;
Quê hương của Đức Phật có một ngôn ngữ riêng, bộ tộc của thân phụ Ngài có một thổ ngữ riêng, và quê hương đó, bộ tộc đó cũng chỉ bé xíu trong thung lũng sông Hằng. Các ngôn ngữ thời bấy giờ đã trở thành cổ ngữ hay tử ngữ, không còn mấy ai biết đến, thế nhưng Giáo Huấn và tư tưởng của Ngài ngày nay đã tỏa rộng trên khắp hành tinh này. Điều đó cho thấy phía sau những lời giảng của Đức Phật còn có những gì khác vượt lên trên ngôn ngữ, đó là các Sự Thật trong Giáo Huấn của Ngài và tình thương yêu chúng sinh trong lòng Ngài..
Vào thời đại của Đức Phật không có trường học, cũng chẳng có chữ viết, một mảnh giấy cũng không. Ngôn ngữ là phương tiện duy nhất chuyển tải sự hiểu biết từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ làng này sang làng khác, từ bộ tộc này đến bộ tộc khác. Mọi sự hiểu biết phải học thuộc lòng và truyền khẩu cho nhau. Thế nhưng trên dòng tiến hóa xã hội, ngôn ngữ không ngừng biến đổi, các ngôn ngữ mà Đức Phật thuyết giảng đã mai một từ lâu.
Vậy thì Giáo Huấn và tư tưởng của Ngài đã thích ứng như thế nào với các ngôn ngữ khác, các trào lưu tư tưởng mới, các sinh hoạt xã hội mới, các nền văn hóa mới, các quê hương mới, để lưu lại cho chúng ta đến ngày hôm nay? Ý thức được điều đó chúng ta phải thật thận trọng, phải tìm hiểu, học hỏi và tu tập một cách đúng đắn hầu bảo tồn và lưu truyền thật trung thực gia tài vô giá đó của nhân loại. Tóm lại Giáo Huấn của Đức Phật không có một ngôn ngữ "chính thức" nào cả, sự hiểu biết trong Giáo Huấn của Ngài, qua một góc nhìn nào đó, vượt khỏi ngôn từ và lên trên ngôn ngữ.
Trước khi phân tích vấn đề trên đây chúng ta hãy nêu lên quan điểm của một nhà sư người Anh là Urgyen Sangharakshita (1925-2018,) một trong số các nhà sư được xem là uyên bác nhất trong thế kỷ XX. Trong dịp viếng thăm Trung tâm Phật giáo Triratna (Tam Bảo) do ông thành lập tại Paris, sau một buổi thuyết giảng tổ chức ngày 23 tháng 6 năm 2007 và trong phần Hỏi-Đáp, đã có một câu hỏi như sau:
Hỏi: Ngày nay trên đất Ấn có rất nhiều ngôn ngữ và tiếng địa phương khác nhau. Ngày xưa Đức Phật từng du hành và thuyết giảng khắp nơi trên miền bắc Ấn, vậy vào cuối đời, Ngài nói được bao nhiêu thứ tiếng?
Đáp: Ngôn ngữ mà Đức Phật thuyết giảng lâu nay từng là chủ đề tranh luận giữa các học giả uyên bác. Người ta thường cho rằng Đức Phật thuyết giảng bằng tiếng Maghadhi, là ngôn ngữ của xứ Magadha (Ma-kiệt-đà, là một vương quốc lớn, bộ tộc của thân phụ Đức Phật nằm trong vương quốc này), ngày nay thuộc tiểu bang Bihar và một phần tiểu bang Uttar Pradesh.
Thế nhưng nhiều lần Ngài cũng đã từng du hành đến tận một vương quốc khác xa hơn là Kosala (Kiều-tát-la, một vương quốc giáp ranh với vương quốc Magadha về phía tây-bắc), tại nơi này Đức Phật đã sử dụng ngôn ngữ Kosali để thuyết giảng. Thật ra hai thứ ngôn ngữ này không khác nhau nhiều, chỉ là hai thứ tiếng địa phương thuộc cùng một nhóm ngôn ngữ chung, gần với tiếng Phạn xưa (xin lưu ý các kinh sách của Phật giáo Đại thừa được trước tác bằng một thứ tiếng Phạn cải tiến, tiếng Phạn mới này chỉ bắt đầu xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ III trước Tây lịch.
Các kinh sách Đại thừa đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ I trước Tây lịch đã được trước tác bằng thứ tiếng Phạn mới này). Tiếng Pali trong kinh sách của Phật giáo Theravada được phát sinh từ một trong hai thứ tiếng trên đây (Maghadi hay Kosali). Đến đây chúng ta cũng cần lưu ý thêm một điều thật quan trọng khác là Đức Phật thuyết giảng bằng các ngôn ngữ dân gian vào thời đại của Ngài.
Ngài không sử dụng tiếng Phạn cổ, dù rất có thể Ngài biết rành ngôn ngữ này (tiếng Phạn cổ và cả các thể loại tiếng Phạn cải tiến đều rất khúc triết và "thông thái", ngữ pháp và văn phạm rất chính xác và rắc rối). Không những Ngài thuyết giảng bằng ngôn ngữ của người dân thường mà có một lần Ngài từng khuyên người nghe nên nghiên cứu Dharma (Giáo Huấn hay Đạo Pháp của Đức Phật) bằng ngôn ngữ của địa phương mình (tức là tiếng mẹ đẻ hay ngôn ngữ của qưê hương mình).
Lời khuyên bảo trên đây của Đức Phật vô cùng quan trọng. Dù thông thạo một ngôn ngữ khác hơn với tiếng mẹ đẻ của mình và hiểu được rành rọt Giáo Huấn của Đức Phật bằng thứ ngôn ngữ đó đi nữa, thế nhưng một khi được nghe giảng Dharma bằng tiếng mẹ đẻ của mình, ngôn ngữ của quê hương mình, thì mình sẽ vẫn cảm thấy có một cái gì đó khác hơn, thấm thía hơn.
