;
Nước ta nửa đầu thế kỷ XX từng có một vị "Đại Bồ Tát bằng xương bằng thịt hiện thực giữa cõi đời". Nhân vật ấy đã đi xa hơn nửa thế kỷ nhưng tên tuổi và sự nghiệp của ông sống mãi với dân tộc, bởi lẽ ông để lại một di sản văn hóa vô giá ngót một trăm tác phẩm. Ông là cư sĩ Thiều Chửu - Nguyễn Hữu Kha.
Đạo Phật cho rằng bất cứ sinh linh nào biết tu tập thì cũng có thể thành Phật, tức bậc giác ngộ. Vị Phật gần dân nhất có lẽ là Quan Thế Âm Bồ Tát. Dân ta quen dùng từ Bô Tát để gọi những người có lòng nhân ái vị tha như trời biển.
Đây là từ Hán Việt gọi tắt của từ gốc chữ Phạn Bodhisattva – ghép bởi bodhi (enlightenment: giác ngộ) và sattva (essence: bản chất; thể tồn tại trừu tượng).
Theo nhà Phật Học Edward Conze, Bồ Tát là vị Phật có ba đặc điểm:
(1) Khao khát đạt được sự giác ngộ hoàn toàn như Phật Tổ;
(2) Giàu lòng từ bi và trí tuệ;
(3) Có mối quan hệ với những người thường và các suy nghĩ, cảm xúc như họ [1].
Với cách hiểu như trên, có thể suy ra trên thế gian từng có và sẽ có không ít vị Bồ Tát thực, chỉ có điều thiên hạ không nhận ra hoặc biết quá ít về họ – vì họ là Bồ Tát mà!
Theo kẻ thiển cận này, nước ta nửa đầu thế kỷ XX từng có một người hội đủ ba đặc điểm nói trên, một vị "Đại Bồ Tát bằng xương bằng thịt hiện thực giữa cõi đời", như lời học giả Lê Mạnh Thát [2].
Nhân vật ấy đã đi xa hơn nửa thế kỷ nhưng tên tuổi và sự nghiệp của ông sống mãi với dân tộc, bởi lẽ ông để lại một di sản văn hóa vô giá ngót một trăm tác phẩm. Ông cũng hãy còn một học trò là Ni sư Thích Đàm Ánh, 85 tuổi, hiện trụ trì chùa Phụng Thánh (Khâm Thiên, Hà Nội).
Vị Bồ Tát ấy là cư sĩ Nguyễn Hữu Kha (1902-1954), quê xóm Cam Đường, làng Trung Tự, phường Đông Tác (nay là địa bàn tổ dân phố 81, phường Kim Liên, quận Đống Đa), Hà Nội.
Giới Phật Tử biết ông dưới bút danh Thiều Chửu – "cái chổi lau" dùng để quét sạch bụi bặm trong lòng mình và mọi thứ rác rưởi trên đời – một cái tên khiêm nhường mà cao cả xiết bao!
Cư sĩ thuộc đời thứ XIV dòng họ Nguyễn Đông Tác có mặt tại thành Thăng Long từ cuối thế kỷ XV. Tổ ba đời ông là Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý (1795-1868), nhà văn hóa nổi tiếng bạn của Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông Phan.
Cha ông là Cử nhân Nguyễn Hữu Cầu (1879-1946), đồng sáng lập viên phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT), từng bị đày ra Côn Đảo nhiều năm vì tội chống Pháp, một "đại sĩ phu" (Une Grande Figure de Lettré), như cách gọi của học giả Nguyễn Văn Tố [3]. Anh ruột ông là giáo sư - nhà sư phạm mẫu mực Nguyễn Hữu Tảo (1900-1966).
