng tiền 2 hào
Tục nhân chùa Báûo Ân phụng cúng tiêu đen 10 đấu
Hương chủ Hồ Văn Sồi xã Xuân tự cúng tiền 15 quan
Võ Thị Cầm xã Mỹ Đồng cúng tiền 30 quan
Đội trưởng Hoàng xã Long Hòa phụng cúng tiền 2 đồng
Đồng Hoài Ứng xã Vinh Huề cúng nếp 1 ang
Hoàng Văn Giao xã Vinh Huề ưng cúng tiền 1 quan 5 hào
Phạm Như Diệu phụng cúng tiền 5 đồng
Trú trì tăng chùa Phước Long Quan Đông hiệu Giác Khánh phụng cúng tiền 1 đồng
Hồ Thị Lưới xã Quan Đông phụng cúng tiền 3 quan
Đệ tử Hồ Thị Đổ pháp danh Thị Tiến bổn đạo chùa Long Sơn phụng cúng tiền 3 quan
Lữ Thị Giao pháp danh Thị Sơ phụng cúng tiền 3 quan
Phan Thị Sao phụng cúng tiền 20 quan
Cai tri Chương ngụ xã Vinh Huề phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao
Thủ bộ Ngô Tương xã Phú Cang cúng tiền 1 quan 5 hào hiện đã giao
Phụ nhân Phạm Thị Chạy thôn Hải Triều phụng cúng 3 quan, con ruột tự ký
Trần Văn Nao thôn Hải Triều phụng cúng tiền 1 quan
Xã Quảng Hội phụng cúng tiền 1 quan, Võ Văn Xuân thủ ký
Cựu thủ sắc Phan Văn Thái xã Quảng Hội phụng cúng tiền 5 xu
Bát phẩm Nguyễn Khoa xã Mỹ Tương phụng cúng tiền 4 đồng hiện đã giao
Cựu lý trưởng Vị xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Mười Bông ngụ xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Bá hộ Lê Đức thôn Xuân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Phạm Thị Nghĩa xã Vinh Huề phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Chánh bát phẩm Ngô Quang xã Trung Dõng phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Cựu lý trưởng Nguyễn Khải thôn Phú Hội phụng cúng tiền 6 quan hiện đã giao
Huỳnh Trước thôn Phú Thọ phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao
Lê Văn Thơ thôn Sơn Định phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao
Phan Thị Sanh thôn Sơn Định phụng cúng tiền 3 quan hiện giao
Vợ chồng nguyên dịch thừa Nguyễn Thuận xã Tân Phước phụng cúng tiền 6 quan hiện giao ký
Nam mô A Di Đà Phật, bần tăng Vạn Minh chùa Giác Hoa vái dâng tiền 6 quan ký
Nguyễn Văn Niên xã Thạch Thành phụng cúng tiền 6 quan hiện đã giao
Vợ chồng cựu trùm trưởng Nguyễn Văn Kỳ phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao.
Vợ chồng binh Nguyễn Văn Nam xóm Phú Hòa thôn Hội Khánh phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao ký
21. Văn kiện ngày 4 tháng 11 năm Khải Định thứ 2 (1917)
Khổ 13.5 x 21. Chỉ là một bản sao trên một tờ giấy bổi láng, đóng chung vào một tập với 6 văn kiện khác. Bản sao do thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng lúc ấy trú trì chùa Linh Sơn chép vào ngày 15 tháng 5 năm 1958, có chứng thực của Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương vào ngày 3 tháng 6 năm 1958 và khán duyệt của Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa vào ngày 30 tháng 9 năm 1958, tất cả đều có đóng dấu.
Vợ chồng lão Trần Văn Cho xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hòa nay lập tờ phụng cúng ruộng lúa, việc như sau:
Vợ chồng lão tạo mãi còn có điền sản, cũng hưởng được ơn tôn vinh trông cậy phù trì. Nay thiết nghĩ vợ chồng lão thành tâm Phật pháp, may được an khang, không có vật gì để lại ngàn năm, nhằm đáp ơn hương hỏa.
Lão đồng ý trích lấy ruộng lúa hai nơi (ruộng Bàu Gia 4 sào cùng ruộng trong Đồng Bé 3 sào) dâng cúng vào chùa Linh Sơn, hòa thượng bảo hiệu Thiên Quang nhận canh vĩnh viễn, đợi cho vợ chồng lão tịch cốc theo tiên, xin ghi bài vị. Nếu sau này đám con trái lời thì chịu tội. Đây là tờ dâng cúng (cùng ruộng Bàu Gia, ruộng lớn nhỏ sáu khoảnh, lại ruộng Đồng Bé hai khoảnh)
Ngày 4 tháng 11 năm Khải Định thứ 2 (1917)
Chứng kiến: Lý trưởng Hồ Văn Nghị nhận ký
Lão Trần Văn Cho điểm chỉ
Vợ Ngô Thị Xung điểm chỉ
Viết thế tờ đơn: Cao Xuân Sanh tự ký
22. Văn kiện ngày 24 tháng 12 năm Khải Định thứ 2 (1917).
Khổ 16 x 29 gồm 3 tờ giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi. Mỗi tờ 2 trang a và b. Trang 1a có đề chữ Hán văn văn bằng. Trang 2a viết nội dung văn kiện đề cập việc xin trùng tu chùa. Trang 2b có đóng dấu Ninh Hòa phủ ấn và lời phê của tri phủ Ninh Hòa có bốn dấu triện vuông đề chữ Ninh Hòa. Giữa trang 2b và 3a có đóng giáp lai dấu triện vuông Ninh Hòa và dấu xã Hiền Lương.
