;
Dẫn nhập:
Phật giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
Chặng đường lịch sử này đã cất cao tiếng nói hòa bình cho loài người trên thế giới biết: chỉ có tình thương và công lý, nhân bản và vị tha, khoan dung và lẽ phải mới tồn tại trong lòng người, trong sức sống mẫn tiệp, kiêu hùng trong trái tim nồng hậu của tất cả mọi người trên mặt đất.
Còn bạo tàn và thù hận, bán đứng lương tri và phi dân tộc thì chẳng bao giờ tồn tại và sống với dân tộc ngàn năm. Từ những giá trị thực hữu ấy, con đường đi của Phật giáo Việt Nam được trang bị bằng lòng Từ bi – ban vui cứu khổ, bằng tinh thần đại hùng, đại lực, không tàn phá, hủy diệt bất cứ một ai.
Hùng là tiếng hống của sư tử vượt lên trên tất cả hình ảnh của thế gian. Lực là sức mạnh xô ngã hết tất cả mọi cái ác, bất thiện để dựng lại cái lành, cái tốt trong tâm thức của con người.
Đọc qua những trang sử oai hùng ấy, trang sử của thời pháp nạn năm 1963, chúng ta nghiêng mình cảm phục sự hy sinh cao cả. Sự hy sinh bằng thân mạng của con người.
Sự hy sinh sức sống của mình để nuôi dưỡng sức sống cho kẻ khác. Sự hy sinh này có thân mạng của các bậc Tôn túc nơi chốn Thiền Môn; có thân mạng của những người Phật tử hộ pháp, thương đạo, mến đời luôn có trái tim và tấm lòng phụng sự; có thân mạng của các em thiếu nhi son trẻ đã nằm xuống vì cái ác của cường quyền, vì sự hận thù của nhóm người ngoại lai.
Chúng ta bình tâm đọc lại những trang lịch sử ấy, Phật giáo Việt Nam đã thể hiện đúng tinh thần xả kỷ vị tha, luôn vun quén, tưới tẩm sức sống cho người khác, dù bản thân có phải hy sinh thì vẫn luôn cầu nguyện cho mọi người luôn bình an và hạnh phúc.
Phật giáo Việt Nam không chủ trương lấy một sức mạnh này để đối kháng lại một sức mạnh khác mà luôn thể hiện tính chân lý, chân thật cho những thế lực đối kháng ý thức mà hóa giải những ý thức mang tính xung đột của ý thức hệ. Nơi đây, Phật Giáo Việt
Nam đã đi suốt chặng đường lịch sử ấy, và hoàn thành trách nhiệm, bổn phận của mình qua chặng đường pháp nạn thời bấy giờ một cách bất khuất, kiêu hùng trong ý nghĩa tự tồn của đạo pháp quê hương.
Ngang qua chặng đường lịch sử nhiều thăng trầm, vinh nhục này, chúng ta nhất tâm thắp nén hương lòng thành kính đảnh lễ giác linh cố Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, để ôn lại hành trạng của một bậc Tôn túc mà suốt nhiều thập niên trong thời gian ấy Hòa thượng đã hóa thân, thị hiện nơi chốn Thiền môn – Cố đô Huế để làm bậc thạch trụ Sơn Môn, Tòng Lâm, Phạm Vũ giữ gìn giềng mối đạo.
Hòa thượng đã chống gậy cùng Chư tôn Hòa thượng Từ Hiếu, Thuyền Tôn, Tây Thiên, Linh Mụ... xuống đường đề đòi hỏi công lý và bình đẳng tín ngưỡng, tạo dựng một nền hòa bình chân chánh cho dân tộc quê hương. Và đây hành trạng của Hòa thượng, chúng ta kính thành chiêm vọng.