Vì sao Nguyễn Hữu Kha không kế tục truyền thống văn nhân ấy mà chọn con đường làm một cư sĩ khổ hạnh suốt đời chỉ lo cứu giúp người cùng khổ? Hãy nhớ lại một câu các Phật Tử hay nhắc tới: "Có một người sinh ra trên thế gian này là vì hạnh phúc của muôn người..." [4]
Cậu bé Hữu Kha bẩm sinh đa sầu đa cảm lại lớn lên dưới ảnh hưởng sâu sắc của bà nội giàu lòng nhân ái và người cha say sưa hoạt động yêu nước chống Pháp. Những đêm cùng anh ruột đun nước pha trà điếu đóm cho các cuộc họp kín của nhóm sĩ phu ĐKNT tại nhà mình, rồi lại được đọc nhiều "Tân thư" và tài liệu cách mạng cha làm ở Ban Tu Thư ĐKNT mang về đã sớm hun đúc trong cậu bé ý chí yêu nước thương nòi và căm ghét thực dân phong kiến đến cực độ.
Ông kể về tuổi thơ của mình: "Nhà nghèo quá, chị em tôi 7-8 tuổi đã phải chăn bò cắt cỏ, gánh nước, thổi cơm nấu cám, 10 tuổi tát nước, 12 tuổi cày bừa. Năm tôi 13 tuổi, bố bị giặc Pháp bắt, được hai tháng thì mẹ sinh con thứ 8. Đẻ được ba ngày mẹ đã phải đi làm đồng. Tôi suốt ngày đứng rình ở cổng nhà pha (tức Hỏa Lò) Hà Nội, hễ thấy bố bị giải sang Tòa án thì chạy theo, bị lũ mật thám đánh rất đau. Tôi căm thù tủi nhục nhưng thân hèn biết làm gì ?
Đọc truyện ông Gia Phú Nhĩ (Garibaldi) thấy ông nói với bạn làm mối vợ cho mình rằng "Ý Đại Lợi là vợ, Ý Đại Lợi là con", từ đó tôi nảy ra ý muốn học ông ở điểm đó... Sau đấy tôi không hề nghĩ tới cái đời riêng của tôi nữa. Người ta cho là tôi tin đạo Phật mà không lập gia đình, họ chưa biết nỗi uẩn khúc của tôi từ thủa còn thơ dại." [5]
Năm 14 tuổi, một lần đi chơi chợ Hà Đông về rẽ vào nghĩa trang thấy khu lăng mộ đồ sộ của Tổng đốc Lê Hoan, kẻ tổ chức vụ hạ sát cụ Đề Thám, Hữu Kha làm bài thơ chữ Hán: "
Thanh thần điếu cửu nguyên
Chủng chủng u tình huyên
Thế thái cạnh phú quý
Nhân tinh xu ngân tiên
Công cừu bái ngạch thượng
Nghĩa vụ phóng tâm biên." [6]
Xin tạm dịch : Tinh mơ qua bãi tha ma/ Âm hồn trăm họ kêu la vang trời/ Bon chen phú quý sự đời/ Lòng người mê mẩn hướng nơi đồng tiền/ Thù chung: trên hết, đưa lên/ Nghĩa vụ: canh cánh không quên trong lòng.
Năm sau, Hữu Kha tụng kinh siêu độ trong lễ tang bà nội, khi đọc đến câu Phật nói "Nhân dân là cha mẹ bao đời của ta, ta phải hiếu kính cúng dàng; muôn vật đều có tính Phật, cũng bình đẳng với ta; ta phải làm cho mọi người đều bình đẳng" cậu bé xúc động thổn thức thề suốt đời theo Phật để cứu khổ cho muôn người.
Quyết tâm ấy càng mạnh hơn sau khi Hữu Kha mục kích cảnh nhục nhã mẹ ông vì cần vay tiền làm vốn cho ông đi bán hàng rong mà phải lễ lạt cho lý trưởng bảo lãnh và chầu chực như kẻ ăn mày: "Tôi thề rằng đời tôi hễ ai thiếu thốn muốn nhờ tôi thì dù họ chưa hé miệng, tôi đã vâng. Tôi còn một bát gạo mà ai đói hơn tôi cũng nhường ngay, thà tôi chịu nhịn" [7].
16 tuổi, Hữu Kha một mình xuống Đồ Sơn bán thuốc Nam và bánh kẹo kiếm sống. Vì tin người nên mất hết vốn, ông phải làm phu kéo thuyền, đẩy xe, thậm chí đi ăn xin. Hai năm trời cực nhục ấy khiến ông ngày càng tin yêu triết lý cứu khổ cứu người của đạo Phật.
