;
I. TAM NGHIỆP
Nghiệp là hành động tạo tác của thân, miệng, ý của chúng sanh; là con
đường đi từ Nhân tới Quả. Nếu kiếp trước mình làm điều lành thì tạo được nghiệp
lành (thiện nghiệp), còn gọi là tạo phước nghiệp. Nghiệp lành này nó hình thành
nên đời sống nhiều may mắn, được an vui, hạnh phúc cho kiếp hiện tại và ngược
lại nếu kiếp trước mình làm điều xấu ác thì tạo nghiệp dữ, gọi là ác nghiệp hay
bất thiện nghiệp. Nghiệp dữ này nó hình thành nên đời sống nhiều thất bại, hoạn
nạn, bất hạnh cho kiếp hiện tại.
Tam nghiệp là hành động tạo tác của thân, miệng, ý của chúng sanh. Chúng ta
cùng nhau luận bàn về Tam nghiệp để tích lũy thêm kiến thức Phật học, kinh
nghiệm tu tập các bạn nhé.
1. Thân nghiệp: Là hành động tạo tác của Thân như: đánh đập người, dắt dìu người già qua đường, phá hủy môi trường sống…
2. Khẩu nghiệp: Là hành động tạo tác của Miệng như: khuyên dạy mọi người làm điều tốt, mắng nhiếc người, vu oan người khác...
3. Ý nghiệp: Là hành động tạo tác của Ý tưởng như: suy nghĩ làm điều thiện, toan tín làm điều ác...
Từ nghiệp nhân, tức hành động tạo tác của ba nghiệp, đến nghiệp báo, tức quả báo phải trả khi gây tạo nghiệp nhân đều gọi chúng là nghiệp. Trong tam nghiệp trên, ý nghiệp là hệ trọng hơn hết, bởi vì việc làm của thân hay lời nói phát khởi từ miệng đều do ý tưởng suy tính, quyết định cả. Do vậy, việc ác hoặc thiện chưa bộc phát ra nơi thân và miệng, nhưng nó đã móng khởi ở ý tưởng rồi. Thế nên, người nào có ý ác là đã phạm tội rồi mặc dù nó chưa bộc phát ra hành động.
II. TỊNH HÓA TAM NGHIỆP
Đức Phật dạy: “Ba cõi bất an, giống như ở trong nhà lửa”. Quả đúng như vậy,
từ vô lượng kiếp, chúng sanh trôi lăn mãi trong tam giới chịu nhiều khổ đau,
luôn sống trong lo âu sầu muộn, lắm lúc bức xúc khốn cùng không có lối thoát.
Vì muốn chúng sanh vui hưởng nguồn hạnh phúc, an lạc đích thực, Đứa
Phật Thích Ca đã thị hiện trên cõi đời này giáo hoá chúng sanh tu hành thoát
khổ. Suốt 49 năm truyền giáo, Ngài đã tuyên thuyết rất nhiều pháp môn tu học
nhưng không ngoài mục đích giúp chúng sanh nhận ra bản chất khổ đau của nhân
sinh và đưa ra nhiều phương pháp tu hành nhằm giúp chúng sanh diệt trừ những
khổ đau ấy. Đại Kinh Vacchhagotta trong Trung Bộ Kinh là một những bài pháp vô
cùng thâm diệu, Đức Phật đã dùng trí huệ siêu việt hướng dẫn cho Vacchhagotta
phương pháp tu tập “Tịnh hoá tam nghiệp” để thoát mọi khổ đau, đạt đến an lạc
giải thoát. Để cảm nhận sâu sắc hơn thâm ý của Đức Phật qua bài Kinh này, chúng
ta cùng nhau tìm hiểu để tịnh hóa Tam nghiệp của mình tốt hơn nhé.
Tam nghiệp là hành động tạo tác của thân, khẩu, ý. Tịnh hoá tam nghiệp nghĩa là tu sửa, thanh lọc thân, khẩu, ý bất thiện dần dần trở nên thuần thiện, an lạc. Diệt trừ 10 điều ác (Thập ác), tu tập 10 pháp thiện (Thập thiện) tạo thành 10 phương pháp tịnh hóa tam nghiệp. Thực những phương pháp này sẽ đem lại lợi ích thiết thực cho chúng ta trong cuộc sống.
01. Sát sanh là bất thiện, từ bỏ sát sanh là thiện: Từ bỏ sát sanh có nghĩa là không hủy hoại cuộc sống của mọi loài, của bản thân, không sai người khác giết hại, không sanh lòng vui mừng khi thấy người khác giết. Không những không sát chúng sanh mà chúng ta còn phải tìm mọi cách để cứu sống chúng sanh như cứu người trong lúc nguy nan, phóng sanh các loài động vật, không nuôi chim lồng, cá chậu v.v…
02. Trộm cắp là bất thiện, từ bỏ trộm cắp là thiện: Từ bỏ trộm cắp có nghĩa là chúng ta không được dùng bất cứ thủ đoạn nào để chiếm đoạt, trộm cướp tài sản của người khác. Là người đạo đức, tu hành đạo giải thoát giác ngộ, chúng ta không những không chiếm đoạt, trộm cắp tài sản của người khác mà còn đem tiền của, sức lực của mình giúp đỡ chúng sanh kém may mắn hơn mình, để họ được an vui, ấm no. Qua việc làm này, chúng ta vừa xả bỏ lòng tham lam, vừa tích phước để trang nghiêm đạo tâm.