Tăng là hòa thượng Phạm Thiên Quang chùa Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hòa khấu đầu xin trình việc trùng tu chùa Phật như sau:
Tăng từ lâu đã đến ở chùa Linh Sơn (tại địa phận xã Hiền Lương) quy y. Nhân chùa nầy xây dựng đã lâu, nay đã hư nát, không còn chịu nỗi gió mưa. Tăng thấy vậy đau lòng, bèn dám cúi xin quan phủ đường đại nhân xét thương ra văn phê cho làm bằng, giúp tăng chúng được xây dựng lại ngôi Phật đường, hầu khỏi phải nỗi khổ hương tàn khói lạnh. Muôn lần trông nhờ. Nay khấu đầu trình.
Ngày 24 tháng 12 năm Khải Định thứ 2 (1917)
Hòa thượng Phạm Thiên Quang thủ ký
Đệ tử Phạm Hoằng Chất vái ký
Bổn xã đồng vái ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Lý trưởng Nguyễn Xung nhận ký (có dấu xã Hiền Lương)
(Lời phê của tri phủ):
Xuất của ra làm thì được, nếu mượn vay riêng thì trị tội nặng, đừng trách.
23. Văn kiện ngày 20 tháng giêng năm Khải Định thứ 5 (1920)
Khổ 19 x 24. Gồm 8 tờ giấy bổi trắng đóng lại bằng chỉ giấy bổi với 2 bìa màu gạch trước sau. Mỗi tờ 2 trang a và b. Từ trang 2b cho đến trang 8a đều có đóng dấu giáp lai của xã Hiền Lương, dù có những trang không viết chữ nào như 2 tờ 7 và 8. Đây là một quyển sổ quyên tiền để đúc tượng Tam thế cho tổ đình Linh Sơn do tổ Thiên Quang thực hiện.
Thiền hòa chùa Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa hiệu Thiên Quang cúi trình khuyên phát tâm trùng tu việc Phật như sau:
Ở chùa của thiền hòa, chùa này tương đối mười phần đầy đủ, chỉ trên điện báu vàng chưa có Tam thế từ tôn mấy tượng thánh ông còn thiếu. Thâm tâm đại nguyện là muốn làm sao để đáp đền trong khám ngọc vẫn còn thiếu diệu tướng. Đêm thanh bái sám, trông lên không có chổ làm bằng. Ngày sáng đốt hương nghĩ hào quang mà cảm vắng.
Nay điêu khắc đúc tô hình tượng Phật thánh, mà bổn chùa đáp ứng rất thiếu. Hễ một tay thì khó mà làm nỗi. Vì thế, lòng mãi lo âu, chí lâu nhắm tới, chỉ mong giải bày tìm lấy bố thí, khuyên lành phương xa. Kính mong người nhân quân tử ban ơn thương hình tượng Phật thánh ấy, muốn thấy rực rỡ lại để tươi sáng thêm. Đó tức là thơm lâu mãi mãi, phước lớn vô cùng. Xin xét lời này thì khôn xiết mong đáp đại nguyện.
Nay kính
Ngày 20 tháng giêng năm Khải Định thứ 5 (1920)
Bổn xã đồng ký (có dấu của xã Hiền Lương)
Lão nhiêu Trần Văn Chu điểm chỉ, phụng cúng tiền ? đồng
Lý trưởng Hồ Văn Nghị phụng cúng tiền 1 đồng
Cựu lý trưởng Nguyễn Công thủ ký, phụng cúng tiền 1 đồng
Cựu thủ sắc Thủ thủ ký, phụng cúng tiền 6 quan
Cựu lý trưởng Thống thủ ký phụng cúng tiền 1 đồng
Cựu lý trưởng Nguyễn Hữu Thụy thủ ký phụng cúng tiền 5 hào
Cựu lý trưởng Nguyễn Thông thủ ký, phụng cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Khắc Minh thủ ký phụng cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Hữu Đức thủ ký hiện phụng cúng tiền 1 đồng
Nha Trang khẩn Xuân Sơn sở chánh cửu phẩm văn giai Trần Chư thủ ký, phụng cúng tiền 10 đồng hiện đưa
Nha Trang khẩn Xuân Sơn sở dật sĩ Trần Tường ký, phụng cúng tiền 1 đồng hiện đưa
Huỳnh Văn Vu thủ ký, Xuân Tự cúng tiền 1 đồng
Cựu lý trưởng Nguyễn Tấn Hựu thủ ký, phụng cúng tiền 1 đồng hiện có
Cựu hương trưởng Lê Văn Dần phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký
Cựu thí sanh Nguyễn Trọng Cảnh ký, phụng cúng tiền 1 đồng
Thủ sắc Nguyễn Hương xã Quảng Tân cúng tiền 1 đồng
Bùi Thị Thỏa phụng cúng tiền 2 đồng
Vợ Trần Thị Bền cúng tiền 5 hào
Nguyễn Văn Vạn phụng cúng tiền 5 hào
Trần Văn Thâm cúng tiền 2 hào
Trần Văn Sự (pháp danh) Như Sanh cúng tiền 1 đồng hiện có
Nguyễn Thị Xuyên cúng tiền 3 quan
Phạm Thị Nhạc cúng tiền 3 đồng hiện có
Ngô Văn Lực xã Phước Thủy cúng tiền 3 quan
Phạm Thị Đài cúng tiền 1 đồng hiện có
Hương trưởng Nguyễn Thắng xã Phước Thủy cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Thị Sành cúng tiền 1 đồng hiện có