II. Thân thế gia đình:
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Văn Kính, sanh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão, nhằm ngày 17 tháng 12 năm 1891, tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Ngày nay là thôn Dưỡng Mong, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Thân phụ của Hòa Thượng là cụ ông Nguyễn Văn Toán, cụ bà là Tôn Nữ Thị Lý và người anh là Hòa thượng Trừng Hương - Tịnh Hạnh. Hòa thượng là con thứ hai trong gia đình. Theo Văn Bia nơi bảo tháp, do Hòa thượng Trí Quang cẩn soạn: “Bấy giờ ông bà cầu Bạch Đại Sĩ, tuổi già bóng xế mới sinh tiếp nhau hai con trai. Đại sư là con thứ hai. Lúc song thân cầu đảo Đại Sĩ, nguyện rằng có con thì cho ngay làm Phật tử.” Do vậy, sau khi ra đời, lớn lên nhờ túc duyên với Phật pháp mà Hòa Thượng đã sớm xuất gia đầu Phật.
III. Xuất gia cầu đạo.
Năm 1906, 15 tuổi, được cha mẹ khuyến khích đi tu, nhờ vậy, Hòa Thượng đem lòng ngưỡng mộ, tỏ chí xuất trần, phát khởi sơ tâm của người học Phật, Hòa thượng đảnh lễ Hòa thượng Thanh Thái Phước Chi (1858 - 1921), Đệ tam Tổ Trụ trì chùa Tường Vân cầu xin học đạo. Nhìn thấy thân tâm thành thiết, uy tướng hiển bày nên được Tổ thâu nhận.
Chân dung Đức Tăng thống, tranh sơn dầu của Chơn Thuần
Và từ đây, Hòa thượng đã nhất mực để tâm học hỏi Kinh, Luật, Luận. Chẳng bao lâu, Hòa Thượng đã làu thông kinh điển, biểu tỏ trí tánh làu làu của bậc xuất trần ly dục. Nhờ công huân tu tập, nhờ chí nguyện siêng năng nên chẳng bao lâu Hòa Thượng Bổn Sư cho thọ Sa Di giới và đặt pháp danh là Trừng Thông, pháp tự là Chơn Thường, đời thứ 42 dòng Thiền Lâm Tế.
Năm 1910, 19 tuổi được thọ Tỳ Kheo Bồ Tát giới tại Giới Đàn Chùa Phước Lâm, Hội An, tỉnh Quảng Nam, ngày mồng 8 tháng 3 năm Canh Tuất (nhằm ngày 17/4/1910) do Ngài Ấn Bổn Vĩnh Gia làm Đàn Đầu Hòa Thượng. Hòa thượng Thanh Minh Tâm Truyền làm Yết Ma, Hòa Thượng Hoằng Phú làm Giáo Thọ. Trong giới đàn này cũng có chư vị Hòa Thượng cùng thọ giới như: Hòa Thượng Trừng Thành Giác Tiên, Hòa Thượng Trừng Huệ Giác Viên, Hòa thượng Trừng Hưng Tịnh Hạnh, Hòa thượng Trừng Thanh Giác Bổn, Hòa thượng Tâm Cảnh Giác Hạnh...
Năm 1917, 26 tuổi, Hòa Thượng được cung thỉnh về trụ trì Chùa Phước Huệ thuộc thôn Vỹ Dạ, huyện Phú Vang, Thừa Thiên. Suốt trong thời gian này, Hòa Thượng vẫn tiếp tục tu tập hành trì Giới – Định – Huệ; đến năm Canh Thân, 1920, Hòa Thượng đắc pháp, được bổn sư ban pháp hiệu là Tịnh Khiết và phú pháp bài kệ như sau:
Trừng Thông tâm pháp bản đồng nhiên Phó nhữ Chơn Thường đạo chí kiên Phi hữu phi vô phi sở kiến
Tịch nhiên khai ngộ chủ nhân tiền.
IV. Con đường hoằng truyền chánh pháp:
Để kiến lập giới đàn, chọn người làm Phật, năm 1924, Hòa Thượng cùng các bậc Tôn Túc: Hòa Thượng Trừng Thành Giác Tiên, Trừng Thủy Giác Nhiên, Trừng Hương Tịnh Hạnh trong ban kiến đàn để cho các giới tử thời ấy thọ giới.
Trong số này có Hòa thượng Trừng Nguyên Đôn Hậu thọ giới, Ngài nói trong tập Hồi Ký “Trên Những Chặng Đường” như sau: “Hòa thượng Tịnh Khiết là một trong bốn vị dẫn thỉnh cho tôi được thọ Đại giới.”
Năm 1933, Hòa thượng Trừng Hương Tịnh Hạnh viên tịch, Hòa Thượng kế thế ngôi vị trụ trì chùa Tường Vân.