03. Tà hạnh là bất thiện, từ bỏ tà hạnh là thiện: Từ bỏ tà hạnh có nghĩa là không sống trác táng, ăn chơi, cờ bạc, rượu chè, hút sách, gian dâm... Là người đạo đức, người tu đạo, chúng ta cần có cuộc sống phạm hạnh. Tu sĩ thì cấm hẳn tà hạnh, Cư sĩ thì phải biết tiết dục, vợ chồng chung thủy với nhau. Tà dục là gốc sanh tử luân hồi, vì thế chúng ta cần dứt bỏ nó, để tâm hồn ngày càng trở nên thanh khiết, đi dần đến an lạc giải thoát.
04. Nói dối là bất thiện, từ bỏ nói dối là thiện: Từ bỏ nói dối là thiện có nghĩa là không nói sai sự thật: thấy, nghe, biết như thế nào thì nói như thế ấy; chỉ khi nào gặp trường hợp đặc biệt, vì muốn đem đến an vui cho chúng sanh thì chúng ta có thể tạm thời nói sai sự thật.
05. Nói lời hung ác là bất thiện, từ bỏ nói lời hung ác là thiện: Từ bỏ nói lời hung ác là thiện có nghĩa là không được dùng lời ác độc, thâm hiểm chửi rủa mọi người. Là người đạo đức, người tu hành, khi nói ra điều gì, chúng ta luôn nói những lời dịu dàng, từ ái hợp với chân lí, được như thế tình cảm con người ngày càng trở nên sâu đậm, dắt dìu nhau tu theo thiện pháp để cùng nhau sống an vui, hạnh phúc.
06. Nói lời thêu dệt là bất thiện, từ bỏ lời nói thêu dệt là thiện: Từ bỏ nói lời thêu dệt là thiện có nghĩa là không nên thêm bớt trong lời nói để làm cho câu chuyện sai với sự thật. Hoặc dùng lời nói hoa mỹ, bóng bẩy mê hoặc nhằm hãm hại người… Là người đạo đức, tu hành đạo giải thoát, khi nói ra bất cứ điều gì đều là lời nói chân thật, đạo đức, khế hợp với ý đạo nhằm đem lại an vui cho bản thân và tha nhân.
07. Nói lưỡi hai chiều là bất thiện, từ bỏ nói lưỡi hai chiều là thiện: Từ bỏ nói lưỡi hai chiều là thiện có nghĩa là không được đến người A nói xấu người B; đến người B nói xấu người A… mục đích để gây chia rẽ họ, làm cho hai bên thù địch nhau, ẩu đả nhau để rồi gây thương tổn cho nhau. Là người đạo đức, chân tu, chúng ta cần phải dùng những lời nói đạo đức để hóa giải mọi sự oán thù của con người, giúp họ sáng suốt dứt bỏ hành động tạo đau khổ cho nhau, để không vướng vào nghiệp oan oan tương báo, khổ khổ chất chồng qua nhiều kiếp, mà cần phải biết nhường nhịn, yêu thương lẫn nhau, để cuộc sống luôn được bình an qua mỗi kiếp.
08. Xan tham là bất thiện, từ bỏ xan tham là thiện: Từ bỏ xan tham là thiện có nghĩa là không tham đắm ngũ dục (tài-sắc-danh-thực-thuỳ). Khi hành giả đắm chìm trong ngũ dục là sa đọa vào con người đường tội lỗi, gieo tạo nhiều ác nghiệp và cuối cùng chuốc lấy khổ đau thống thiết, đọa đày mãi trong lục đạo luân hồi. Là người đang đi tìm hạnh phúc, người chân tu, chúng ta luôn làm chủ tâm mình, hạn chế và đi dần đến diệt trừ tất cả mọi sự tham muốn thấp hèn, sống tri túc tiết hạnh, siêng năng hành trì thiện pháp để tâm luôn được an tịnh và thăng hoa mãi trong cảnh giới Thánh thiện.
09. Sân hận là bất thiện, từ bỏ sân hận là thiện: Từ bỏ sân hận là thiện có nghĩa là không hung hăng, nóng giận khi đối đầu với những việc trái ý nghịch lòng. Sân hận là một tánh khí xấu ác, độc hại, nó như ngọn lửa mạnh, mỗi khi bừng cháy là có thể đốt cháy thân tâm ta và tất cả mọi vật xung quanh, vì thế Đức Phật từng dạy: “Một niệm sân nổi lên là trăm nghìn cửa nghiệp chướng đều mở”. Thế nên, lửa tức giận một phen phát ra, liền đốt cháy tất cả rừng công đức đã gieo tạo nhiều năm tháng. Sự tác hại của tâm sân vô cùng khủng khiếp, để có được hạnh phúc, để tiến thân mãi trên đường đạo, chúng ta chủ động tâm mình, luôn hành trì pháp quán từ bi, thương yêu tất cả mọi loài để diệt trừ lòng sân, vì khi tâm hồn ngập tràn yêu thương thì không tồn tại tâm lý sân hận. Bên cạnh đó, chúng ta dùng trí tuệ quán chiếu thật tướng của vạn pháp là “không”, nhờ thế chúng ta có thể chủ động đề phòng tâm sân, mỗi khi nó manh nha liền bị tiêu diệt ngay và tâm dần dần trở nên an tịnh, từ ái.