Vợ Phạm Thị Truyền cúng tiền (cho?) chồng
Nguyễn Thành Long cúng tiền 1 đồng hiện có
Huỳnh Chấn (xã) Quảng Tân cúng tiền 4 quan
Nguyễn Thị Chu cúng tiền 1 đồng hiện có
Cựu lý trưởng Nguyễn Lâu (xã) Quảng Tân phụng cúng cùng vợ chồng tiền 1 đồng, vợ Thị Đường Thị An, chưa (đưa)
Nguyễn Thị Mau cúng tiền 1 đồng hiện có
Vợ chồng giáp trưởng Nguyễn Hậu (xã) Quảng Tân cùng cúng tiền 5 hào chưa (đưa)
Cô phó tổng cúng tiền 2 đồng hiện có
Cai tri Trần Tình cúng tiền 8 quan
Lữ Thị Giao phụng cúng tiền 2 đồng hiện có
Nguyễn Thị Thuỵ (xã) Quảng Tân cúng 1 quan 5 tiền
Huỳnh Thị Nhàn cúng tiền 1 đồng hiện có
Tri hương Đổ Bính cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Văn Giới cúng tiền 1 đồng hiện có
Cựu đội trưởng Mai Văn Chữ (xã) Hiền Lương cúng tiền 3 quan
Nguyễn Thị Kiêm cúng tiền 1 quan
Hồ Văn Quyền (xã) Mỹ Tương cúng tiền 2 quan
Trần Thị Trạch (xã) Mỹ Đồng cúng tiền 5 hào
Vợ chồng Lê Văn Luận (xã ) Mỹ Đồng cúng tiền 2 quan
Võ Thị Niệm (xã) Mỹ Đồng cúng tiền 3 quan
Phạm Thị Chỉ cúng tiền 1 quan
Phạm Văn Thông (xã) Mỹ Đồng cúng tiền 5 hào
Tri bộ Nguyễn Hữu Tạo xã Hiền Lương cúng tiền 5 hào thủ ký
Nguyễn Trung Lương (xã) Mỹ Đồng phụng cúng tiền 2 hào
Trần Văn Lai (xã) Xuân Tự cúng 1 quan 5
Huỳnh Văn Tử 1 đồng
Trần Văn Chi cúng tiền 2 hào và vợ Thị Đệ cúng tiền 3 quan
Lê Văn Mô xã Hiền Lương cúng tiền 3 quan
Xuân Tự xã phụng cúng tiền 2 đồng
Phó tổng dụng Hồ Văn Chỉ phụng ký
Cựu lý trưởng Nguyễn Văn Vị (xã) Mỹ Đồng phụng cúng tiền 3 quan
Hồ Văn Ẩn xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng
Trịnh Văn Đốn thôn Đông Hải phụng cúng tiền 1 đồng
24. Văn kiện ngày 12 tháng 2 năm Bảo Đại thứ 4 (1929)
Khổ 21 x 27. Chỉ là một bản sao trên giấy trắng do thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng thực hiện ngày 15 tháng 5 năm 1958, lúc đang làm trú trì chùa Linh Sơn, rồi được Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương chứng thực ngày 3 tháng 6 năm 1958 và Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa khán duyệt ngày 30 tháng 9 năm 1958.Đây là văn kiện bán 6 mẫu ruộng của bà Huỳnh Thị Điểu cho vợ chồng ông Phan Quang Đức.Vì sau nầy bà vợ của ông Phan Quang Đức là bà Nguyễn Thị Thành đã đem 6 mẫu ruộng đó cúng cho tổ đình Linh Sơn, nên giấy bán ruộng của bà Huỳnh Thị Điểu vào ngày 12 tháng 2 năm Bảo Đại thứ 4 (1929) và nhập vào hồ sơ giấy tờ ruộng đất của tổ đình.
Huỳnh Thị Điểu thôn Tân Đức tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hòa đã lập tờ bán đứt ruộng tư sự việc như sau:
Có một thửa ruộng tư toạ lạc tại địa phận xã Phước Thủy (xứ Khu đá, tục gọi là xứ Bàu Vịt), đóng thuế 6 mẫu (hạng 3 ba mẫu, hạng tư ba mẫu), đạc thừa một mẫu, cộng thành bảy mẫu, đông giáp đất mộ, lại giáp miếu, tây giáp ruộng tư của Lê Văn Nam, nay là Lê Mại, nam giáp rừng, lại giáp đường nước và đường trâu bò, bắc giáp cây mây, lại giáp đường nhỏ, bốn phía giáp ranh đúng như trong đơn.
Nay dân đem ruộng đó, bán đứt cho người ngụ xã Hiền Lương là vợ chồng ông Phan Quang Đức ưng mua ruộng đó với giá tiền phải trả là tám trăm năm mươi đồng chẳn. Ngày lập khế ước giao nhận tiền xong, thì thửa ruộng mua đó, chủ mua canh tác, giữ làm của mình vĩnh viễn. Nếu có người nào tranh chấp cản trở thì tự mình chịu bồi thường. Vì thế, nay viết tờ giấy bán đất.
Ngày 12 tháng 2 năm Bảo Đại thứ 4 (1928)
Lý trưởng xã Phước Thủy sở tại là Ngô Lực nhận thực ký, có đóng dấu.
Huỳnh Thị Điểu điểm chỉ
Người viết đơn: Nguyễn Quý tự ký
25. Văn kiện ngày mồng 9 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 5 (1930).
Khổ 16 x 29. Gồm 6 tờ giấy bổi trắng, đóng bằng chỉ giấy bổi với một bìa trước màu gạch. Văn kiện viết hoàn toàn chữ Nho, có đóng dấu giáp lai của xã Hiền Lương giữa các tờ 2 và 3, 4 và 5. Nội dung quyên tiền xây tháp cho thiền sư Thiên Quang vào năm 1930.