Năm 1935, Hòa thượng thân lâm làm Giáo Thọ Sư cho Lớp Trung Đẳng Phật Học tại Chùa Tường Vân sau sát nhập vào Phật Học Đường Tây Thiên.
Năm 1938, Hòa thượng Chứng minh Đạo sư cho An Nam Phật Học Hội. Cũng trong thời gian này, Hòa Thượng gặp gỡ và kết thân với cụ Sào Nam Phan Bội Châu. Trong tình thân giao ấy, cụ Phan Bội Châu đã thấy được phần nào tánh đức tu hành của Hòa Thượng mà cảm kích viết nên lời thơ kính tặng:
Tiến thân chúng xuất tự bồng lai
Di hướng Bồ Đề viện lý tài
Tố nhụy quang tranh đông dạ tuyết
Kỳ phương phẩm đoạt lãnh đầu mai Hương chân phương giá thiên thùy thướng Trang ti thường nga nguyệt ám xai
Dung Phật tùng lai năng thức Phật Ân cần huệ ngã thứ hoa khai.
Năm 1940, Hòa Thượng được cung thỉnh làm Giáo Đốc Viện Cao Đẳng Phật Học Báo Quốc - Huế.
Năm 1944, Viện Cao Đẳng này kết thúc chương trình và dời lên Đại Tòng Lâm Kim Sơn ở thôn Lưu Bảo, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên. Tham học nơi Viện Cao Đẳng này gồm có chư vị Tôn Túc như Hòa Thượng Trí Quang, Thiện Siêu, Thiện Minh, Trí Tịnh, Trí Thành, Trí Thuyên, Thiện Hoa, Hành Trụ...
Năm 1947, đất nước chuyển mình sang giai đoạn lịch sử mới, từ đó chư Tôn Đức nhận thấy muốn giữ gìn giềng mối sinh hoạt của Thiền Môn, cũng như quy củ của sự tu hành để thích hợp với thời đại thì phải có những bậc Tăng già đầy uy đức, mực thước để lãnh đạo tinh thần làm ngọn đèn hướng đạo trong thời cuộc biến động. Do vậy, toàn thể chư Tăng trong “Sơn Môn Tăng Già Trung Việt” đã nhất tâm cung thỉnh Hòa Thượng lên ngôi vị “Tòng Lâm Pháp Chủ Trung Việt.”
Trong suốt thời gian này, 1947-1951, trong ngôi vị Pháp chủ Hòa Thượng đã thân lâm trong mọi Phật sự cùng với An Nam Phật Học Hội – Xiển dương chánh pháp, đào tạo Tăng tài và thiết lập địa bàn hoạt động cho đoàn thể thanh thiếu niên GĐPT trên khắp 17 tỉnh miền Trung.
Năm 1949, Hòa thượng làm Đàn Đầu Giới Đàn Hộ Quốc Chùa Báo Quốc - Huế. Trong Giới Đàn này có chư vị giới tử thọ giới sau này đã lãnh đạo Giáo hội Thống Nhất qua các khúc quanh lịch sử của đất nước. Hòa thượng Tâm Thị Thiện Minh (1922- 1978), Tâm Huệ Thanh Trí (1919-1984), Nguyên Tánh Đức Tâm (1928-1988), Tâm Phật Thiện Siêu (1921-2001), Nguyên Cao Mãn Giác (1929-2006)...
Chân dung Ngài vào thập niên 1930
Năm 1951, Hòa thượng chứng minh và Chủ tọa Hội Nghị thành lập Giáo Hội Tăng Già Trung Việt tại chùa Linh Quang - Huế. Đồng chứng minh cho “Hội Nghị Phật Giáo toàn quốc Việt Nam, được tổ chức tại Chùa Từ Đàm từ ngày 6-9 tháng 5 năm 1951. Cũng trong năm này, Hòa Thượng đã chứng minh cho việc vận động và thành lập “Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.” Để tùy duyên trên con đường hoằng pháp mà cũng là thể nhập định vị của mình qua các trào lưu thời sự lúc bấy giờ.
