;
Để tưởng niệm ngày Viên tịch lần thứ 21 cố Hòa thượng Thích Thiện Minh. - Nguyên Thành viên Hội đồng Trị sự Trung Ương GHPGVN. - Nguyên Trưởng ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Đồng Tháp. -Nguyên Trụ trì Linh Quang Tự, Thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Một trong những vị Hòa thượng Luật sư cuối thế kỷ 20, của Phật giáo tỉnh Đồng Tháp.
Tiểu sử
Hòa thượng Thích Thiện Minh
(1920
– 1992)
Hòa thượng thuộc
dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 40, pháp húy Thục Hải, hiệu Thiện Minh. Tục danh
Phạm Văn Giáo, sinh năm Canh Thân (1920) niên hiệu Khải Định năm thứ 5, tại tỉnh
Vĩnh Long, nay thuộc xã Tân Dương, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
Thân phụ là cụ
ông Phạm Văn Khuê, hiền mẫu là cụ bà Lê Thị Tỵ. Nhị vị Phật gia đều phúc hậu,
kính tin Tam Bảo. Ngài là con thứ 3 trong gia đình 7 anh chị em.
Năm Giáp Tuất
(1934) niên hiệu Bảo Đại năm thứ 10, vì hoàn cảnh loạn lạc bởi vùng xôi đậu chiến
tranh, nên Ngài đành phải nghỉ học để phụ giúp việc gia đình và thủ hiếu với
song thân.
Sau khi ổn định
gia đình, Ngài tìm đến Sư cụ Thiện Tồn để học Đông Y Nam dược và từ đó cùng Sư
Viên Phước (ông Đạo Ba) say mê trong việc phục vụ từ thiện xã hội qua ngành Y tế.
Năm Nhâm Thìn
(1952), nhận thức được lý tưởng cuộc sống, thấu triệt lẽ sinh diệt vô thường,
Ngài hiểu rằng chỉ có con đường Phật pháp mới thật sự giải quyết vấn đề sinh tử
luân hồi, chấm dứt mọi khổ đau, đem lại sự an lạc hạnh phúc hiện tại, Ngài quyết
chí ly trần thoát tục. Được Hòa thượng Thích Quảng Hiếu hiệu Thiện Tồn nhận làm
đệ tử, truyền Tam quy y, Ngũ giới, ban cho pháp danh Thục Hải hiệu Thiện
Minh, trở thành tịnh nhân tập tu hạnh xuất
gia, và được làm thị giả hầu thầy Bổn sư
tại Đức Long Cổ Tự nơi quê nhà. Từ đây :
Thân
vun bồi nơi đất Bồ Đề;
Tâm
vững trụ tại rừng Bát Nhã.
Sau ba năm trau
giồi giới hạnh chốn thiền môn, trở thành trang thích tử xuất gia. Ngài được
chính thức thọ giới Sa Di tại Bổn tự Đức Long do Hòa thượng Bổn sư Thích Thiện
Tồn đương vi Đàn đầu Hòa thượng, từ đây Ngài tinh chuyên học giới luật và nổi
tiếng gìn phạm hạnh, giữ oai nghi.
Năm Nhâm Dần
(1962) Ngài được Bổn sư Hòa thượng cho phép đăng đàn thọ cụ túc giới tại Sắc tứ
Hội Long cổ tự, tỉnh Long An, do lão Hòa thượng Thích Hoằng Đức đương vi Đàn đầu
Hòa thượng.
Thanh tịnh pháp
y thọ nhận, hạnh nguyện Bồ tát thừa hành, Ngài chuyên tinh giới luật, lấy Ba la
đề mộc xoa làm thọ mạng, kim chỉ nam cho
cuộc sống tu hành.
Để tăng trưởng đạo
lực và vun bồi phước huệ, nhị nghiêm thân, thừa hành Phật sự. Ngài An cư nhập
chúng tu học các nơi như : Chùa Giác Long, nay thuộc xã Tân Khánh Đông, Thị xã
Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Chùa Pháp Hội, Linh Sơn Cổ Tự , Chùa Giác Sanh, Sài Gòn
(nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Chùa Hội Long, Chùa Hoằng Khai, Chùa Hàn Lâm,
Chùa Hưng Phú, tỉnh Long An . . . nhập chúng An cư nơi đâu, Ngài luôn luôn
khiêm cung, giữ lục hòa kỉnh pháp, giới đức kiêm ưu trang nghiêm đạo hạnh, nên
được pháp lữ kính mến, bậc Tôn túc tin yêu.