Đệ tử chùa Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa hiệu Hoằng Nguyện cùng chúng lục hòa vái trình sự việc xin phát tâm sùng tu bảo tháp như sau:
Mãng nghe bốn đại đều không, bỏ trí tuệ vô tư của Phật ta thì sáu căn muốn dứt, không Bồ đề thì thiếu sự tu trì đó. Kính nghĩ bổn sư của chúng đệ tử là hòa thượng chùa Linh Sơn hiệu Thiên Quang thượng nhân lúc thiếu thời mộ đạo xuất gia, tham thiền nhập định, giới nhận sa môn, thành chánh quả Phật, trong có đức trí nuôi chứa, ngoài có hạnh đẹp rõ ràng. Cửa mở trí thông, bàn cơ huyền của đạo tối thượng, nhà vào từ bi giảng pháp diệu của dụng vô vi. Không biết trải qua bao bể dâu mới có ngày hôm nay.
Chúng tôi những nghĩ đời người như sương xuân móc thu, chốc lát thì tan, như cây bờ dây giếng, há được dài lâu, nếu không lo việc từ trước, e lại phải hối về sau. Cho nên, nay bổn sư của chúng đệ tử, tuổi quá sáu mươi, mình đã run rẩy, tuy mang sắc vẻ của tùng bách không sợ gì nương dâu cảnh xế, nhưng một mai bỗng phải viên tịch, cả thế giới còn có hạt cải để dấu bao thì việc nghìn thu nhất định phải có nơi bằng cứ để vùi lấy kiếp trần vào chốn tam muội diệt tận. Chúng đệ tử thảy đều thầy tu nghèo, rất sợ điều đó.
Thiết nghĩ dựng nhà lớn không phải một cây mà làm được, dệt áo cừu chẳng phải lông của một con cáo mà thành ra, bèn dám tập hợp vái xin, lập làm một tờ quyên góp, nói rõ cùng lý hào sở tại cho họ chứng ký.
Rồi riêng đi khắp mười phương, kính trình các thiện nam tín nữ, ánh tuệ duỗi soi, lượng biển rộng mở, cùng trồng ruộng phước, ít nhiều dự vào, để giúp bảo tháp nơi tàng chứa chân thân ngàn ức năm của bổn sư chúng đệ tử, hầu được tháp nền vút cao, cây báu um tốt, hoa điềm lành nở đẹp, đất Hiền lương ánh tươi.
Ấy sắc ấy không, ngộ được bồ đề không cây. Bất sanh bất diệt, hiểu rõ gương sáng chẳng đài. Về sau, chúng đệ tử và thiện tín, một là y bát chân truyền, hai là đàn na chứng quả, cùng gội mưa pháp, khí thiêng sông Lệ mãi xuôi, cùng trông mây từ, màu núi non Trì tự tại.
Có bao nhiêu thiện tín ban ơn, xin đem quê quán tự hiệu, ghi vào sổ quyên, đợi khi việc xây tháp xong xuôi, xin chép vào bảng để truyền bất hủ. Đây là lời kính quyên góp để xây tháp.
Mồng mười tháng ba năm nay khởi công
Ngày mồng 9 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 5 (1930)
Lý trưởng sở tại Trần Đoan nhận chứng ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Đệ tử chùa Linh sơn hiệu Hoằng Nguyện vâng vái ký
Chùa Thiên Bửu (thượng) phụng cúng tiền xây bảo tháp 1 đồng, hòa thượng hiệu Phước Tường ký
Đệ tử Trần Như Trí và thất trung (vợ) Ngô Như Huệ phụng cúng tiền bảo tháp 50 đồng
Chánh cửu phẩm Trần Lự thủ ký, phụng cúng tiền 1 đồng
Đệ tử bổn chùa Phùng Như Chi nguyện cúng tiền 10 đồng
Đệ tử chùa Linh Sơn Nguyễn Như Lãng nguyện cúng tiền 15 đồng
Chùa Thiền Lâm phụng cúng tiền xây bảo tháp 5 hào, trú trì đệ tử Nguyễn Hiệu thủ ký
Đệ tử Nguyễn Như Cảm phụng cúng tiền bảo tháp 40 đồng ký
Đệ tử Nguyễn Như Đăng phụng cúng tiền bảo tháp 5 đồng ký
Ngô Thị Vện cúng tiền 2 đồng ký
Đệ tử Phạm Như Diệu thôn Hội Khánh ký, phụng cúng tiền xây tháp bổn sư 20 đồng
Đệ tử Huỳnh Như Thái xã Long Hòa ký, phụng cúng tiền xây tháp bổn sư 10 đồng
Đệ tử Như Nghi, Như Thật, bào tỷ Nguyễn Thị Cảm đồng ký, phụng cúng tiền xây tháp bổn sư 10 đồng
Đệ tử Huỳnh Như Năng qui y chùa Linh Sơn phụng cúng tiền 5 đồng chẳn ký
Đệ tử chùa Linh Sơn Bùi Như Nhàn, thất trung Nguyễn Như Chánh phụng cúng tiền xây tháp 20 đồng ký
Đệ tử chùa Linh Sơn Nguyễn Như Sanh phụng cúng tiền 1 đồng ký
Đệ tử chùa Linh Sơn Nguyễn Đức pháp danh Như Tài, Lê Thị Việt pháp danh Như Thừa phụng cúng tiền 10 đồng thủ ký
Chánh bát phẩm Nguyễn Mưu xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 10 đồng xây tháp, nay vâng thừa ký
Đệ tử chùa Linh Sơn pháp danh Nguyễn Như Xuân phụng cúng tiền 2 đồng ký
Đệ tử Nguyễn Như Hữu phụng cúng tiền bảo tháp 5 đồng ký
Đệ tử pháp danh Như Hóa Huỳnh Trọng Hối phụng cúng 2 đồng ký
26. Văn kiện ngày 15 tháng 7 năm Bảo Đại 11 (1935)
Khổ 13.5 x 21. Gồm 2 tờ giấy bổi láng, đóng chung với 6 văn kiện ruộng đất khác của tổ đình Linh Sơn. Đây chỉ là 1 bản sao do thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng sao y bản chánh vào ngày 15 tháng 5 năm 1958, lúc đang làm trú trì tổ đình Linh Sơn, có chứng thực của Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương ngày 3 tháng 6 và khán duyệt của Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa ngày 30 tháng 9 cùng năm. Nội dung đề cập đến việc cúng ruộng của vợ chồng ông bát phẩm Nguyễn Khoa làng Mỹ Đồng ở Vạn Ninh vào năm 1935 cho tổ đình Linh Sơn.