Đạo Dụ số 10 đã ra đời và thể hiện sự bất công tín ngưỡng tôn giáo, vì vậy, Chư Tôn Đức Tăng Già mở Hội Nghị và suy tôn Hòa Thượng lên ngôi vị “Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.”
Trong suốt thời gian làm Hội Chủ Tổng Hội, Hòa Thượng đã chứng minh Hội Nghị thành lập Giáo Hội Tăng Già Việt Nam tại Chùa Quán Sứ - Hà Nội. Suy Tôn Hòa Thượng Tuệ Tạng lên ngôi vị Thượng Thủ. Chứng minh lễ Suy Tôn Hòa Thượng Thiện Hải Huệ Quang lên ngôi vị Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.
Năm 1956, Hòa Thượng cùng Hòa Thượng Phó Hội Chủ Thiện Hải Huệ Quang hướng dẫn phái đoàn Phật Giáo Việt Nam tham dự Hội Nghị Phật Giáo Thế Giới Lần Thứ IV tại Nepal, trở về thủ đô New Delhi tham dự Hội Nghị Văn Hóa Thế Giới và chiêm bái Phật tích Ấn Độ. Nhân đây, Hòa Thượng đã cảm tác bài thơ:
“Đạp tuyết phong vân quá hải hà Du du hốt kiến lâu đài đa
Bảo tháp thất tuần kim tú lệ
Bồ đề thiên trượng ngọc bích hoa
Cảnh tối thâm u tần đáo tự
Duy thường ái tịch niệm Thích Ca Nhân duyên Bồ Tát khai phương tiện Nhiếp tận chúng sanh lễ Phật Đà.”
Trong ngôi vị Hội Chủ của nhiều nhiệm kỳ, Hòa Thượng đã đồng hành với Chư tăng lãnh đạo thực thi Phật sự qua những chặng đường lịch sử gay go, đứng trước tình hình nghiêm trọng, Hòa Thượng đã ký hai văn thư gởi cho Tổng thống Ngô Đình Diệm và cho Quốc Hội vào ngày 2 tháng 2 năm 1962, nhằm biểu tỏ sự khuyến cáo chính thức trước sự khủng bố Phật giáo qua các tỉnh miền Trung Trung Việt. Hòa Thượng nói: “Tôi muốn tránh cho lịch sử dân tộc một chấm đen, đồng thời muốn ngăn ngừa một tai họa cho quốc gia, khi mà hàng Phật tử thấy cần bảo vệ đúng mức tôn giáo của mình.”
Nhưng, những lời khuyến cáo một cách chân thành và biểu tỏ tấm lòng thuần hậu để bảo tồn tinh thần quốc gia dân tộc Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã không nghe mà còn tiếp tục khủng bố, đàn áp dân chúng Phật tử, cuối cùng đưa tới công cuộc đấu tranh bảo vệ ngọn cờ cho tự do tín ngưỡng.
Chân dung Ngài năm 1950
Bản Tuyên Ngôn 5 điểm của Năm Cấp Trị Sự lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam được long trọng tuyên bố tại chùa Từ Đàm – Huế, ngày 10 tháng 5 năm 1963 và chính thức cho công cuộc tranh đấu pháp nạn năm 1963.
Trong thời kỳ pháp nạn này, dù đã 72 tuổi nhưng Hòa Thượng vẫn dấn thân tranh đấu cho tiếng nói lương tri, cho tự do bình đẳng, cho tôn giáo tín ngưỡng không mỏi mệt. Dù bị bạo quyền đánh đập, tra tấn, tù đày, nhưng Hòa thượng vẫn đồng cam cộng khổ với chư Tôn Đức Tăng Ni, Phật tử cho đến ngày pháp nạn không còn. (Xin đọc Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử, của Quốc Oai, Kiêm Đạt sẽ rõ hơn)
V. Thành lập Giáo hội Thống nhất - Đăng lâm Pháp tịch Tăng thống.
Ngày 4 tháng 1 năm 1964, Hội Nghị của 11 Giáo phái và Hội Đoàn Phật giáo miền Nam Việt Nam đã được tổ chức tại Chùa Xá Lợi, Sài Gòn, Đại Hội đã nhất tâm thành lập GHPGVNTN, suy tôn Hòa thượng Thích Tịnh Khiết lên ngôi vị Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVNTN, và công bố bản Hiến Chương. Cũng trong năm đó, Hòa Thượng được cung thỉnh làm Đàn Đầu Giới Đàn Việt Nam Quốc Tự, Sài Gòn.