Cuối năm 1920, cụ Cử Cầu ra tù, Hữu Kha về giúp cha mở hiệu thuốc Lợi Nhân Đường ở Ngã Tư Sở. Hiệu đông khách nhưng tình thương người bởi thương thân kia đã sâu lắm nên tôi chỉ giấu giếm bố giúp đỡ người nghèo, vì thế 3 năm trời hai bố con chỉ đủ ăn chẳng thừa đồng nào [8].
Bù lại, ông học được nghề thuốc Nam và trở thành vị lương y suốt đời chữa bệnh không công. Ông lấy hiệu Tịnh Liễu (Tịnh: trong sạch, Liễu: hiểu biết), bắt đầu tự học đạo Phật và ngoại ngữ.
19 tuổi, Tịnh Liễu đi nhiều chùa tham thiền vấn đạo, gặp các vị chân tu nổi tiếng như Hòa thượng (HT) Thích Thanh Hanh ở Lạng Giang, HT Thích Thanh Thuyền ở Nam Định, cư sĩ Lê Đình Thám ở Huế… Qua chuyến khảo sát này, ông nhận ra xu hướng suy tàn của Phật Giáo: "Khi đi sâu vào nhà chùa, tôi thấy sự tổ chức ở chùa không đúng một chút nào với lời Phật dạy; trái lại hoàn toàn dập theo khuôn khổ phong kiến chia giai cấp rất khắc nghiệt, hưởng thụ xa xỉ, bỏ mất hẳn cái tinh thần trọng lao động, không theo quy chế ‘Một ngày không làm một ngày nhịn ăn’ của Tổ Bách Trượng.
Lại còn dùng thuật mê tín vẽ ra đàn tràng cúng bái, đục khoét nhân dân để sống một đời nhàn rỗi. Vì thế tôi nhất định không theo chế độ đó; cho tới ngày nay tôi cũng chỉ là một tín đồ tín ngưỡng triết lý mà thôi. Hơn nữa, nếu có dịp, tôi sẽ đánh đổ cái chế độ mục nát ấy. Sau đó tôi theo đuổi việc chấn hưng Phật Giáo" [9].
Qua đây, ta hiểu vì sao Nguyễn Hữu Kha không vào chùa làm sư, mà chỉ làm cư sĩ tu tại gia, suốt đời vừa lao động kiếm sống vừa hoằng dương Phật Pháp. Vị cư sĩ này khác người ở chỗ không vợ con, trường trai mà mỗi ngày chỉ ăn một bữa đúng giờ Ngọ, quanh năm mặc nâu sồng, đi guốc mộc tự đẽo lấy, đêm nằm trên tấm phản kê dưới nền nhà, không màn, mùa rét đắp chiếc chăn sợi mỏng.
Vai trò của cư sĩ Phật Giáo được dân ta ghi nhận trong câu ca "Thứ nhất là tu tại gia..." lưu truyền bao đời nay. Giới cư sĩ từng góp phần quan trọng trong sự hình thành và phát triển Phật Giáo ở Ấn Độ. Trong Ban Trị sự Hội Phật Giáo Bắc Kỳ năm 1934 hầu hết là cư sĩ. Người lãnh đạo Hội Phật Giáo Trung Quốc thời gian 1953-2000 cũng là một cư sĩ – ông Triệu Phác Sơ (1907-2000), một nhà Phật học uyên thâm, nhà thơ nổi tiếng.
Do không mất thì giờ vào các nghi thức tôn giáo ở chùa nên cư sĩ có điều kiện học kiến thức nhiều mặt, nghiên cứu triết lý đạo Phật một cách khách quan, từ nhiều góc độ. Vì sống giữa lòng dân nên họ có cùng suy nghĩ, tình cảm của những người bình thường, trở thành cầu nối giữa Tăng đoàn với nhân dân.
Năm 26 tuổi Nguyễn Hữu Kha lấy bút danh Lạc Khổ (Vui trong cảnh khổ), bắt đầu dịch kinh Phật ra Quốc ngữ, vì ông thấy người ta toàn tụng kinh chữ Hán nên chẳng hiểu gì. Dịch kinh đúng là khổ thật, cực kỳ khó nhọc, phải giỏi cả Hán học, Phật học, nhưng ông quyết làm với suy nghĩ: "Vì kém tinh thần tự lập cho nên ta cứ vùi đầu với kinh chữ Hán, ít người dám dịch kinh sang tiếng ta. Kinh chữ Phạn dịch ra chữ Hán được, thì dịch ra chữ ta cũng được chứ sao! Chữ Quốc ngữ của ta rất dễ phổ biến, dịch âm lại đúng hơn chữ Hán" [10].