Vợ chồng bát phẩm Nguyễn Khoa xã Mỹ Đồng tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh xin lập tờ đặt ruộng linh sự việc như sau:
Vợ chồng (lão) nhiêu ân cần sáng tạo ruộng mầu, tuy bảo nhờ đức trạch của tiên tổ mà có ra, nhưng thật sự là nhờ Phật trời giúp ban mà tới được phước vậy. Thiết nghĩ ơn lặng giúp của Tam Bảo chưa chút báo đền.
Vì thế, nay tình nguyện đem một thửa ruộng tư mua được này dâng cúng cho hòa thượng chùa Linh Sơn hiệu Thiên Quang và các vị trú trì đến sau được truyền lại nhận quản lý cúng kỵ, đặt làm ruộng linh, truyền nhau đời đời cho được tiện nghi.
Lão nhiêu phụng đặt bài vị tiên linh (tên họ ngày kỵ liệt ra ở trong bài vị) ở chùa hằng năm hoa quả kỵ chạp, để báo đền ơn trạch vô cùng của tiên linh cho đời sau. Còn bao nhiêu thì để chi dụng việc Phật, có lý hào xã Hiền Lương sở tại nhận ký xác minh đầy đủ.
Đơn này chép thành 2 bản. (Một bản phụng giao cho chùa và các loại đơn khế cũ mới của ruộng đó. Một bản lão nhiêu giữ làm lưu chiểu) ngày sau con cháu trai gái của lão nhiêu không được nói trái, nếu có lẽ gì thì chịu tội. Nay phụng cúng tờ đơn:
1. Nguyện cúng ruộng tư, vì để đặt ruộng linh bốn mẫu toạ lạc tại địa phận xã Quảng Tân xứ Khẩu Gia, đông giáp ruộng tư của Nguyễn Khoa Nguyễn Số, tây giáp ruộng tư của Nguyễn Khoa, nam giáp ruộng tư của Nguyễn Ứng, bắc giáp đường nước. Ruộng hạng nhất 1 mẫu, hạng nhì 3 mẫu. Đơn khế cũ mới và bản vẽ bảy trương, một bản toà án do Tây ghi lại đóng thành một tập, đều giao cho chùa Linh Sơn nhận giữ chấp chiểu.
2. Phụng đặt bài vị tiên linh tại chùa, hằng năm kỵ chạp, con cháu đều đến chùa hầu lạy, cầu nhờ ơn Phật cho siêu độ.
Ngày 15 tháng 7 năm Bảo Đại 11 (1935)
Bổn xã đồng ký
Chánh cửu phẩm đội trưởng Trần Lự thủ ký
Cửu phẩm Nguyễn Trọng Cảnh thủ ký
Hòa thượng chùa Linh Sơn hiệu Thiên Quang nhận đặt ruộng linh ký
Lý trưởng xã Hiền Lương Trần Ứng Long ký
Bát phẩm Nguyễn Khoa thủ ký
Vợ Thị Cầm áp chỉ
Người vâng chép đơn thế: đệ tử Trần Thoả pháp danh Đồng Minh tự ký
27. Văn kiện ngày 7 tháng 4 năm Canh Dần (1950)
Khổ 21 x 27. Chỉ một bản sao trên 2 tờ giấy manh bằng chữ quốc ngữ do thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng thực hiện vào ngày 15 tháng 5 năm 1958, rồi được Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương chứng thực vào ngày mồng 3 tháng 6 cùng năm và kháng duyệt của Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa ngày 30 tháng 9 năm đó.
Nội dung đề cập đến việc cúng cho tổ đình Linh Sơn sáu mẫu ruộng, mà bà Nguyễn Thị Thành cùng chồng là ông Phan Quang Đức mua lại của bà Huỳnh Thị Điểu trong văn kiện số 8 trên. Khi cho đánh máy lại văn kiện này, chúng tôi vẫn giữ nguyên cách viết chữ quốc ngữ của nó.
Những chữ cần phải sửa lại cho đúng cách viết chuẩn ngày nay, chúng tôi để những chữ ấy vào trong ngoặc đơn. Thí dụ, chữ diều thì ngày nay phải viết dìu, chúng tôi để chữ dìu trong ngoặc ( ).
Nam mô Thập phương Thường trú Tam Bảo
Kính bạch Bổn Sư Đại Đức trú trì chùa Linh Sơn
Kính bạch hiện tiền đại chúng
Đệ tử là Nguyễn Thị Thành thọ ưu bà di giới, pháp danh Như Trung, bổn đạo chùa Linh Sơn.
Nhờ ơn Thập phương thường trú Tam Bảo, hiện tiền Bổn sư trú trì và đại chúng từ bi chứng minh có đệ tử những lời nguyện vọng như sau:
Thân người khó đặng, pháp Phật khó nghe, đệ tử trước đã sẵn gieo căn lành phước đức chút ít nay mới được làm người mà lại nhờ thầy truyền thọ cho pháp Tam quy, Ngũ giới và thiện trí thức diều (dìu) dẫn cho theo con đường sáng suốt của Phật là nơi an nhàn giải thoát, thiệt là hạnh phúc biết bao nhiêu. Đệ tử hằng đội tứ ân không biết lấy gì đền đáp trong muôn một, trộm nghĩ rằng:
Chùa là nơi phụng sự Tam bảo, là nơi tiếp tăng độ chúng, là cơ quan hoằng hoá đạo đức, nếu của thường trú không có được cho dồi dào thì sự duy trì khó được trang nghiêm bền bỉ mà phần đạo đức khó bề phát triển cho phổ thông.