Bất cứ nơi nào Giáo Huấn của Đức Phật được quảng bá thì kinh sách đều được dịch sang các ngôn ngữ địa phương của các nơi này Nhờ vậy ngày nay chúng ta có kinh sách bằng đủ mọi thứ tiếng: Trung quốc, Mông cổ, Tây Tạng và rất nhiều thứ tiếng khác nữa. [...].
Sau khi nêu lên nhận xét trên đây nhà sư Sangharakshita đã đề nghị, ít nhất là đối với dòng tu do mình sáng lập, dù là ở bất cứ nơi nào, nên sử dụng tiếng Pali trong việc tụng niệm, hoặc để xướng lên các lời nguyện, các giới luật, thế nhưng trong việc học hỏi và tìm hiểu Giáo Huấn của Đức Phật thì phải dùng tiếng mẹ đẻ, tức là ngôn ngữ của xứ sở mình, của quê hương mình. Quan điểm trên đây của nhà sư Sangharakshita thật hết sức dứt khoát.
Cách tụng niệm bằng tiếng Pali hay tiếng Phạn là để tạo ra một bầu không khí thiêng liêng, mang chúng ta trở về với một khung cảnh xa xưa khi Giáo Huấn của Đức Phật còn rất gần với con người. Điều đó có nghĩa là chúng ta không cần tìm hiểu ý nghĩa của các câu kinh mà chỉ cần tụng lên các câu ấy bằng hơi thở của mình và tìm hiểu ý nghĩa của những lời tụng ấy bằng con tim của mình, thế nhưng trong khi học hỏi thì phải sử dụng trí óc, phải tìm hiểu giáo lý bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Điều đó cho thấy việc dịch thuật kinh sách thật hết sức quan trọng. Các ngôn ngữ chuyển tải Giáo Huấn của Đức Phật xưa nhất và trung thực nhất là tiếng Pali và tiếng Phạn.
Sau khi được đưa vào Trung quốc Phật giáo phát triển thật nhanh chóng, vô số kinh sách đã được dịch từ tiếng Phạn và trước tác bằng tiếng Hán, và đã trở thành một nguồn tư liệu mới về Phật giáo trong xứ này. Tất nhiên là nguồn tư liệu đó chịu ảnh hưởng của Hán ngữ, khả năng và sự hiểu biết của người dịch và những người trước tác, và xa hơn nữa là cả văn hóa của Trung quốc. Vậy các tư liệu đó có chuyển tải trung thực được Giáo Huấn của Đức Phật hay không? Câu hỏi này sở dĩ được nêu lên là vì nền Phật giáo Hán ngữ đó đã được vào Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản.
Sự du nhập Giáo Huấn của Đức Phật vào một đất nước to lớn có một nền văn minh lâu đời là Trung quốc, đã phản ảnh một cuộc phiêu lưu thật ngoạn mục. Trong cuộc phiêu lưu đó Giáo Huấn của Đức Phật và nền văn hóa Trung quốc đã cùng tương tác với nhau đưa đến sự hình thành của một nền Phật giáo Hán ngữ và một nền văn minh và một xã hội Trung quốc ảnh hưởng bởi giáo lý Phật giáo. Các nước Việt Nam, Triều Tiên và Nhận Bản đã thừa hưởng nền Phật giáo Hán ngữ và cả nền văn minh tạm gọi là Phật giáo đó của Trung quốc.
Trong cuộc phiêu lưu này Phật giáo đã tạo được nhiều biến đổi trong xã hội Trung quốc, ngược lại Giáo Huấn của Đức Phật cũng đã phải chịu ảnh hưởng của nền văn minh lâu đời tại đất nước này. Đây là một chủ đề thật lớn mà chúng ta hy vọng sẽ có dịp trở lại trong một dịp khác. Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng ta chỉ giới hạn việc tìm hiểu trong lãnh vực ngôn ngữ mà thôi và câu hỏi đầu tiên được nêu ra là các thứ tiếng Pali, Phạn và Hán là gì?
Tiếng Pali là gì
Như đã nói đến trên đây, tiếng Pali được hình thành trên miền bắc Ấn, và sau đó đã được đưa vào Tích Lan cùng với một học phái Phật giáo được xem là "chính thống", hình thành trong lần kết tập Đạo Pháp thứ ba dưới triều đại của vua Azoka (A Dục) vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Tiếng địa phương của đảo Tích Lan là Singhalese cũng tương đối khá gần với tiếng Phạn và tiếng Pali. Khi Giáo Huấn của Đức Phật và tiếng Pali được đưa vào Tích Lan thì tiếng Pali sau đó được xem như là ngôn ngữ chính thức chuyển tải Giáo Huấn của Đức Phật trên đảo quốc này qua nhiều thế kỷ, trước khi được đưa vào các quốc gia khác trong vùng Đông Nam Á, như Miến điện, Thái Lan, Inđônésia, Campuchia, và xa hơn nữa là các hòn đảo của Indônêxia. Sự truyền bá này cũng đã được kèm theo cả ngôn ngữ Pali và ngữ tự ngoằn ngoèo Devanagari của Ấn-độ. Tóm lại các quốc gia trên đây ngoài Phật giáo còn được thừa hưởng chữ viết và cả nền văn minh trong thung lũng sông Hằng. Ngày nay trong ngôn ngữ của các nước này đều có nhiều từ gốc Pali và Phạn ngữ,.