Trãi bao năm tháng
đó đây tu học, tích lũy nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức lãnh đạo, an
chúng. Ngài dừng chân trụ trì Linh Quang tự, nay thuộc Phường An Hòa, thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp, tiếp
tăng độ chúng và mở phòng Đông Y Nam dược từ thiện, chăm sóc sức khỏe miễn phí
cho đồng bào địa phương. Góp phần duy trì và phát triển nền Y học dân tộc cổ
truyền. Đối với Phật sự Giáo hội; Ngài lần
lược được cung thỉnh đảm trách các chức vụ trong Tỉnh hội Phật giáo như :
Năm Quý Sửu
(1973) Ngài đảm trách chức vụ đặc ủy
Tăng sự GHPGTN tỉnh Sa Đéc.
Sau khi miền Nam
hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, hòa nhịp trong giai đoạn hòa bình độc
lập, Bắc Nam sum họp một nhà, Phật giáo nước ta một lần nữa tổ chức đại hội Phật
giáo toàn quốc tại thủ đô Hà Nội vào mùa Đông năm Tân Dậu (1981), thành lập Giáo
Hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) và khi tỉnh nhà chánh thức thành lập tỉnh hội
Phật Giáo Đồng Tháp nhiệm kỳ I (1982 – 1987) Ngài được cung thỉnh vào Ban Trị sự
tỉnh với chức vụ Ủy viên Giáo dục Tăng Ni.
Mùa an cư tại
Phước Hưng cổ tự năm này, Ngài được cung thỉnh chức Thiền chủ và sau đó khai Đàn
truyền giới, Ngài đương vi Giáo thọ A Xà Lê (đàn giới này thượng tọa Thích Tâm
Hòa hiện ở Canada đậu thủ khoa giới phẩm Tỳ kheo).
Năm Quý Hợi
(1983) Ngài trùng tu Đức Long cổ tự, xã Tân Dương, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng
Tháp. Trùng tu Chùa Linh Phước xã Tân Khánh Đông, thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng
Tháp.
Năm Bính Dần
(1986) bắt đầu trùng tu và phát triển Bổn tự Linh Quang cho đến cuối đời.
Năm Đinh Mão
(1987) Nhiệm kỳ II Ban Trị sự, đại hội
Phật giáo tỉnh Đồng Tháp cung thỉnh Ngài lên ngôi Phó ban Trị sự kiêm Ủy viên
hướng dẫn Nam Nữ cư sĩ Phật tử.
Năm Mậu Thìn
(1988) Đại giới đàn Vĩnh Đạt do Ban Trị sự tỉnh hội Phật giáo Đồng Tháp tổ chức
tại Phước Hưng cổ tự, Thị xã Sa Đéc. Ngài được cung thỉnh đương vi Yết Ma A Xà
Lê tuyền giới cho hơn 200 giới tử.
Năm Canh Ngọ
(1990) sau khi Hòa thượng Thích Huệ Phát, Trưởng Ban Trị sự Tỉnh hội viên tịch,
Ngài lên đảm trách Quyền Trưởng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Đồng Tháp.
Năm Tân Mùi
(1991) Đại hội Phật giáo tỉnh Đồng Tháp nhiệm kỳ II, Ngài được suy tôn ngôi Trưởng
Ban Trị sự. Mùa Hạ an cư năm này tổ chức tại Linh Quang tự do Ngài làm chủ
Hương, Hòa thượng Thích Minh Tấn đương vi Thiền chủ, cho hàng trăm chư tăng tu
học. Mùa Thu năm này Đại giới đàn Vĩnh Đạt tổ chức tại Phước Hưng cổ tự vào dịp
lễ Tưởng niệm ngày viên tịch lần thứ 4 cố đại lão Hòa thượng Thích Vĩnh Đạt,
nguyên Trưởng Ban Trị sự Tỉnh hội Đồng Tháp nhiệm kỳ I, vào ngày rằm tháng 9 Âl
(22.10.1991), Ngài được cung thỉnh đương vi Đàn đầu Hòa thượng truyền giới cho
hơn 200 giới tử.
Với trách nhiệm Trưởng Thủy thủ lèo lái con thuyền Phật giáo tỉnh Đồng Tháp,
Ngài cố gắng hết sức mình chuyển tải những chất liệu xúc tác, để tiếp tục xây dựng
nền tảng cho tương lai ngôi nhà Phật giáo như những Phật sự :
Quan tâm khuyến
học đối với Tăng Ni Phật tử, nâng cao
trình độ để phục vụ Đạo pháp – Dân tộc. Với nguyện vọng đó; Ngài chỉ đạo cho
các Ban đại diện Huyện, Thị trong tỉnh cố gắng nhân rộng các lớp giáo lý, mở đạo
tràng truyền Bát Quan trai cho Phật tử tại gia, tu một ngày an lạc trong môi
trường xuất gia, khuyến khích Phật tử thọ Bồ tát giới tại gia nhằm phát huy Đại
thừa Bồ tát đạo, đặc biệt là trước khi mở trường Cơ bản Phật học thì Ngài đích
thân góp phần cùng Tổ đình Phước Hưng lo xây dựng Tăng xá và tự tay Ngài làm
dưa muối để cải thiện bữa ăn cho Tăng sinh suốt một khóa 4 năm. Ngài không
thích ăn sang mặc đẹp; trong cuộc sống
thường nhật Ngài luôn thể hiện Tri túc để trang nghiêm cho phong cách an lạc
thanh nhàn, ít nói để thanh tịnh tâm niệm Phật, thật xứng danh là bậc “ĐẠO HẠNH
KHẢ PHONG” , Ngài thường dự vào hàng Tam sư, Thất chứng truyền trao giới pháp,
làm Chứng minh đạo sư, Tuyên Luật sư, Thiền chủ tại các khóa An cư kiết Hạ trong và ngoài tỉnh.