Ngôi Tam Bảo không bền bỉ, đạo đức không phổ thông thì chúng sanh mãi mãi về sau trong đêm trường tăm tối biết làm sao thấy đặng ánh quang minh của Phật, biết do đâu mà tìm nơi giải thoát, nên đệ tử trước kia cùng chồng là Phan Quang Đức có tạo được một sở ruộng tục danh là Bầu Vịt rộng được sáu mẫu, thuộc về địa phận làng Phước Thủy, nay đồng lòng với con trai là Phan Vu Huợt nguyện đem cúng vào chùa Linh Sơn làm ruộng Tam Bảo đời đời thường trụ.
Sau đây nguyện nhờ ơn thầy và đại chúng từ bi cho đệ tử qui bài vị quyến thuộc quá vãng của đệ tử trí đời đời tại chùa Linh Sơn để nhờ ơn chú nguyện của Tam Bảo trong những ngày huý kỵ của tiên linh có tên trong ấy.
Phật pháp còn thì chùa còn, chùa còn thì ruộng đất còn, ruộng đất còn thì tăng chúng còn có chỗ tu học; Tăng chúng có tu học thì còn có người ra đảm đương hoằng pháp lợi sanh.
Đệ tử nguyện cùng pháp giới hữu tình nhờ duyên lành nầy ai nấy đều đặng vãng sanh Tây phương, đồng thành chánh giác.
Nam mô Thập phương thường trú Tam Bảo tát ( tác) đại chứng minh.
Linh Sơn tự Đại đức trú trì chứng minh
Tân Đức ngày mồng 7 tháng 4 năm Canh Dần (1950)
Đệ tử thọ Ưu bà di giới Nguyễn Thị Thành pháp danh Như Trung kính bạch
Con trai là Phan Vu Huợt tuỳ hỷ tự ký
Tân Đức xã lý trưởng nhận thiệt ký
Lý trưởng vắng mặt, hương bộ được quyền chứng. Tên ký không rõ, đóng dấu
Lý trưởng Hiền Lương nhận thiệt cho bà Nguyễn Thị Thành hảo tâm phụng cúng cấp sở ruộng cho chùa Linh Sơn duỷ (dĩ) hưởng duỷ (dĩ) tự chư linh
Ký tên không rõ, đóng dấu
CHƯƠNG IV: MẤY NHẬN XÉT
Thông qua 27 văn kiện vừa công bố trên, trong đó có 14 văn kiện trực tiếp liên hệ đến Bồ tát Quảng Đức, chúng ta rút ra mấy nhận xét sau:
Thứ nhất, đối với Bồ tát Quảng Đức, kể từ lúc xuất gia vào khoảng năm 1904 cho đến trước năm 1945, trong hơn 40 năm này, ngoài thời gian còn nhỏ, bồ tát đã có những hoạt động Phật sự rất sớm.
Chẳng hạn, Văn kiện ngày mồng 6 tháng 6 năm Khải Định thứ 2 (1917), tức Văn kiện số 20 của Chương III, đã ghi nhận vào thời điểm ấy, lúc mới 20 tuổi, bồ tát đã giữ chức tri sự của tổ đình Long Sơn. Tri sự là một chức vụ tương đối quan trọng trong chùa, chỉ đứng sau vị trú trì hay giám tự, lo quán xuyến đời sống kinh tế của chùa từ việc ăn uống hằng ngày của tăng chúng cho đến kỵ giỗ tu sửa xây cất chùa.
Chùa Long Sơn lúc ấy không phải ngôi chùa nhỏ nằm trong một vùng heo hút không có người ở. Trái lại, bấy giờ, cũng từ Văn kiện số 20 vừa nêu, ta biết bổn sư của Bồ tát là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm đang làm giáo thọ, còn giám tự chùa là thiền sư Vô Vi.
Ngoài ra, căn cứ vào Văn kiện ngày 12 tháng 12 năm Duy Tân thứ 2 (1907) về việc cúng ruộng của thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm công bố ở Chương II trên, ta biết tối thiểu chùa Long Sơn có tới 16 mẫu ruộng phải quản lý. Chắc chắn Bồ tát Quảng Đức với tư cách tri sự của chùa phải trực tiếp coi sóc 16 mẫu ruộng vừa nêu, ngay cả khi ta giả thiết Bồ tát đem ruộng cho người làm mướn.
Sự thật thì việc đem ruộng chùa cho mướn tại vùng Vạn Ninh vào thời điểm ấy không xảy ra phổ biến, như ta tưởng. Chỉ cần đọc lại Văn kiện ngày 10 tháng giêng Bảo Đại 16 (1941), tức Văn kiện số 5, ta thấy vào thời điểm ấy việc trùng tu tổ đình Linh Sơn thiếu tiền, Bồ tát Quảng Đức muốn cho mướn ruộng, để lấy thêm tiền chi trả việc trùng tu, bồ tát phải viết văn kiện ấy để xin quan huyện Vạn Ninh cho phép.
Điều nầy chứng tỏ việc cho mướn để lấy tiền thu tô không đơn giản chút nào, chùa phải trình cho chính quyền huyện cho phép mới thực hiện được. Và đó là chưa kể phải thông qua sự cho phép của chính quyền sở tại là lý hào xã Hiền Lương. Vì thế, mười sáu mẫu ruộng của chùa Long Sơn thời đó phải được tri sự chùa Long Sơn là bồ tát Quảng Đức trực tiếp canh tác.