Một số học giả cho rằng tiếng Pali phát sinh từ tiếng Magadhi, rất phổ biến trong xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) vào thời đại của Đức Phật. Tiếng Pali được người Tây phương khám phá ra vào thế kỷ XVII cùng với nhiều kinh sách ghi chép bằng thứ tiếng này. Thế nhưng mãi đến thế kỷ XIX thì các học giả Tây phương mới bắt đầu nghiên cứu tiếng Pali tích cực hơn và đã chuyển ngữ tự ngoằn ngèo của ngôn ngữ này sang ngữ tự La-tinh. Nhờ vậy các kinh sách bằng tiếng Pali - trong đó có Tam Tạng Kinh - bắt đầu được dịch sang các ngôn ngữ Tây phương, nhất là tiếng Anh, và đã được đưa trở lại các nước Đông Nam Á, đánh dấu một giai đoạn mới thật trọng đại trong việc phổ biến Giáo Huấn của Đức Phật, không những tại Á Châu mà sau đó cả trên toàn thế giới.
Thế nhưng kinh sách Phật giáo không phải chỉ gồm kinh điển, giới luật và các tập bình giải bằng tiếng Pali mà còn là cả một kho tàng đồ sộ gồm các kinh sách và các tập luận giải bằng tiếng Phạn của Phật giáo Đại thừa, được trước tác bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ I trước Tây lịch Vậy tiếng Phạn là gì?
Tiếng Phạn là gì
Thật ra tiếng Phạn và tiếng Pali không khác nhau nhiều, cùng thuộc chung trong một nhóm ngôn ngữ gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European). Nhóm ngôn ngữ này lại thuộc vào một nhóm lớn hơn gọi là các ngôn ngữ Ấn-độ - Ba-tư (Indo-Iranian). Dù tiếng Phạn và tiếng Pali đã trở thành cổ ngữ hay tử ngữ, thế nhưng ngày nay tại Ấn-độ vẫn còn một vài nhóm học giả thủ cựu vẫn tiếp tục sử dụng tiếng Phạn để trước tác trong các lãnh vực triết học, văn chương, thi phú và xem đó là một ngôn ngữ "thông thái". Hơn nữa đôi khi họ cũng sử dụng ngôn ngữ này để thảo luận trong các buổi hội thảo thu hẹp giữa họ với nhau
Điều đó cho thấy tiếng Phạn là một ngôn ngữ rất khúc triết và cũng từng là một trong số các ngôn ngữ chính thức của nước Ấn. Ngày nay tiếng Phạn đã trở thành ngôn ngữ tín ngưỡng (liturgy) của Ấn giáo và cả Phật giáo. Tại Âu châu cũng vậy, tiếng La-tinh từng là một ngôn ngữ "thông thái", rất phổ biến từ thế kỷ thứ VIII, hầu hết các đại học Âu châu đều sử dụng ngôn ngữ này để giảng dạy về văn chương, triết học và cả khoa học. Thế nhưng bắt đầu từ thế kỷ XIX tầm ảnh hưởng của tiếng La-tinh thu hẹp dần và đã trở thành ngôn ngữ tín ngưỡng của Ki-tô giáo. Sau khi tiếng La-tinh mất dần ảnh hưởng, thì các nước Âu châu mới bắt đầu chú trọng hơn đến ngôn ngữ riêng của quốc gia mính.
Trên phương diện văn phạm và ngữ pháp, tiếng Phạn - cũng như tiếng Pali - là các thứ ngôn ngữ "biến dạng" (inflectional), có nghĩa là mỗi chữ tùy theo vị trí và vai trò trong câu có thể biến đổi khác đi, sự biến đổi này thuận theo một số quy tắc văn phạm và ngữ pháp, giúp cho ý nghĩa của toàn câu được minh bạch hơn.
Người Tây Phương khám phá ra tiếng Phạn vào cuối thế kỷ thứ XVIII và họ vô cùng kinh ngạc trước sự chính xác và khúc triết của ngôn ngữ này. Các nhà ngôn ngữ học Tây phương cho rằng trên phương diện cấu trúc, ngữ pháp và văn phạm, tiếng Phạn hơn hẳn các tiếng Hy-lạp và La-tinh. Tiếng Phạn cổ xuất hiện rất sớm từ thế kỷ XV trước Tây lịch, qua kinh Veda (Vệ-đà), một bộ kinh truyền khẩu trường thiên của đạo Bà-la-môn và cả Ấn giáo sau này nói chung.
Thế nhưng ngoài các kinh sách bằng tiếng Pali và tiếng Phạn, người ta còn thấy có vô số tác phẩm dịch thuật và các trước tác bằng tiếng Hán. Trên đây chúng ta chỉ đề cập sơ lược vai trò của các tiếng Pali và tiếng Phạn trong việc bảo tồn và phổ biến Giáo Huấn của Đức Phật, dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết hơn về Hán ngữ và ảnh hưởng của ngôn ngữ này đối với Giáo Huấn của Đức Phật. Dường như vấn đề này ít được quan tâm, thế nhưng lại rất quan trọng, bởi vì Phật giáo Hán ngữ đã trực tiếp ảnh hưởng đến Phật giáo Việt Nam và cả Phật giáo Triều Tiên và Nhật Bản.
Hán ngữ và Phật giáo
Khi Phật giáo Theravada từ Tích Lan được đưa vào các nước trong các vùng đông-nam Á Châu, thì đồng thời cũng mang theo vào các nơi này tiếng Pali và ngữ tự Devanagary của nền văn minh Ấn-độ. Trái lại khi Phật giáo Đại thừa được đưa vào Trung quốc thì nền Phật giáo này đã phải "chạm trán" với một nền văn minh thật cao và lâu đời, và phải tiếp xúc với một ngôn ngữ độc âm và ngữ tự tượng hình vô cùng "độc đáo", hoàn toàn khác hẳn với bất cứ một thứ ngôn ngữ nào khác. Sự khác biệt to lớn đó là cả một bức tường kiên cố và một sự thử thách to lớn đối với việc phổ biến Giáo Huấn của Đức Phật. Dịch thuật là phương pháp và cũng là phương tiện chủ yếu góp phần khắc phục trở ngại và sự thử thách đó.