Tuyển tập gồm 16 cuốn kinh cơ bản do Thiều Chửu dịch được nhà xuất bản Tôn Giáo in lại năm 2002 là một ghi nhận cố gắng ấy.
Về sau, khi bà chị ruột túng bấn, ông thôi việc hiệu thuốc để giúp chị mưu sinh bằng nghề cho thuê đòn tang. 28 tuổi, ông giúp cậu em họ kiếm sống bằng cách cùng mua một máy in dập chân, thuê nhà số 36 phố Sinh Từ mở hiệu sách Hoà Ký (lấy tên từ phương châm Lục Hoà của Phật).
Hai anh em in ấn, xén giấy, đóng sổ sách, bán sách vở, sống tằn tiện nhưng vẫn cưu mang người gặp khó khăn, trong đó có ông Lưu Văn Lợi (sau là Trưởng ban Biên giới Chính phủ).
Năm 1932 ông tự in tác phẩm của mình là bản dịch “Kinh Vô Thường”; năm 1934 dùng bút danh Thiều Chửu in “Khóa Hư Kinh dịch nghĩa” – bản dịch ra Quốc ngữ tác phẩm “Khóa Hư Lục” nổi tiếng của Trần Thái Tông.
Học giả Nguyễn Lang (tức Thích Nhất Hạnh) nhận xét: "Thiều Chửu là một cây bút rất vững chãi và sâu sắc; căn bản Hán văn của ông rất vững; văn Khóa Hư là văn biền ngẫu rất khó dịch nhưng bản dịch của ông rất đặc sắc, đọc êm tai, nghĩa lý khá rõ ràng" [11].
Thiều Chửu chưa ngày nào được đi học. Thủa bé được bà nội dạy chữ Hán và Quốc ngữ ; sau đó chỉ nhờ công phu tự học mà ông sớm tinh thông Tứ Thư Ngũ Kinh, đến tuổi "tam thập nhi lập" đã thạo dùng tiếng Pháp, tiếng Anh, và đặc biệt am hiểu Hán học, Phật học.
Suốt đời học, lao động chân tay và trí óc, miệng nói tay làm, cho nên việc gì ông cũng giỏi, kể từ cày cấy đến viết lách. Ông dùng thuốc Nam chữa khỏi bệnh cho nhiều người, và viết loạt bài "Bà Lang Nhà" rất thú vị đăng nhiều kỳ trên báo Đuốc Tuệ.
Ni sư Đàm Ánh có câu cửa miệng "Chẳng ai giỏi bằng thầy tôi" và hay kể: ông đỡ đẻ mát tay đến mức nhiều gia đình đến nhờ trước hàng tháng.
Việc viết sách báo mang lại thu nhập cao nhưng ông sống rất khổ hạnh, bao nhiêu tiền kiếm được đều đem nuôi trẻ mồ côi, giúp người nghèo khổ. Hồi đi tản cư kháng chiến, ông dẫn đầu phá rừng trồng khoai sắn nuôi sống cả trại Tế Sinh của mình.
Có thời kỳ "40 người mỗi bữa chỉ có 4 bơ gạo nấu với lá rau khoai lang" thế mà ông kiên quyết trả lại mấy lạng vàng (tiền xuất bản tác phẩm của ông) do Thượng tọa Thích Tố Liên từ Hà Nội gửi ra [12].
Trong sự nghiệp chấn hưng Phật Giáo, Thiều Chửu từng cộng tác với các Phật Tử chân chính. Năm 1933, Sa môn Thích Trí Hải từ Hà Nam lên Hà Nội vận động thành lập Hội Phật Giáo Bắc Kỳ đã đến ngay hiệu Hòa Ký bàn bạc với Nguyễn Hữu Kha.