Trong suốt thời gian 9 năm trong ngôi vị Tăng Thống, Hòa Thượng đã nhìn thấy nỗi điêu linh, thống khổ của quê hương, dân tộc, do những thế lực chính trị, quân sự gây nên, hơn lúc nào hết, Hòa Thượng đã kêu gọi các nhà lãnh đạo quốc gia, các thế lực tham chiến, hãy chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình cho dân tộc, đất nước để tất cả đều có được cơm no, áo ấm.
Trong Thông Điệp đầu Xuân Mậu Thân, 1968, Hòa Thượng viết: “Tôi kêu gọi toàn thể đồng bào Việt Nam hãy sáng suốt để tự cứu mình và cứu dân tộc. Sự chia rẽ tôn giáo, đảng phái, địa phương là nuôi mối nguy lớn làm tê liệt dân tộc ta, làm cho chúng ta mất chủ quyền và mất ánh sáng. Phải nhìn nhận rằng, nếu các thế lực bên ngoài có thể nhúng tay vào nội tình Việt Nam, phần lớn lỗi ở chúng ta không biết thương nhau,không biết tới sự sống đích thực và kiêu hùng của dân tộc mà chỉ biết nghĩ tới quyền lợi và tự ái riêng tư.”
Thông Điệp ngày 20-6-1968, Hòa thượng kêu gọi: “Chúng tôi kêu gọi chính phủ của hai miền Nam Bắc Việt Nam và các thế lực quốc tế liên quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam, hãy ngừng lại những cuộc bắn giết dân chúng Việt Nam, hãy ngừng những xô đẩy nhân dân Việt Nam vào vòng chiến tranh một cách cưỡng bách, ngụy trang dưới hình thức pháp lý hoặc lý tưởng này nọ. Xin hãy thành thật dùng “đường lối ngoại giao hòa bình” để sớm giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam.”
Thông Điệp Phật Đản 2513-1969, Thông Điệp vì sứ mệnh hòa bình. Hòa Thượng đã khẳng định: “Lịch sử đã chứng minh, dân tộc Việt Nam có sức hóa giải bền bỉ phi thường. Sức hóa giải đó là bản chất của dân tộc và cũng chính là bản chất của Phật giáo vì Phật giáo được xây dựng trên tinh thần Trí Tuệ - Từ Bi và hùng lực.
Việt Nam vượt qua được giai đoạn bị đồng hóa là nhờ ở đức bao dung, sự đãi lọc và lòng kiên trì phát triển. Chính nhờ ở những căn bản quý giá ấy mà đã hơn một lần Phật giáo trợ duyên cho dân tộc hóa giải những lối sống xuất thế và nhập thế của các luồng tư tưởng Đông Phương, tạo ra sự quân bình tư tưởng cho Việt Nam dưới thời tự chủ Lý Trần, kéo dài trên ba thế kỷ.”
Thông Điệp Hội Nghị Quốc tế về Tôn giáo vì Hòa bình tại Thụy Sĩ tháng 10 năm 1970, Hòa thượng kêu gọi: “Chỉ có hòa bình mới cứu được nhân loại trong cơn khủng hoảng hiện nay. Chỉ có hòa bình mới đem lại sự cảm thông, sự tương thân, tương ái, sự thi đua phát triển giữa các đại tiểu quốc, cũng như các giai tầng xã hội. Chỉ có hòa bình mới đem lại cho con người cơ hội vận dụng sức mạnh khoa học, kỹ thuật để phụng sự tốt đẹp cho con người.”
Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết năm 1970
Thông Điệp Phật Đản 2516-1972, Hòa thượng tha thiết kêu gọi: “Tôi kêu gọi Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc ba đại cường đang ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc chiến Việt Nam và đang cung cấp vũ khí cho các phe đối chiến, hãy vì sự an nguy cho thế giới, vì sự diệt chủng của một dân tộc mà tìm sự thỏa hiệp với nhau để ngưng cung cấp chiến cụ vào Việt Nam...hãy tích cực hơn nữa trong công cuộc vận động chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, để tạo sự quân bình cho thế giới.”