Chữ viết được phát minh rất sớm tại Trung quốc, từ thế kỷ thứ XV trước Tây lịch. Các "chữ viết" đầu tiên thật ra chỉ là các "ký hiệu" khắc trên mai rùa và các mảnh xương thú vật, thường là xương bả vai của trâu bò và hươu nai, dùng vào các việc đoán điềm và bói toán. Các ký hiệu này biến dạng dần và đã trở thành chữ viết, mỗi chữ gồm một số nét gộp chung trong một khung vuông.
Mỗi khung là một chữ cố định, mỗi chữ là một "hình ảnh" nói lên một ý nghĩa nào đó, chữ viết và ý nghĩa hoàn toàn độc lập với cách cách phát âm. Mỗi chữ tự nó "câm nín" một cách tự nhiên, không đọc được, cũng không "đánh vần" được, bởi vì mỗi chữ chỉ là một ký hiệu nói lên một ý nghĩa nào đó. Các ký hiệu có thể được ghép chung với nhau để tạo ra chữ mới mang một ý nghĩa mới. Sau đây là một vài thí dụ điển hình về các ký hiệu và các cách tạo chữ trong tiếng Hán:
Cách biến các ký hiệu thành ngữ tư:
Trên đây là chữ "nhân", ký hiệu tiên khởi là một hình người với hai chân và hai tay, giữa ngực là hình quả tim ("tâm"/心), ký hiệu này biến dạng dần và trở thành hai vạch. Xin lưu ý nền văn minh cổ đại của Trung quốc xem quả tim là trung tâm của mọi xúc cảm, sự suy nghĩ và cả sự sống.
Mỗi khi các xúc cảm dấy lên thì tim đập mạnh, phải chăng sự kiện này đã khiến người Trung quốc cổ đại, khi chưa biết vai trò của não bộ là gì, đã nghĩ rằng quả tim là trung tâm của mọi sự suy nghĩ và xúc cảm? Chữ "tâm" do đó đã giữ một vai trò thật quan trọng trong nền văn hóa Trung quốc và cũng đã ảnh hưởng sâu đậm đến nền Phật giáo tại đất nước này và cả các nước chịu ảnh hưởng của nền Phật giáo đó, chẳng hạn như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Các nhà thư pháp Việt Nam thường hay viết chữ "Tâm" bằng ngữ tự La-tinh nhưng uốn éo theo lối chữ Hán.
Chữ này bắt đầu bằng một ký hiệu hình tròn và một chấm ở giữa, sau đó biến dạng dần và trở thành hình chữ nhật với một gạch ngang ở giữa.
Chữ mặt trời đặt bên cạnh ký hiệu cái "chày" dùng để giã, có nghĩa là "buổi chiều" hay "mặt trời lặn". Cái chày gồm có một cái cán và một tấm chắn vừa miệng cối dùng để chận các vật trong cối không bắn tung ra ngoài. Cái chụp hay tấm chắn của cái chày úp vào miệng cối sẽ tạo ra bóng tối. Sự liên tưởng này quà thật bất ngờ và cụ thể, nhưng cũng rất tuyệt vời!
唱
Chữ "khẩu" (口, biểu trưng bởi một khung vuông) đặt bên cạnh hai mặt trời chồng lên nhau tạo thành chữ "xướng", có nghĩa là "hát" (ngẩng cổ [lên trời] để "xướng lên" hay "hát lên")
Đối với các chữ tiếng Phạn không dịch được sang tiếng Hán, chẳng hạn như các danh từ riêng, thì hoặc dịch "nghĩa" hoặc dịch âm, thế nhưng dịch âm thì tiếng Hán không có cách đọc nào cả, do đó phải tạo ra thêm các chữ ghép bằng các ký hiệu dùng để phát âm (pronunciation), thí dụ:
Ký hiệu trên đây gồm hai ký hiệu ghép chung với nhau, phát âm là "zhong", ký hiệu bên trên là chữ "trung"/中,gồm một gạch đứng là mũi tên, giữa gạch đứng là một hình vuông (hay chữ nhật) là tấm bia, với ý nghĩa là mũi tên bắn trúng vào giữa tấm bia. Ký hiệu bên dưới là chữ "tâm"/心, cách ghép ký hiệu này là nhằm gợi lên một cách đọc hay phát âm, nhưng dầu sao cũng không đánh vần được. Chữ "zhong"/忠 trên đây cũng có nghĩa là "trung thành". Tiếng Việt bằng ngữ tự La-tinh có thể đánh vần được, chẳng hạn như chữ trung thì có thể đánh vần: "trờ-u-tru-ngờ-trung" hoặc đọc thẳng là "trung". Các bài tụng của Phật giáo Trung quốc dịch âm từ tiếng Phạn gọi là "phạm bái" (梵呗) có nghĩa là "tụng bằng tiếng Phạn". Theo nhà sư Tinh Vân (Hsing Yun/星雲, 1927) của Đài Loan thì cách tụng này là do Tào Phi, con trai của Tào Táo thiết lập vào thế kỷ thứ III. Các bài tụng của Phật giáo Việt Nam nhằm tạo âm nhưng không mang ý nghĩa gì như là các bài tụng "phạm bái" trên đây.