Hồi ký của HT Thích Trí Hải kể: "Hai người chúng tôi vừa gặp nhau mà tưởng như đã quen nhau từ bao đời… Cuối năm 1933, hàn thử biểu ở Hà Nội xuống tới 7-8 độ mà tôi và ông Kha chỉ đắp chung một cái chăn sợi Nam Định mỏng nằm trên chiếc chiếu trải trên nền nhà phố Sinh Từ".
Hai ông góp công lớn trong việc sáng lập Hội Phật Giáo Bắc Kỳ (1934). Nhưng khi Hội mời vào Ban Trị sự thì Thiều Chửu lại do dự vì thấy Ban này có mấy vị quan cai trị. Sau cùng ông nhận lời với ý nghĩ có thể lợi dụng Hội này để thực hành cái chí đánh đổ chế độ thối nát của nhà chùa [13].
Ông kiến nghị Hội cho lập nhà in; Hội đồng ý và giao ông quản lý nhà in Đuốc Tuệ; ông đem máy in của mình vào làm việc. Biết ông liêm khiết, Hội giao ông phụ trách tài chính của Ban Hưng công chùa Quán Sứ (1938-1942); qua đó ông có đóng góp lớn cho công trình này.
Thiều Chửu trở thành một trong hai cây bút viết nhiều nhất trên cơ quan ngôn luận của Hội là báo Đuốc Tuệ, nhằm tuyên truyền Phật Giáo Nhân gian, phê phán tệ mê tín dị đoan trong Phật sự.
Năm 1943, ông soạn sách “Giải thích truyện Quan Âm Thị Kính” dùng triết lý Phật Học giải thích rất hay và dễ hiểu nội dung truyện. Ông còn coi tập thơ Nôm khuyết danh đó là kinh Phật của Việt Nam. Có tài xuất khẩu thành chương, ông sáng tác miệng nhiều thơ ca, sau này được nhà thơ Đinh Công Vĩ hết lời ca ngợi trong bài “Cư sĩ Thiều Chửu với cả một trời thơ” [14].
Sau ngót 30 năm cầm bút, Thiều Chửu để lại 93 tác phẩm viết và dịch [15]; đầu tiên là “Phép nuôi con” (1926). Đáng kể hơn cả có “Tự điển Hán Việt” xuất bản năm 1942, tái bản hai lần năm 1952 và 1954 tại Sài Gòn, tới nay đã in khoảng 20 lần, rất được hoan nghênh.
Học giả Lê Mạnh Thát nói: "Những người Việt học Hán văn không thể không cúi đầu tri ân công trình văn hóa bất hủ này" [16]. Mới đây một nhóm người Việt ở Pháp biên soạn lại thành “Tự điển Hán Việt Thiều Chửu điện tử” và phổ biến miễn phí trên http://www.viethoc.org.
“Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX” xuất bản năm 1952 – tác phẩm cuối cùng, viết bằng máu và nước mắt như lời học giả Vũ Tuấn Sán [17], thể hiện quan điểm của một Phật Tử chân chính, tiên tiến, yêu nước, kiên quyết vạch mặt một số Tăng sĩ vùng địch chiếm mưu mô thần bí hóa đạo Phật, qua đó làm nhụt tinh thần kháng chiến của dân tộc.
Ông viết về họ như sau: "Người tín ngưỡng Phật Giáo nước ta hạng trên nhất chỉ tu lấy lợi một mình, mặc kệ đời chẳng thèm nhìn tới. Hạng thứ nhì thì mượn cửa chùa làm chốn dung thân dễ dàng qua ngày.
Hạng dưới nữa lấy chùa chiền làm chỗ buôn bán kiếm chác không từ một sự đê hạ nhơ nhớp nào không làm... Sự kiếm tiền bằng cách buôn thần bán Phật làm cho người đời ghê tởm mà phê bình “Miệng Phật tâm xà”, “Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối”... đều là những lời phê bình đúng sự thật." [18].
Sau khi phân tích các nguyên nhân gây ra tình trạng suy đồi đó, ông đề nghị Tăng sĩ phải:
- Đoàn kết lại trong một tổ chức Phật Giáo thống nhất;
- Lao động tự nuôi thân bằng các nghề làm ruộng, công nghệ, giáo dục, y tế;
- Học và thực hành Phật Giáo Nhân Gian;
- Góp tài lực cải thiện đời sống nhân dân.