Sau thời gian làm tri sự chùa Long Sơn, và khi bổn sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm viên tịch vào năm 1921, bồ tát Quảng Đức thọ tang thầy mình xong, đã đến cầu pháp với thiền sư Thanh Chánh Quảng Đạt Phước Tường (1867-1932) tại chùa Thiên Bửu (thượng) xã Điềm Tịnh ở Ninh Hòa khoảng những năm 1925 về sau nếu kể luôn 3 năm nhập thất tại hòn Núi Đất thôn Mỹ Trạch xã Ninh Hà huyện Ninh Hòa.
Chính vì cầu pháp với thiền sư Thanh Chánh Quảng Đạt Phước Tường, nên Bồ tát mới có thêm pháp hiệu Nhơn Tri. Nhân đây, cần nói thêm là sau khi thiền sư Hoằng Thâm viên tịch, một số đệ tử đã đến cầu pháp với thiền sư Phước Tường, nên có các pháp hiệu Nhơn Thọ, Nhơn Hoằng, Nhơn Sanh, Nhơn Duệ v.v…
Đến năm 1933, Bồ tát đã đến trùng tu lại chùa Thiên Ân xã Phước Thuận nay là xã Ninh Đông huyện Ninh Hòa, rồi đến năm 1937 đã làm đơn xin sắc tứ cho chùa Thiên Ân. Trước đó, năm 1935, Bồ tát đã đến khai sơn chùa Thiên Lộc trên đỉnh đồi Núi Đất, như biển chùa Thiên Lộc đã ghi (hiện đang treo tại chùa Thiên Tứ).
Tiếp theo, sau khi tổ Thiên Hương viên tịch vào đầu năm 1939, bồ tát Quảng Đức đã được mời về làm trú trì tổ đình Linh sơn. Một loạt văn kiện do bồ tát Quảng Đức viết để quyên góp cho việc trùng tu tổ đình Linh Sơn cùng việc xin sắc tứ cho tổ đình đã xuất hiện từ những năm 1940 đến năm 1944. Không những thế, bồ tát còn đứng ra mở rộng đất đai của chùa.
Như vậy, thông qua số văn kiện liên hệ đến Bồ tát Quảng Đức, ta có nhận thức rõ hơn về các hoạt động Phật sự của Bồ tát trong nửa đầu thế kỷ XX. Đây là giai đoạn hoạt động hết sức tích cực của Bồ tát Quảng Đức tại vùng Vạn Ninh cũng như tỉnh Khánh Hòa, mà kết quả là 14 ngôi chùa đã có những gắn kết với Bồ tát. Theo thống kê thì trong đời của Bồ tát đã trùng tu và khai sơn 31 ngôi chùa, trong đó 17 ngôi ở miền Nam và 14 ngôi ở miền Trung. Về 14 ngôi ở miền Trung này, ta hiện đã xác minh được.
Có một chi tiết mà Văn kiện ngày 12 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 12 (1937), tức Văn kiện số 2 ở trên đề cập tới là việc Bồ tát Quảng Đức có gốc gác là “nguyên tùng cửu phẩm bá hộ cổ tích Thiên Ân tự yết ma”.
Thế thì, tại sao vị Yết ma Quảng Đức của chùa Thiên Ân lại có chức tùng cửu phẩm bá hộ. Phải chăng để hợp thức hoá việc xuất gia của Bồ tát Quảng Đức nên thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm đã mua cho Bồ tát 1 hàm tùng cửu phẩm văn giai và chức bá hộ, để khỏi bị sưu dịch ở quê nhà, khi Bồ tát đã đến tuổi trưởng thành? Điều này còn cần làm rõ thêm trong tương lai.
Để có một quá trình hoạt động Phật sự tích cực, dẫn cuối cùng đến sự kiện lịch sử vị pháp thiêu thân ngày 11 tháng 6 năm 1963, tức ngày 20 tháng 4 nhuận năm Quý Mão, bồ tát đã có sự giáo dưỡng tác thành của thầy tổ, đặc biệt là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm chùa Long Sơn và tổ Chơn Hương Thiên Quang của tổ đình Linh Sơn.
Qua các văn kiện, từ số 15 đến số 27 công bố trên, ta thấy các vị thầy tổ này đã có những hoạt động Phật sự tích cực không kém trong sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh bảo vệ Phật giáo trong giai đoạn đất nước đang trải qua cuộc đấu tranh để phục hồi chủ quyền của đất nước. Những văn kiện vừa nêu từ đó đã cho ta một cái nhìn khá rõ nét không chỉ về bồ tát Quảng Đức cùng thầy tổ, mà còn cả về một giai đoạn Phật giáo và đất nước đầy những biến cố bi hùng.
Thứ hai, về thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm, với văn kiện cúng 22 mẫu ruộng cho ba chùa là Long Sơn, Linh Sơn và Long Hòa vào năm Duy Tân thứ hai, ta biết thiền sư chắc chắn xuất thân từ một gia đình tương đối khá giả.
Chỉ có vấn đề là trong văn kiện cúng ruộng ấy, thiền sư đã nói chuyện đem “pháp khí tự sản tinh tự điền”, tức pháp khí, tài sản của chùa cùng ruộng chùa, để đem cúng cho ba chùa vừa nói. Vậy, phải chăng ruộng mà thiền sư đem cúng cho các chùa, là ruộng thuộc ngôi chùa tư của cha mẹ thiền sư ?
Sự thật tên chùa Long Sơn xuất hiện từ việc đúc chuông vào tháng 2 và cúng ruộng vào tháng Chạp của năm Duy Tân thứ 2 (1907). Trước đó ngôi chùa này có tên là Thánh Kinh, mà ta còn thấy xuất hiện trong bài minh chùa Long Sơn. Nói rằng năm Thành Thái thứ 10 (1899) tổ Hoằng Thâm dựng chùa Long Sơn, thực ra là dựng chùa Thánh Kinh này.