Nói chung các cách tạo chữ trong tiếng Hán cho thấy một sự liên tưởng hay gợi ý khá lý thú và ngộ nghĩnh, phản ảnh một sự suy nghĩ vô cùng "thiết thực" và "trực tiếp", một sự tưởng tượng rất "phong phú" và khá "bất ngờ". Các đặc tính này phải chăng cũng phản ảnh phần nào tánh khí "cụ thể" và " thực tế" của người Trung quốc nói chung?, Trở lại với chữ "nhật"/mặt trời, thì chữ này cũng còn được ghép chung với vô số các ký hiệu khác để tạo ra vô số các chữ khác. Vào cuối thế kỷ thứ I, cách ghép các ký hiệu trên đây đã tạo ra 8000 chữ trong Hán ngữ, đến thế kỷ thứ III tiếng Hán có 18 000 chữ, thế kỷ thứ XI có 20 000 chữ, thế kỷ XVIII có 47 000 chữ, ngày nay trong từ điển tiếng Hán có 55 000 chữ, tuy nhiên trong số này cũng chỉ có khoảng 3 000 chữ thông dụng.
Số chữ ngày càng gia tăng trên đây cho thấy sự chuyển biến phức tạp và phong phú của Hán ngữ, thế nhưng cũng chỉ là các chữ tượng hình, không nói lên được trung thực các ý niệm siêu hình trong tiếng Phạn. Hơn nữa kinh sách Phật giáo Hán ngữ đã được dịch thuật hoặc được trước tác từ nhiều trăm năm hay hàng ngàn năm trước, không những thiếu chính xác trên phương diện thuật ngữ mà còn bị "lỗi thời" trước sự phát triển văn hóa và tư tưởng trong xã hội Trung quốc trên dòng lịch sử và cả ngày nay. Những gì rơi rớt lại từ các thời kỳ vàng son của Phật giáo Hán ngữ trong quá khứ chỉ là các hình thức tín ngưỡng đại chúng, pha lẫn với các tập tục dân gian.
Trong khi đó Phật giáo Tây phương "trẻ trung" hơn nhiều, có một căn bản tư tưởng cao và một vốn liếng ngôn ngữ chính xác, thừa hưởng từ nền văn minh lâu đời của Hy-lạp, đã cho thấy một sự phát triển vô cùng ngoạn mục. Ngoài ra các tiến bộ xã hội, văn hóa và khoa học cũng đã gián tiếp góp phần không nhỏ vào sự phát triển nhanh chóng đó của Phật giáo Tây phương.
Trong khi đó tại Trung quốc, sau các cuộc cách mạng từ văn hóa đến xã hội, các đợt bài trừ tôn giáo và biến động chính trị, Phật giáo Trung quốc chỉ còn vớt vát được một chút vang bóng mà thôi. Các hình thức sinh hoạt Phật giáo ngày nay tại Trung quốc dường như che dấu phía sau các các hậu ý kinh tế và chính trị.
Gia tài duy nhất mang một chút giá trị mà Phật giáo Trung quốc còn giữ được đến nay chỉ là một vài kinh sách dịch thuật xưa mà các bản gốc tiếng Phạn đã bị thất truyền khi các đạo quân Hồi giáo xâm chiếm miền bắc nước Ấn từ các thế kỷ thứ VIII đến XII.
Dưới một góc nhìn khác, tính cách thiết thực và cụ thể của Hán ngữ phải chăng cũng đã phản ảnh một nền văn minh thiếu hẳn các khía cạnh triết học và siêu hình. Trên dòng lịch sử phát triển của nền văn minh Trung quốc, dù là một trong số các nền văn minh lâu đời nhất của nhân loại, thế nhưng dường như không thấy có một triết gia nào sáng chói, ngang hàng với các triết gia của thời cổ đại Hy-lạp như Socrates, Plato, Aristotle..., hoặc các vị đại sư triết gia của Phật giáo Ấn-độ vào các thời kỳ hưng thịnh từ các thế kỷ thứ II đến thứ VIII, chẳng hạn như Nagarjuna, Asanga, Vasubandu, Dignaga, Dharmakirti, v.v. Khổng Tử chỉ là một nhà chính trị và đạo đức, đưa ra một hệ thống quản lý quốc gia và an bài xã hội.
Lão Tử là một nhân vật huyền thoại, quyển sách "Đạo Đức Kinh" được xem là tác phẩm của "triết gia" này, thế nhưng dường như chỉ là một tập sách góp nhặt và gộp chung một số câu phát biểu bao quát và khá mơ hồ của một số nhà tư tưởng thời bấy giờ. Khái niệm nổi bật nhất trong tập sách này là một thái độ hay phản ứng trước cuộc sống xã hội, đó là khái niệm "Vô Vi" (Wuwei/無爲), nói lên một phong cách hành xử hơn là một ý niệm triết học.
Khái niệm quan trọng thứ hai trong quyển "Đạo Đức Kinh" là "Âm-Dương" (Yin-Yang, 陰-陽), khái niệm này chỉ là một sự "nhận xét" về sự vận hành mang tính cách vừa đối nghịch vừa tương tác giữa hai thái cực, bên trong con người và cả bên ngoài thế giới. Âm và Dương đối nghịch nhau và bổ khuyết cho nhau để tác tạo ra mọi hiện tượng trong sự sống của con người và cả vũ trụ.
Tóm lại nền văn minh Trung quốc không những mang tính các cụ thể và thiết thực trong chữ viết mà cả trong lãnh vực tư tưởng. Các khía cạnh này tương phản hẳn với nền văn minh Ấn-độ nghiêng về các ý tưởng trừu tượng và các giá trị tâm linh. Sự khác biệt này có thể là một trở ngại không nhỏ trong việc dịch thuật kinh sách Phật giáo từ Phạn ngữ sang Hán ngữ. Việc dịch thuật, ngoài các trở ngại gây ra bởi sự khác biệt quá lớn trong lãnh vực ngôn ngữ, còn phải khắc phục các khó khăn khác trên phương diện tư tưởng là như vậy. Chúng ta sẽ nêu lên dưới đây một vài thí dụ điển hình và cụ thể.