Đối với xã hội,
Ngài là bậc mô phạm mẫu mực để tiêu biểu cho một công dân tốt, khiến giới quan
chức địa phương vô cùng kính mến và hàng vạn người xin quy y làm đệ tử. Ngài vận
dụng Y phương minh, hưng khởi đại Bi Tâm, dùng Từ nguyện lực, chia sẻ với tha
nhân. Xem mạch bốc thuốc, châm cứu là điều ứng dụng Y phương minh giúp bệnh
nhân tứ đại điều hòa, thân khỏe mạnh,
dùng 37 phẩm Trợ Đạo và pháp môn Tịnh độ để giúp mọi người tự trị liệu,
chuyển hóa nội tâm bởi nghiệp chướng ưu phiền, biến khí tam độc tham, sân, si
thành hương Giới, Định Huệ. (Bút tích Ngài ghi : “Suốt chín năm khổ hạnh, kết
duyên pháp lữ với Sư Viên Phước học Đông Y Nam Dược chẳng kể gian lao, không
nài sự khó nhọc . . . xuống ghe thả trôi
theo dòng Sa Giang đó đây trên sông nước, bềnh bồng cùng Lục bình trôi giạt khắp
nơi; khi xuống Nha Mân, lúc về Sa Đéc, rồi đến Câu Lân, sau đó về mở phòng thuốc
tại Bổn tự Linh Quang và Linh Phước, nay thuộc xã Tân Khánh Đông, thị xã Sa Đéc
. . “ . Lúc rảnh thì quảy đãy đi khắp chốn, để tìm kiếm Nam dược như các nơi :
Vùng thất sơn, Châu Đốc, núi Chứa Chan, huyện Long Khánh, tỉnh Đồng Nai; Hòn
Tre, Hòn Nghệ, Kiên Giang; Núi Thị Vải, Núi Dinh, Núi Minh Đạm, tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu . . .
Đương thời Ngài
nổi tiếng Phạm hạnh thanh tịnh, trì Giới tinh nghiêm. Suốt đời Ngài dùng thân tứ
đại phụng đạo giúp đời, bồi công tích đức với lập trường và quan niệm :“Thanh tịnh
là đạo thứ nhất, giải thoát là pháp tối thượng, trí tuệ là sự nghiệp duy nhất của
người xuất gia thừa hành Bồ tát đạo”.
Ngài còn là tấm
gương sáng về đức hiếu học, khi tuổi cao đức trọng, sức khỏe suy yếu mà Ngài vẫn
khiêm cung để hạ mình ôn nghe lại giáo lý, dù đó chỉ là một tân Tỳ Kheo trẻ, một
chú Sa Di hay chính học trò của mình đang tập thuyết pháp. Ngài đã hiện thân
trí tuệ và dùng trí tuệ để hiển thị công hạnh giới đức bậc thầy để giáo dục hậu
lai :
Như
đóa hoa tươi sắc diễm kiều,
Tỏa
hương bát ngát đượm tin yêu,
Khéo
làm lợi ích cho muôn loại;
Hoa
trái trong ta những sớm chiều.
Duyên Ta Bà quả
mãn, thuận thế vô thường, Ngài hiện thân chút bệnh duyên, di chúc đệ tử Thích Thiện
Hảo người kế thừa sự nghiệp trụ trì Linh quang Tự, Thích nữ Như Bích trụ trì Đức
Long cổ tự, Thích nữ Như Hương Trụ trì Linh Phước Tự và cảnh sách môn đồ pháp
quyến xong, Ngài an nhiên thu thần thị tịch tại Bổn tự Linh Quang, vào lúc 23
giờ 45 phút ngày 14 tháng 03 năm Nhâm Thân (16-04-1992).
Hưởng thọ 73
Xuân. Giới lạp 31 Hạ.
Nhục thân Ngài
được an trí trong Tháp khuôn viên Bổn tự.
Thích Vân Phong kính biên tập