Cho nên, khi văn kiện cúng ruộng cho chùa Long Sơn, Linh Sơn và Long Hoà ghi là đem “tự điền và tự khí” để cúng, thì thực chất là đồ dùng và ruộng đất của chùa Thánh Kinh vừa nói.
Theo lời truyền lại của các vị bô lão làng Phú Cang, thì vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thiền sư Hoằng Thâm đã phát canh nhiều ruộng đất tại làng ấy. Làng nầy là một làng tiếp giáp với rừng, có một cánh đồng khá rộng dưới chân núi. Số ruộng, mà thiền sư Hoằng Thâm đem cúng cho ba chùa, phải chăng là số ruộng phát canh mà dân làng nói tới ? Đây là một vấn đề cần nghiên cứu thêm, mới có thể làm rõ được.
Thứ ba, về tổ Chơn Hương Thiên Quang, dù gốc gác từ Phú Yên vào hoằng hoá tại vùng Vạn Ninh, tổ đã có một ảnh hưởng rất lớn lên người dân vùng nầy. Nhờ thế, tổ đã huy động được sự đóng góp của nhiều giới Phật tử vào các Phật sự khác nhau từ việc xây chùa đúc tượng cho đến việc mở rộng đời sống hoạt động kinh tế của chùa. Đặc biệt là tổ đã thành công đào tạo được một lớp đệ tử mà sau nầy đủ khả năng và đức độ để giáo dưỡng và tác thành nên bồ tát Quảng Đức.
Không những thế, sinh hoạt Phật sự thông qua việc quyên góp và lễ hội của chùa đã tạo nên một dạng tổ chức Phật giáo nối kết những người Phật tử tại những địa phương khác nhau thành một tập thể có tính thống nhất, nhằm thực hiện những công trình Phật giáo. Dạng tổ chức nầy cho đến bây giờ chưa có một nghiên cứu đầy đủ.
Hai mươi hai Văn kiện trên sẽ giúp cho chúng ta một phần tư liệu cho công tác nghiên cứu vừa nêu. Nói tóm lại, số tư liệu liên hệ tới những hoạt động Phật sự của bồ tát Quảng Đức tại vùng Khánh Hòa như vậy đang hứa hẹn nhiều cái nhìn mới về tình hình Phật giáo của giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX với nhiều biến cố của nó.
Thông qua các văn kiện này, vấn đề truyền thừa trong dòng thiền của bồ tát Quảng Đức đã có thể được vẽ lại. Ta đã biết thầy của bồ tát Quảng Đức là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm (1865-1921) và thầy của tổ Hoằng Thâm là thiền sư Chơn Hương Thiên Quang (1862-1939). Thiền sư Thiên Quang, ta đã biết xuất gia với tổ Ấn Chánh Tổ Tông Huệ Minh (?-1904) tại chùa Bảo Lâm ở Phú Yên. Tổ Ấn Chánh có nhiều đệ tử kế thừa, mà một trong số đó ta hiện có tư liệu phú pháp là thiền sư Chân Tâm Đạo Tánh Pháp Thân với bài kệ:
Chánh pháp trung diệu lạc
Vật trục tà kiến mê
Cổ kim đa hiền thánh
Giải liễu tức bồ đề
(Vui mầu trong chánh pháp
Thấy bậy chớ theo mê
Xưa nay nhiều hiền thánh
Hiểu được tức bồ đề)
Tổ Ấn Chánh lại là đệ tử của tổ Chương Như Tông Chí Từ Ý tại chùa Thiên Hưng thôn Hội Phú xã An Ninh Đông huyện Tuy An tỉnh Phú Yên. Và tổ Chương Như lại là đệ tử của tổ Toàn Thể Vi Lương Linh Nguyên. Toàn Thể là tác giả của Từ Quang tự sa môn Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu Nghiêm nhân do sự tích chí viết vào năm Giáp Tý của vua Gia Long (1804) và là anh em đồng sư với một tác gia nổi tiếng của lịch sử văn học và Phật Phật giáo Việt Nam là Toàn Nhật Vi Bảo Quang Đài (1757-1834). Những tác gia này đều là học trò của một tác gia nổi tiếng khác là Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu Nghiêm (1726-1798).
Đây là lý do giải thích tại sao Hứa sử truyện vãn của Toàn Nhật Vi Bảo Quang Đài lại xuất hiện tại chùa Long Sơn của bồ tát Quảng Đức. Tổ Pháp Chuyên lại là đệ tử của tổ Thiệt Dinh Chánh Hiển Ân Triêm (1712-1796). Tổ Thiệt Dinh là cao đệ của tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo (1670-1746), người đã khai sáng ra dòng thiền Chúc Thánh tại nước ta. Cây thiền phả của bồ tát Quảng Đức do thế có thể vẽ lại như sau:
Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo
Thiệt Dinh Chánh Hiển Ân Triêm
Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu Nghiêm
Toàn Thể Vi Lương Linh Nguyên
Chương Như Tông Chí Từ Ý
Ấn Chánh Tổ Tông Huệ Minh
Chơn Hương (?) Thiên Quang
Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm
Thị Thuỷ Hạnh Pháp Quảng Đức
Trên đây là một số nhận xét về những đóng góp của số tư liệu mà ta vừa phát hiện ở vùng Vạn Ninh. Đó là những tư liệu cực kỳ quý giá giúp ta hiểu một giai đoạn lịch sử đầy bi tráng của dân tộc và Phật giáo tại một địa phương đất không rộng người không đông.
Không những thế, đối với cuộc đời của bồ tát Quảng Đức, chúng cống hiến cho ta một cái nhìn rõ hơn về cuộc đời ấy trong nửa đầu thế kỷ XX, đặc biệt giúp ta tạo nên một niên biểu chi tiết cho bồ tát Quảng Đức.
Năm Sự kiện