Thông Điệp đầu xuân Quý Sửu 1973, Hòa thượng kêu gọi: “Cuộc đời hiện hữu là một bể khổ mênh mông, tôi xin tất cả chúng ta, đừng bao giờ làm khổ mình, làm khổ thân quyến, làm khổ đồng loại, làm khổ chúng sinh. Vì tất cả đều đáng thương, đều cần phải sống xứng đáng cho trọn kiếp người, tất cả đều đáng tôn trọng và cần được phụng sự.”
Tất cả những Thông Điệp trên là tiếng hống sư tử để cho con người nghe mà chuyển hóa thân tâm, tạo sự bình an, hạnh phúc cho loài người trên mặt đất. Những Thông Điệp là những bài học ngàn vàng cho nhiều thế hệ, để cảm hóa nhân tâm, vượt thoát giữa dòng nhân ngã mà lập hạnh tu trì cho mình và người, ngõ hầu xóa đi bao nỗi khổ đau của kiếp người.
VI. Ân đức tôn sư:
Ngoài phương diện thống xuất chúng Tăng, điều hành Giáo Hội, Hòa thượng luôn thân cận nhiếp hóa đệ tử, để nhân đây làm con đường truyền thừa mạng mạch Phật Pháp về sau.
Hòa thượng đã thế độ cho gần 50 đệ tử xuất gia. Những vị đệ tử này về sau đã làm nên lịch sử cho ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam. Như quý Hòa thượng Tâm Minh Chơn Thiệt, Tâm Trí Minh Châu, Tâm Từ Chơn Quả, Tâm Phù Chơn Kim, Tâm Thành Chơn Thức, Tâm Tân Chơn Tế...Cũng như các đệ tử Ni: Sư Bà Tâm Huệ Viên Minh, Tâm Quang Minh Đức, Tâm Định Cát Tường, Tâm Từ Diệu Tấn... Suốt quãng đời hoằng hóa độ sanh, thâu nhiếp đồ chúng, Hòa Thượng đã lưu lại bài kệ để nói lên tôn chỉ của mình cho hậu thế nói chung:
“Pháp thân vô trọng diệc vô khinh
Chỉ vị đa sanh hoặc tập thành
Nhất niệm hồi quang tri lụy kiếp
Lục căn thanh tịnh liễu Tâm Kinh. Ưng tiêu vọng tưởng chân vô ngã
Thì ngộ thuyền quang hiệp thế tình Dục thám huyền vi công tự tỉnh
Hà lao hướng viện vấn thuyền huynh!”
Tạm dịch:
“Pháp thân không trọng cũng không khinh Phân biệt do mê hoặc nghiệp thành
Một niệm hồi quang, lụy chướng dứt
Sáu căn thanh tịnh, rõ Tâm Kinh
Nên tiêu vọng tưởng chơn vô ngã Mới biết Đạo kia hiệp thế tình Muốn ngộ lẽ mầu, tâm tự tỉnh
Ích chi đến việc hỏi thuyền huynh!”
Một đời nhiếp chúng độ Tăng, Hòa Thượng đã để lại cho Phật Giáo Việt Nam một tài nguyên nhân sự, một tiềm lực sung mãn để hoạt dụng Phật sự, mang lại nhiều thành quả về mọi lãnh vực văn hóa, giáo dục, hoằng pháp... cho đời lẫn Đạo.
VII. Công viên quả mãn – thâu thần thị tịch:
Trong thời gian lãnh đạo tối cao Giáo hội, Hòa Thượng thường ở khắp nơi, khi thì ở Chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Tu viện Già Lam Sài Gòn hay các Sơn Môn miền Trung Huế. Một hôm, đang ở Tu Viện Quảng Hương Già Lam, Hòa Thượng ngỏ ý muốn trở về Huế. Hòa Thượng Thiện Hoa Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, bạch: “Xin cung thỉnh Đức Tăng Thống sau khi về thăm cố đô ít ngày rồi xin Ngài trở lại thủ đô để lãnh đạo Giáo Hội.”
Hòa thượng đã từ chối: “Thôi, tôi không vô nữa.”