Sách này ông viết tại chiến khu Việt Bắc và lời lẽ rất gay gắt, thế mà nhà in Đuốc Tuệ ở Hà Nội đang bị Pháp chiếm đóng vẫn dám in và xuất bản ngay, điều đó nói lên sức thu hút nhân tâm của Thiều Chửu.
Vị Bồ Tát ấy chưa một ngày ngừng giúp người nghèo khổ, cơ nhỡ. Từ khi biết thuốc Nam, ông không hề quản ngại khó khăn đêm hôm lặn lội đi khắp nơi chữa bệnh cho bất kỳ ai gọi.
Năm 1936, ông cùng bà Cả Mọc (Hoàng Thị Uyển) đồng sáng lập Hội Tế Sinh và làm Tổng Thư ký Hội. Ban Trị sự toàn người sốt sắng. Ngay năm sau Hội lao vào cứu giúp nạn nhân trận lụt Đinh Sửu.
Ông kể: "Chính vì chung một chí nguyện chịu khổ sở nhọc nhằn để giúp đỡ đồng bào, cả đời không ăn ngon mặc đẹp, không ai có gia đình riêng, nên chúng tôi được nhiều người tin lắm. Rất nghèo mà tiền bao nhiêu cũng có.
Năm 1937, lụt tràn hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang. Ngoài việc góp sức cho cơ quan cứu tế, tôi cùng cụ Cả Mọc còn vận động đi lấy tiền lấy áo; rồi tôi cùng ông Hoàng Đạo Thúy, ông Trần Duy Hưng hàng ngày đem thuốc, tiền, quần áo đi tới từng nhà nạn nhân giúp cho đến khi họ sống được. Khắp hai huyện Quế Dương, Lang Tài, không còn sót mấy nhà mà chúng tôi không tới hàng bốn năm lượt, ròng rã ba tháng như thế cho đến lúc lúa chín." [19].
Sau đợt ấy, Hội trưởng Hội Phật Giáo hai lần bảo ông khai thành tích để làm sớ xin vua Bảo Đại ban phẩm hàm, nhưng ông trả lời: "Tôi chỉ thích làm người bạch đinh thôi... Nếu cứ ép tôi xin phẩm hàm, tôi sẽ lên rừng ở." [20].
Hồi xảy ra nạn đói đầu năm 1945, chiều nào ông và các đồng chí cũng nấu cơm nắm vài trăm nắm nhờ Hướng đạo sinh đem đi dúi vào tay từng người ăn xin; tối tối đốt lửa ở sân chùa Quán Sứ cho họ đến sưởi. Khi người đói nhiều quá, ông nấu cháo phát chẩn; trong 93 ngày liền nấu hết 3 tấn gạo, phát được 38.600 bữa cháo. Sau cùng, người chết đầy đường, ông cùng anh em suốt ngày đi khuân xác về chôn, đổ đồng mỗi ngày ông chôn 15 xác cho tới khi chật hết hai sào đất ở Am Tế Độ, hôi thối sặc sụa khiến ông bị ốm suýt chết...
Có lẽ vì biết ông có tâm và có tài tổ chức cứu tế mà Hồ Chủ Tịch từng mời ông làm Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội trong Chính phủ Cách mạng lâm thời 1945 (nhưng ông khước từ với lý do để tiếp tục làm Phật sự) [21].
Thiểu Chửu suốt đời lo dạy người. Hồi làm hiệu thuốc ở Ngã Tư Sở, hàng tuần ông dành ba buổi tối đến chùa Sở (tức chùa Phúc Khánh) dạy các nhà sư học chữ Hán. Thời gian ở hiệu sách Hòa Ký và nhà in Đuốc Tuệ, tối nào ông cũng dạy chữ Hán, Quốc ngữ, cách trí, sử ký, địa dư cho đồng nghiệp.
Năm 1938 ông cùng học giả Nguyễn Văn Tố và mấy người nữa đồng sáng lập Hội Truyền Bá Quốc Ngữ và hăng hái làm mọi việc Hội phân công. Hồi tản cư kháng chiến, tới đâu ông cũng mở trường dạy chữ cho trẻ em và người lớn; bà con Phúc Yên, Thái Nguyên ngày ấy đều biết ông.