Thiếu chính xác trên phương diện ý nghĩa
Hãy lấy thí dụ về một khái niệm thật căn bản và chủ yếu trong Phật giáo, tiếng Pali là Cattari ariyasaccani, tiếng Phạn là Catavari aryasatyani, Hán dịch là "Tứ Diệu Đế" (四妙諦), "Tứ Chánh Đế" hay "Tứ Chân Đế". Các ngôn ngữ Tây phương gọi khái niệm này là "Bốn Sự Thật Cao Quý" (Four Noble Truths/Quatre Nobles Vérités). Giữa hai cách dịch là "Tứ Diệu Đế" và "Bốn Sự Thật Cao Quý" có một sự khác biệt rất lớn về ý nghĩa.
Trong tiếng Pali, chữ catu có nghĩa là bốn; ariya là cao quý; sacca là sự thật. Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật, nhưng không đưa ra một giáo lệnh nào, cũng không nói lên môt lời thần khải nào. Nói một cách khác là Đức Phật không áp đặt một cái "Đế"/諦 nào cả với ý nghĩa là chân lý, chân ngôn hay chân đế. Ngài chỉ nêu lên các Sự Thật giúp chúng ta nhìn vào đó để tự mình thực hiện các Sự Thật ấy cho chính mình.
Chữ thiếu chính xác thứ hai trong cách dịch sang tiếng Hán của khái niệm trên đây là chữ "Diệu"/妙 với ý nghĩa là diệu kỳ, mầu nhiệm, thần kỳ, thế nhưng tiền ngữ ariya trong chữ aryasatyani chỉ có nghĩa là cao quý. Có rất nhiều sự thật, thế nhưng không phải sự thật nào cũng cao quý. Bốn Sự Thật mà Đức Phật nêu lên sở dĩ được xem là cao quý vì các Sự Thật ấy có giá trị và ích lợi, có thể giúp chúng ta làm chấm dứt khổ đau của chính mình.
Nếu dịch Bốn Sự Thật là "Tứ Diệu Đế" thì đấy là một cách thổi phồng, một sự tâng bốc, không những "vô ích" mà còn có thể đánh lạc chủ đích thiết thực trong Giáo Huấn của Đức Phật là giúp chúng ta tự loại bỏ những khổ đau dai dẳng, sâu kín và hiện sinh của chính mình.
Người tu tập có thể bị "hoa mắt" trước sự thổi phồng và tâng bốc đó và quên mất sự thật về khổ đau nơi con người của mình, bên trong sự hiện hữu của chính mình. Sự khổ đau đó chính là "Sự Thật Thứ Nhất" trong Bốn Sự Thật". Sự thật về những nỗi khổ đau nơi mỗi người trong chúng ta không phải là một cái "Đế" thánh thiện hay diệu kỳ nào cả.
Những niềm đau đó không đơn giản chỉ là những thứ đau đớn trên thân xác và buồn khổ trong tâm thần, mà rất sâu xa và nội tại, gắn liền với sự hiện hữu mang tính cách trói buộc của chính mình trong thế giới hiện tượng. Các thứ khổ đau mà mình cảm nhận được trong từng ngày chỉ là những thứ khổ đau phụ thuộc và lộ liễu, gây ra bởi tác động giữa môi trường và sự hiện hữu tạm thời của chính mình bên trong môi trường đó mà thôi.
"Sự Thật Thứ Hai" là các nỗi khổ đau của mình - tức là "Sự Thật Thứ Nhất" - có một nguyên nhân gây ra, Nguyên nhân đó phát sinh từ bên trong tâm thức của chính mình, nói một cách khác thì đó là sự "suy nghĩ" của mình. Sự "suy nghĩ" đó sẽ làm phát sinh ra các "tác ý", tức là các sự chủ tâm, mưu mô, ý định hay hoạch định, và cả các thứ xúc cảm đủ loại.
Các "tác ý" và "xúc cảm" đó dấy lên bên trong tâm thức mình thế nhưng cũng có thể hiện ra bên ngoài, tức là trên thân xác mình, qua ngôn từ, cử chỉ và hành động. "Sự Thật" đó không có gì là kỳ diệu cả, cũng không phải là một cái "Đế" nào cả, mà chỉ là nguyên nhân sâu xa mang lại cho mình mọi thứ khổ đau mà thôi.
Câu đầu tiên trong Kinh Dhammapada (Hán dịch là Kinh Pháp cú, 法句經, chữ "cú"/句 ở đây có nghĩa là "câu", chẳng hạn như "câu nói" hay "câu thơ", do đó Dhammapada có thể dịch là Các câu trong Đạo Pháp hay Các Câu thơ Đạo Pháp) như sau: "Tâm thức là đầu mối [tạo ra] mọi sự trói buộc, tâm thức là chủ nhân ông, tất cả mọi sự trói buộc đều được tạo ra bởi tâm thức, một người nói năng và hành động với một tâm thức không tinh khiết thì khổ đau sẽ bám theo người ấy tương tự như chiếc bánh xe của một cỗ xe bò lăn theo vết chân của con bò kéo xe".
"Sự Thật Thứ Ba" là nguyên nhân tạo ra khổ đau - tức là Sự Thật Thứ Hai - có thể làm cho nó chấm dứt được, nói một cách khác là có thể tinh khiết hóa tâm thức minh, khiến sự suy nghĩ, lời ăn tiếng nói, cử chỉ và các hành động của mình không còn gây ra khổ đau cho mình nữa. Câu thứ hai trong kinh Dhammapada trên đây là: "Nếu một người nói năng và hành động với một tâm thức tinh khiết, thì hạnh phúc sẽ bám theo người ấy tương tự như bóng với hình ". "Sự Thật" đó thật giản dị và hiển nhiên, như con bò kéo xe, như chiếc bánh xe lăn theo vết chân con bò trên mặt đất.