Trở về Huế, Hòa thượng đi thăm các Tổ đình Từ Đàm, Quốc Ân, Báo Quốc, Thuyền Tôn, Từ Hiếu, Kim Tiên... Chư Sơn Môn đến viếng thăm Hòa thượng, nhơn đây Hòa thượng dạy: “Tôi thấy tôi sức khỏe đã kém nhiều, tôi khuyên các Tăng Ni, Phật tử cố gắng lo việc tu hành để báo đáp ơn Tam Bảo, thương mến và đoàn kết với nhau để xây dựng Giáo Hội và góp phần vào nền hòa bình dân tộc.” Đây là lời di huấn cuối cùng của Hòa Thượng.
Năm 1973, trong tuần rằm tháng giêng năm Quý Sửu, thị hiện bịnh, Hòa thượng đã an nhiên thâu thần thị tịch vào lúc 20 giờ 45 phút, ngày 23 tháng Giêng năm Quý Sửu, nhằm ngày 25-2-1973. Thế thọ 82 tuổi, Hạ lạp 63.
Trong bài Châm, khắc nơi bảo tháp của Hòa Thượng trong khuôn viên Tổ Đình Tường Vân – Huế, Thiền Sư Đạo Chơn Chánh Thống đã tán thán công hạnh của Hòa Thượng như sau:
“Hương giang chi nguyệt, Ngự lĩnh chi vân Sơn xuyên dục tú, Đỉnh xuất kỳ nhân
Giác trần thị huyễn, Duy đạo vi trân
Nghi huynh nghi đệ, Vô Trước Thiên Thân ....
Thanh tịnh nan danh, Ứng dụng vô lượng Phật pháp đống lương, Tông môn bảo chướng Tuyển Phật tráng trung, Lễ tôn Hòa thượng
Xuân thành hậu tấn, Cửu phụ đức âm
Vô nhĩ biểu thành, Kiền bị chuyết châm Nguyện thùy liên nhân, Phủ giám quỳ thầm Vĩnh phụng trần sát, Tương thử thâm tâm.”
Dịch:
“Trăng sông Hương, mây núi Ngự,
Tinh anh sông núi khéo đúc nên bậc khác thường.
Giác ngộ trần lao như huyễn, chỉ Đạo là quý.
Xứng huynh xứng đệ như Vô Trước Thiên Thân
...
Thanh tịnh khó bàn, ứng dụng vô lượng,
Đống lương của Phật pháp, bình phong che chở Tông môn. Trong trường tuyển Phật, suy tôn Hòa thượng.
Kẻ hậu lai ở cố đô từ lâu nương nhờ ân đức,
Không biết lấy gì bày tỏ, xin cung soạn bài Châm vụng về này,
Ngưỡng mong Ngài hạ cố chứng giám lòng thành.
Nguyện đem thâm tâm này vĩnh viễn phụng sự chúng sanh!”
Kính bạch Chư tôn đức Tăng già,
Hôm nay, Ngày Về Nguồn – Hiệp Kỵ Lịch đại Tổ sư lần thứ VIII, được tổ chức tại Chùa Pháp Bảo Sydney, Úc Châu do Hòa thượng phương trượng Thích Bảo Lạc phát tâm bảo trợ, đông đảo Chư Tôn đức Tăng già đã quang lâm chứng minh tham dự, đã làm trang nghiêm, thanh tịnh đạo tràng, như suối nguồi trăm sông chảy vào biển cả thanh tịnh của đại chúng.
Nhờ nhân duyên này mà chư Tăng Ni có dịp gặp nhau để thăm hỏi, vấn an trong tình linh sơn cốt nhục, tường trình Phật sự, hoằng pháp cách xa. Nơi đây, chúng con thành kính đảnh lễ kính chúc Chư tôn Trưởng lão Hòa thượng cùng đại tăng pháp thể khinh an, Đạo thọ miên trường để cùng hiện thân trên mọi nẻo đường hoằng hóa mà truyền thừa, phú chúc đạo giác ngộ đến muôn nơi, ngõ hầu tri ân, niệm ân chư vị Lịch đại Tổ sư trong muôn một.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát.
Chùa Pháp Bảo, Sydney, Úc Châu Ngày 27 tháng 9 năm 2014.
Thích Nguyên Siêu