Thiều Chửu còn giảng dạy triết lý Phật học cho nhiều người. Một số học trò ông sau trở thành những vị chân tu uy tín cao như HT Thích Tâm Tịch (Pháp chủ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam), sư Trần Việt Quang sau là đại tá quân đội, Ni sư Đàm Ánh một nhà từ thiện có tiếng.
Phật học là một hệ thống triết lý-tín ngưỡng đồ sộ (riêng Đại Tạng Kinh có 2372 bộ kinh với hơn 70 triệu chữ Hán) nhằm tìm con đường giải thoát nhân loại khỏi mối quan tâm cuối cùng – cái chết.
Người ta thường nghĩ các tôn giáo đều có tính chất thần bí, không hợp với khoa học. Lạ thay, cách đây 62 năm Thiều Chửu từng khẳng định học thuật của nhà Phật có giá trị như khoa học mà lại còn hơn thế nữa [22].
Ông nghiệm ra điều đó từ chỗ thấy Phật Tổ chưa bao giờ thần bí suy tôn một đấng tối cao sáng tạo ra vũ trụ và có khả năng giải thích mọi sự vật. Ông dự đoán: khi khoa học phát triển cao, "các tôn giáo có lập trường thần bí tất sẽ bị đào thải. Thế giới ngày nay không ai không tin khoa học... Lập trường của Phật Giáo trăm phần trăm đúng với cái đích của nhân loại tiến hóa tột bực sẽ tới, lẽ tự nhiên Phật Giáo sẽ không bị đào thải, trái lại càng rực rỡ quang vinh." [23]
Có lẽ ông là một trong số rất ít người cùng thời hiểu được đạo Phật có bản chất khoa học. Ta biết Einstein cũng cho rằng đạo Phật không trái với khoa học, vì thế có thể đóng vai trò "một tôn giáo vũ trụ (a cosmic religion) và nó bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học (It embraces science as well as goes beyond science)".
Einstein còn nói: "Đạo Phật bắt đầu tại nơi khoa học kết thúc (Buddhism begins where Science ends)" [24].
Nhà khoa học Trịnh Xuân Thuận viết: "Đạo Phật không hề nói về một Thượng Đế cá nhân, Đức Phật chưa bao giờ gán cho mình bản thể thần thánh" [25]. Qua đây ta hiểu vì sao Thiều Chửu lại tin đạo Phật đến thế và kịch liệt chống hoạt động mê tín dị đoan của một số tăng sĩ đến thế.
Mặt khác Thiều Chửu lại nhận xét: trong thực tế, vì các Phật Tử ngày nay làm sai hẳn nguyên tắc của Phật nên đạo Phật "nhất định sẽ bị đào thải nếu ta không mau trở lại cái bản lai diện mục của Phật Giáo".
Ông chủ trương hoạt động tín ngưỡng là ở trong tâm mỗi người chứ không nhất thiết phải vào chùa tu hành. Một vài quan điểm của ông thật sự cấp tiến, như chủ trương trả lại chùa cho dân làm trường học, thư viện, nhà dưỡng lão; Tăng sĩ phải lao động tự nuôi mình…
Đặc biệt, tư tưởng Phật Giáo Nhân Dân của ông rất đáng để nghiên cứu, áp dụng. Nhà văn Nguyên Ngọc nhận xét: Thiều Chửu theo đạo Phật với động cơ vì dân; ông viết bằng chữ hoa câu “Phải tận hiếu với nhân dân. Nhân dân là cha mẹ bao kiếp, là chư Phật vị lai” ngay trang đầu sách “Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX”; ông coi nhân dân là lực lượng duy nhất có thể cải tạo thứ Phật Giáo đã bị tha hóa, và họ chỉ có thể làm được việc đó khi Tăng sĩ trả chùa cho dân.
Nhà văn Nguyên Ngọc trân trọng viết: "Ngày nay nhìn lại, thật đáng kinh ngạc về tư tưởng sâu sắc và mạnh mẽ đến dường ấy của ông về nhân dân. Đó là một tư tưởng xã hội có tầm cao rất đáng để chúng ta chiêm nghiệm... Tính thời sự của nó hầu như vẫn còn nguyên" [26].