Sự Thật Thứ Tư là có một phương pháp có thể biến cải tâm thức, giúp chúng ta biết suy nghĩ, nói năng và hành động thật tinh khiết. Phương pháp đó gồm có tám yếu tố đúng đắn, tiếng Pali là Atthangika marga, tiếng Phạn là Astangamarga, kinh sách Hán ngữ gọi là "Bát chánh đạo".
Tám yếu tố đó là: 1) suy nghĩ đúng đắn, 2) ăn nói đúng đắn, 3) hành động đúng đắn, 4) phương tiện sinh sống đúng đắn, 5) trì chí (kiên nhẫn) đúng đắn, 6) chú tâm đúng đắn, 7) quán thấy đúng đắn, 8) nhận định đúng đắn. Tóm lại là có tám sự đúng đắn cần phải thực hiện. Yếu tố đúng đắn quan trọng nhất là yếu tố thứ tám là sự "nhận định".
Nhận định ở đây có nghĩa là nhận biết bản chất của hiện thực một cách đúng đắn và trung thực. Sự nhận định đúng đắn và trung thực đó là sự Giác Ngộ. Sự Giác Ngộ sẽ giúp chúng ta suy nghĩ đúng đắn và tinh khiết, các tác ý và xúc cảm trong tâm thức theo đó cũng sẽ trở nên đúng đắn và tinh khiết, ngôn từ, cử chỉ và hành động trên thân xác cũng sẽ trở nên đứng đắn và tinh khiết. Nói chung là toàn thể con người của mình cũng sẽ trở nên đúng đắn và tinh khiết.
Sự đúng đắn và tinh khiết đó lá kết quả do Sự Thật Thứ Tư mang lại cho mình và cũng là do chính mình thực hiện cho mình bằng tâm thức mình: "Nếu một người nói năng và hành động với một tâm thức tinh khiết thì hạnh phúc sẽ bám theo mình như bóng với hình". Sự Thật thứ Tư cũng chỉ giản dị như vậy, không phải là một thứ "Chân Đế" nào cả, Trong bốn mươi lăm năm Đức Phật cũng chỉ giảng dạy có vậy.
Thế nhưng trong bốn mươi lăm năm đó, đôi khi Đức Phật cũng đưa ra các bài thuyết giảng vô cùng sâu sắc và siêu việt, dành cho các đệ tử uyên bác bên cạnh Ngài. Việc thấu triệt các bài giảng này thường đòi hỏi một sự luyện tập và suy tư lâu dài. Ngày nay cũng vậy, thiết nghĩ trước hết chúng ta nên bắt đầu tìm hiểu Giáo Huấn của Đức Phật bằng ngôn ngữ của quê hương mình qua các kinh sách bằng tiếng tiếng mẹ đẻ của mình.
Sau đó chúng ta sẽ dần dần vượt lên trên giới hạn của ngôn ngữ và cả bối cảnh văn hóa và xã hội giúp mình tiếp cận trực tiếp, sâu xa và toàn cầu hơn với các ý niệm siêu việt trong Giáo Huấn của Đức Phật. Bám chặt vào Phật giáo Hán ngữ dường như không phải là một lối thoát. Hãy so sánh giữa Phật giáo Trung quốc và Phật giáo Tây phương ngày nay thì sẽ rõ.
Sự thiếu chinh xác trên phương diện văn phạm và ngữ pháp trong Hán ngữ
Chúng ta hãy trở lại với khái niệm "Bát chánh đạo" (八正道) nêu lên trên đây. Chữ "chánh"/正 trong Hán ngữ có thể ở thể dạng tĩnh từ, danh từ, động từ hay trợ từ. Nếu là tĩnh từ thì chữ này bắt buộc sẽ phải đi theo chữ đạo, bởi vì trong Hán ngữ tĩnh từ đặt trước danh từ, và trong trường hợp này "Bát chánh đạo" sẽ có nghĩa là "Tám con đường đúng đắn".
Chính vì lý do này nên đôi khi chúng ta thấy khái niệm "Bát chánh đạo" được dịch sang tiếng Việt là "Tám con đường" hay "Con đường gồm tám nhánh" hay "tám chặng", cách dịch này không được chính xác. Trong trường hợp chữ "chánh" là danh từ thì nó sẽ đi theo chữ tám và "Bát chánh đạo" sẽ có nghĩa là "Con đường gồm tám sự đúng đắn" hay "tám yếu tố đúng đắn", thiết nghĩ cách dịch thứ hai này đúng hơn. Khái niệm "Bát chánh đạo" tiếng Pali là Attanghika Magga, chữ attangika có nghĩa là tám thứ hay tám yếu tố., tiếng Anh dịch là eightfold hay having eight constituants, và chữ magga thì có nghĩa là con đường/path.
Sự thiếu chính xác vì hiểu sai các khái niệm
Sự thiếu chính xác thứ ba là do hiểu sai một số khái niệm. Thí dụ điển hình nhất là sự hiểu sai khái niệm về "Bốn vô biên" hay "Bốn thể dạng vô biên" của tâm thức, tiếng Pali là Appamanna, tiếng Phạn là Apramana. Khái niệm này còn được gọi là Brama-vihara có nghĩa là "Nơi thường trú của vị Trời Bhrama".
Kinh sách Hán ngữ dịch khái niệm này là "Tứ vô lượng"/四無量hoặc đôi khi cũng dịch là "Tứ vô lượng tâm"/四無量心. Tiếng Anh dịch là Four immeasurables, tiếng Pháp là Quatre incommensurables. Vậy chúng ta hãy tìm hiểu xem ý nghĩa của khái niệm này là gì, và thường bị hiểu sai như thế nào trong một số kinh sách tiếng Việt dịch từ tiếng Hán hoặc căn cứ vào tiếng Hán.