10. Si mê là bất thiện, từ bỏ si mê là thiện: Si mê là tâm tánh ám độn không phân định được chánh, tà, đúng, sai. Mỗi khi con người bị tâm si chi phối, thường gieo tạo nhiều lầm lỗi, dần dần sa đọa vào đường ác. Vì thế, si mê là nguồn gốc gây nên mọi tội lỗi, tạo nhiều khổ sầu cho con người. Muốn loại trừ những quan niệm sai lầm, những định kiến tà quấy, chúng ta cần phải siêng năng tu tập thiền quán, niệm Phật, làm nhiều việc thiện, xả bỏ dần cái tôi tầm thường… dần dần tâm chúng ta trở nên sáng suốt, an tịnh, lúc đó mọi suy nghĩ, mọi hành động của chúng ta đều khế hợp đạo lí, mang lại hạnh phúc cho bản thân và mọi người.
Trong 10 pháp thiện trên, ba pháp đầu thuộc về “thân nhiệp”, bốn pháp kế thuộc về “khẩu nghiệp” và ba pháp cuối thuộc về “ý nghiệp”. Trong ba loại nghiệp này, tu tập “Ý nghiệp” là khó khăn và quan trọng hơn hết. Vì tâm ý chính là người chỉ huy và cũng là thủ phạm. Còn thân và miệng chỉ là những kẻ tùng phạm mà thôi. Nói một cách rõ ràng hơn, tất cả lời nói, hành động của thân và miệng đều bắt nguồn từ sự sai khiến của tâm ý, vì thế trong Kinh Pháp Cú Đức Phật Dạy:
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý nhiễm ô (ác)
Nói năng hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như chiếc xe theo chân con vật kéo”.
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý thanh tịnh (thiện)
Nói năng hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình”.
Bài kệ trong Kinh Pháp Cú trên giúp chúng ta nhận thấy rằng, chính mối tương quan nhân quả từ nơi tâm ý của con người đã hình thành nên nghiệp thiện hay ác mà con người phải thọ nhận. Tâm ý chính là chủ nhân tạo nên mọi khổ sầu hay an vui cho con người, mỗi khi ý ác khởi lên, nếu chúng ta không biết kìm chế, hóa giải thì miệng sẽ nói những lời ác độc, thân sẽ làm những việc ác, từ đó gây ra đau khổ cho bản thân và mọi loài xung quanh. Ngược lại nếu chúng ta biết thanh lọc tâm ý, luôn phát khởi những ý tưởng thanh cao, đạo đức thì miệng sẽ nói ra những lời từ ái, thân làm những việc tốt, đem lại an vui hạnh phúc cho bản thân và mọi loài. Như vậy, tu tập “tâm ý” là vấn đề then chốt, là nền tảng của người tu đạo nhằm đạt đến an vui, giải thoát. Mỗi khi chúng ta thức tĩnh tâm ý, tu tập Giới, Định, Huệ là chúng ta đã mở ra cho mình một hướng đi rất chủ động trong việc tu tâm, tạo nên một đời sống an lạc giải thoát ngay trong kiếp sống hiện tại, để từ đó đạt đến cứu cánh giải thoát.
Qua sự luận bàn chúng ta nhận thấy 10 phương pháp tịnh hóa tam nghiệp là 10 phương pháp rất thâm diệu, có giá trị rất sâu sắc và thiết thực trong quá trình tu dưỡng đời sống tâm linh. Đây là giáo pháp tu tập căn bản, mang lại lợi ích thiết thực cho đời sống hiện tại và tương lai. Mười thiện pháp này nếu hành giả khéo ứng dụng vào cuộc sống thì sẽ phát triển Giới, Định, Huệ; tịnh hoá tam nghiệp, làm cho nhân cách phạm hạnh ngày càng sáng ngời và đạt đến suối nguồn hạnh phúc an vui trong cuộc sống. Tất cả các Tu sĩ , Cư sĩ đều đầy đủ nhân cách phạm hạnh thì cuộc sống Tăng đoàn sẽ vững mạnh, nội tình ổn định, hoà hợp hạnh phúc. Đây là yếu tố then chốt làm cho Phật Pháp hưng thịnh, thế giới an hòa... Thế nên, là đệ tử của bậc giác ngộ toàn năng, chúng ta phải nỗ lực tu hành, vun bồi phạm hạnh để cuộc sống luôn an bình hạnh phúc, để Phật pháp luôn trường tồn ở thế gian, giống như mặt trời luôn toả sáng và hiện hữu mãi trong vũ trụ.
Thích Nữ Đức Trí – 0905020701 – 2012.