Học giả Vũ Khiêu đánh giá Thiều Chửu là một con người chân chính, một nhà trí thức lớn của dân tộc, và kính tặng đôi câu đối "Nửa kiếp trầm luân, bác cổ thông kim, lòng bốn bể; Trăm năm phù thế, cứu dân báo quốc, phép muôn đời".
Học giả Vũ Tuấn Sán nhận định Thiều Chửu "là một hiện tượng khá đặc biệt trong giới trí thức ở thế kỷ XX, một người sống cuộc đời thanh cao, hoàn toàn vì lý tưởng".
Tiến sĩ Nguyễn Quốc Tuấn (Viện Nghiên cứu Tôn giáo Việt Nam) viết "Thiều Chửu là nhân vật Phật giáo xuất chúng thế kỷ XX".
Đại đức Thích Đồng Bổn ca ngợi ông là "bậc Nho sĩ, Đại sĩ, Chí sĩ, rạng danh Tiết sĩ". Sách “Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX" tập I viết: Thiều Chửu là "một Phật Tử xứng đáng tiêu biểu cho hàng cư sĩ trong đạo Phật có công lớn trong lịch sử chấn hưng Phật Giáo miền Bắc" [27].
Tiếc thay, do sai lầm của đội cải cách ruộng đất ấp Đồng Tâm, xã Đồng Liên, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên (nơi ông và đoàn Tế Sinh tạm trú), vị Bồ Tát Sống ấy bị quy là địa chủ và bị đội "xỉa xói mắng nhiếc luôn ba bốn giờ, vu cho đủ các tội ác, dùng những lời nói rất khinh bỉ hà khắc, chỉ khác với đấu tố là chưa phải quỳ thôi" [28].
Một tháng sau, rạng sáng ngày 15 tháng 7 năm 1954 tức 16 tháng 6 Giáp Ngọ (một ngày sau giỗ cụ Cử Cầu và 12 ngày trước hôm ký Hiệp định Geneva), Thiểu Chửu bí mật tự giải thoát đời mình trên sông Cầu chỗ đập Thác Huống.
Cái chết “Thiên cổ kỳ oan”, vì nước vì dân, không oán hận, không cầu minh oan, chỉ có Bồ Tát mới làm được ấy" (lời học giả Lê Mạnh Thát) [29] đã gây ra nỗi chấn động và tiếc thương vô hạn trong dân chúng địa phương và giới Phật Tử cả nước.
Ít lâu sau, đội cải cách hạ thành phần ông xuống trung nông; nhưng ở cái thời kỳ ngạt thở “Nhất Đội nhì Trời”, vụ tự vẫn kinh hoàng đó đã bị lợi dụng để phủ bóng đen lên quá khứ sáng ngời của ông, vì thế không ai dám nhắc đến ông nữa. Tới đầu thế kỷ XXI vẫn có người còn ngại minh oan cho Thiều Chửu!
Ni sư Đàm Ánh kể Thiều Chửu có dặn đừng vớt xác ông, nhưng các hậu duệ và học trò không ai lại làm thế. Sau hòa bình lập lại, họ rước hài cốt ông về Hà Nội, cuối cùng an táng tại nghĩa trang Thanh Tước (số mộ 170-C3). Tháng 6 năm 2002, các hậu duệ ông cùng Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và tạp chí Tia Sáng (Bộ Khoa học Công nghệ) đã tổ chức “Sinh hoạt lịch sử tưởng niệm 100 năm sinh nhà văn hóa Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha” tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội.
Trước khi về với tổ tiên, Thiều Chửu thức trắng đêm viết thư tuyệt mệnh gửi Hồ Chủ Tịch, thư dặn dò các học trò mình phấn đấu theo Kháng chiến chống Pháp đến cùng, và viết lời kết bản Tự Bạch (cũng gửi Hồ Chủ Tịch) như sau: "Cái án “mạc tu hữu” (tức vu cáo, ông viết chữ Nho) mà ông Nhạc Phi phải chịu đời phong kiến còn có lẽ; ai ngờ đời nay chính bản thân tôi lại bị, thì tôi còn biết van vỉ làm sao được nữa".