Khái niệm "Bốn vô biên" chủ yếu được nêu lên trong kinh Mettanisamsa Sutta (Samyutta Nikaya/Tương Ưng Bộ Kinh, SN 46.54, PTS V.115)), đôi khi kinh này cũng mang tên là Metta Sutta hay Metta-suttam. Độc giả có thể xem bản dịch tiếng Anh của Thanassaro Bhikkhu, mang tựa là Metta Sutta (Good Will) trên trang mang Accesstoinsight hoặc trang mạng dhammatalks.org, hoặc bản dịch song ngữ Pali và Pháp ngữ, mang tựa Mettasahagata Sutta trên trang mạng Buddha-vacana. Độc giả cũng có thể tra cứu định nghĩa của khái niệm này trong quyên "Tự điển bách khoa Phật giáo" (Dictionnaire Encyclopédique du Bouddhisme" của Philippe Cornu, ấn bản 2006, tr.472-473, xem chữ Quatre illimités). Tất cả các tư liệu trên đây đều cho biết "Bốn vô biên" là bốn đối tượng thiền định giúp tâm thức tỏa rộng đến vô tận,
Bốn vô biên đó tiếng Pali là Metta, Karuna, Mudita và Uppekka. Metta là lòng vị tha, tình thương người hay lòng từ tâm, thiền định hay luyện tập về lòng từ tâm là cách biến xúc cảm đó bên trong tâm thức mình trở thành vô tận. Karuna là sự xót thương, lòng từ bi; thiền định hay luyện tập về lòng từ bi là cách biến xúc cảm đó bên trong tâm thức mình trở thành vô tận.
Mudita là niềm hân hoan và vui sướng, thiền định hay luyện tập về niềm hân hoan là biến xúc cảm đó bên trong tâm thức mình trở thành vô tận bằng cách ước vọng tất cả chúng sinh đều được vui sướng, không ẩn hiện một thoáng khổ đau nào. Uppekka là sự thanh thản và bình lặng tuyệt đối của tâm thức, thiền định hay luyện về sự thanh thản là cách biến xúc cảm đó bên trong tâm thức mình trở thành vô tận bằng cách ước vọng tất cả chúng sinh đều được bình đẳng và ngang hàng nhau, đều cảm nhận được một sự an bình và thanh thản như nhau, không một chút phân biệt nào.
Bốn thể dạng hay đối tượng thiền định Metta, Karuna, Mudita và Uppeka đó kinh sách Hán ngữ gọi là: Từ, Bi, Hỷ và Xả. Cách dịch này thường đưa đến một sự hiểu lầm rất thường thấy là xem bốn thể dạng vô tận đó của tâm thức là các "thái độ hành xử" hay "cung cách cư xử" trong cuộc sống. Hầu hết các bài giảng và bài viết về "Bốn vô biên" được tham khảo đều xoay quanh các "cung cách cư xử" thực tế đó trong cuộc sống.
Sự lẫn lộn này trước hết có thể là do Phật giáo Việt Nam đã mất dần truyền thống tu tập bằng thiền định, sau đó là vì hiểu sai bốn thể dạng vô biên: Metta, Karuna, Mudita và Uppeka qua cách dịch trong kinh sách Hán ngữ là Từ, Bi, Hỷ và Xả, Các từ Hán Việt này thường thấy ghép chung với nhau hoặc với một từ khác, đưa đến sự lẫn lộn và hiểu sai, chẳng hạn như Từ và Bi ghép chung với nhau trở thành Từ-bi có nghĩa là sự xót thương; Hỷ và Xả trở thành Hỷ-xả là sự tha thứ; chữ Hỷ thêm chữ Hoan trở thành Hoan Hỷ là niềm vui sướng hay vui lòng. Ý nghĩa của các từ ghép này hoàn toàn "xa lạ" với các đối tượng trong phép luyện tập thiền định về bốn thể dạng vô biên của tâm thức.
Sự thiếu chính xác do sự khác biệt quá lớn giữa Phạn ngữ và Hán ngữ
Mỗi ngôn ngữ có một cách diễn đạt riêng và một số từ đặc thù không có các từ tương đương trong các ngôn ngữ khác, tuy nhiên việc dịch thuật cũng có thể khắc phục được khó khăn này bằng cách mở rộng và giải thích một từ hay ý niệm nào đó. Thế nhưng giữa Hán ngữ và Phạn ngữ là cả một biên giới kín mít, không kẽ hở, một bên là tiếng Hán độc âm, đóng khung, gò bó, cụ thể, một bên là tiếng Phạn biến thể (inflectional), đa âm, uyển chuyển, khúc triết và trừu tượng. Một khó khăn khác cũng thật nan giải, đó là các danh từ riêng, chẳng hạn như tên người và địa danh,. Hán ngữ với ngữ tự bằng ký hiệu không thể dùng thẳng tiếng Phạn bằng ngữ tự ngoằn ngoèo. Nếu muốn dịch âm thì tiếng Hán không có cách phát âm thống nhất, dịch nghĩa thì sẽ đưa đến các tên người và địa danh hoàn toàn "xa lạ".
Người Tây phương khắc phục các khó khăn này một cách dễ dàng, họ thiết lập một hệ thống hoán chuyển từ ngữ tự ngoằn ngoèo của tiếng Phạn và cả tiếng Pali sang ngữ tự La-tinh. Các từ và các thuật ngữ chuyên biệt và đặc thù không dịch được, cũng như các danh từ riêng, thì họ giữ nguyên tiếng Phạn hay tiếng Pali. Ngày nay người ta thấy rất nhiều từ tiếng Phạn và Pali được dùng thẳng trong kinh sách bằng các ngôn ngữ Tây phương, chẳng hạn như các chữ: Dharma, karma, nirvana, samsara, jhana, metta, ahimsa, bodhisattva, samatha, vipassana, atman, prajna, paramita, sangha, sutra, sutta, v.v.
phật giáo và ngôn ngữ
phật giáo đại thừa
đức phật
tiếng phạn
tiếng pali
TIN LIÊN QUAN