;
Đại thi hào Nguyễn Du tác giả của tác phẩm xuất sắc "Văn tế thập loại chúng sinh" - Ảnh Khu di tích Nguyễn Du nằm bên quốc lộ 8B, thuộc xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân,Hà Tĩnh.
Đại thi hào Nguyễn Du (3-1-1766 - 16-9-1820) tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh
Hiên, sinh tại thành Thăng Long vào năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng. Quê Cụ ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Cụ Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình đại
quý tộc, ông thân sinh là Nguyễn Nghiễm, một quan văn, một nhà nghiên cứu sử
học, đồng thời là một nhà thơ, từng làm đến chức tể tướng. Mẹ ông, bà Trần Thị
Tần, xuất thân dòng dõi bình dân, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh
Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, là vợ thứ ba của ông Nguyễn Nghiễm.
Cuộc đời Cụ Nguyễn Du gắn với các biến cố lịch sử giai đoạn cuối thế kỉ mười tám, đầu
thế kỉ mười chín. Trong những năm tháng lịch sử đầy biến động ấy, Cụ trải qua
nhiều thăng trầm, sóng gió. Năm Canh Thìn 1820, Gia Long băng hà, Cụ được cử
làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong, không may mắc bệnh dịch và
qua đời, hưởng dương 54 tuổi.
Năm Giáp Thân 1824, di cốt của ông được cải táng về quê nhà - làng Tiên Điền, Hà Tĩnh. Cụ Nguyễn Du có học vấn uyên bác, số lượng tác phẩm bằng chữ Hán của ông rất nhiều, có thể kể đến: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn, Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh; Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc, Độc Tiểu Thanh kí viết về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn của Trung Quốc, viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật.
Tranh minh họa các loài ngạ quỷ
Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Cụ
Nguyễn Du gồm có: Đoạn trường tân thanh (Tiếng than van mới đau lòng đứt ruột.
Tên phổ biến là Truyện Kiều), viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục
bát; Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), viết bằng
thể thơ song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm; Thác lời trai phường nón 48
câu, được viết bằng thể lục bát, nội dung là lời người con trai phường nón tỏ
tình với cô gái phường vải; Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ 98 câu, viết theo lối
văn tế, bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.
Văn tế thập loại chúng sinh còn được gọi là Văn
chiêu hồn hay Văn tế chiêu hồn là
một trong số những tác phẩm xuất sắc của đại
thi hào Nguyễn Du thường dùng trì tụng để cúng thí thực cho các vong
linh còn đang đau khổ, đặc biệt là trong dịp tháng Bảy âm lịch.
Văn tế thập loại chúng sinh, hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Tuy nhiên trong một lần thị sát những ngôi chùa trên địa bàn Nghi Xuân, Giáo sư – thiền sư Lê Mạnh Thát đã tìm thấy thông tin và huyền sử cho rằng đại thi hào Nguyễn Du đã sáng tác Văn tế thập loại chúng sinh tại chùa Uyên Trừng, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh). Theo sách Đồng Khánh dư địa chí, trên núi Uyên Trừng (Rú Dằng), có một ngôi chùa cổ gọi là chùa Ba Tạng (Chính tên là Uyên Trừng Hoa tạng tự 淵澂華藏寺, đến đầu đời vua Thiệu Trị kiêng húy, đổi là chùa Ba Tạng). Vì chùa dựng ở lưng núi Uyên Trừng nên cũng có tên chùa Uyên Trừng.
Tác phẩm Văn tế thập loại chúng sinh được viết theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Theo một số nhà nghiên cứu văn học, có thể chia bài văn thành bốn phần:
- Phần một (20 câu): Tả cảnh một chiều thu tháng bảy mưa dầm buồn
bã, khiến nhà thơ chạnh lòng thương đến các chúng sinh đang lạnh lẽo, bơ vơ nơi
cõi âm mà lập đàn cầu siêu…
- Phần hai (116 câu): Chỉ danh nguyên nhân thiệt mạng của mười
loại Cô Hồn.
- Phần ba (20 câu): Miêu tả cảnh sống thê lương thảm thiết của các
Cô Hồn.
- Phần cuối (28 câu): Lời cầu xin phép Phật nhiệm mầu giúp cho họ
được giải thoát. Cuối cùng là lời mời các cô hồn tới nhận phần lễ cúng để siêu
độ.
Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của
ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939,
thì Cụ Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng
khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở
khắp các chùa đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn.
Tuy nhiên, GS. Hoàng Xuân Hãn lại cho rằng có lẽ cụ Nguyễn
Du viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, tức khi ông còn làm cai bạ
ở Quảng Bình (1802-1812).
Ngày 25/10/2013, tại kì họp lần thứ 37, Đại Hội đồng Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) chính thức vinh danh
đại thi hào Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới.
VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
5. Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
10. Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
15. Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tịnh bình rưới mát dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
20. Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
25. Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
30. Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
35. Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
40. Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn kẻ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.
45. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
50. Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng không đổi được
mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
55. Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
60. Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
65. Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
70. Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
75. Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm,
80. Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
85. Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
90. Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
95. Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
100. Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
105. Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
110. Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
115. Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
120. Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
125. Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
130. Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
135. Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
140. Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
145. Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
150. Gan héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
155. Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hoà tứ hải quần chu,
160. Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
165. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khuya tỉnh
chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
170. Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
175. Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trong bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh,
Đại thi hào Nguyễn Du có đề cập đến một số loại cụ thể như là:
Cô hồn: Chỉ chung các hồn cô độc không nơi nương
tựa, không thân thích.
Vương hầu
khanh tướng: Người
quyền thế có địa vị xã hội cao, có quân binh.
Phản thần
tặc tử: Kẻ có quyền binh trong tay mưu phản gây
loạn chiếm quyền.
Chiến
sĩ: Người chiến đấu vì lý tưởng nào đó, có kỹ
năng chiến đấu, thường bỏ mạng nơi chiến trường.
Binh tốt: Thường dân bị bắt làm lính, ít có kỹ
năng chiến đấu.
Kỹ nữ: Người dùng kỹ nghệ, nhan sắc, thân thể
mình bán vui mưu sinh.
Phu
nhân: Vợ hoặc thân nhân của người có quyền cao
chức trọng, có người hầu và quyền lực trong tay.
Cung
nga: Cung nữ thấp cổ bé họng trong cung cấm,
nữ hầu của các nhà quyền quý.
Phi tần: Ái thiếp của vua, có người hầu và quyền
uy.
Vương hậu: Vợ chính của vua một nước, nắm toàn quyền
hậu cung trong tay.
Văn sĩ: Người có tài năng văn chương, dùng bút
làm lợi khí cho mình.
Thư
sinh: Người có học thức nhưng chưa chắc được đời
công nhận hoặc học thức ấy có ứng dụng được việc gì không.
Thương
nhân phú gia: Người
buôn bán, dành sức cả đời kiếm tiền, có tiền của nhiều.
Tiểu
thương: Người buôn bán nhỏ, gánh hàng rong hoặc
sạp, quầy.
Ngư phủ: Người đi sông biển đánh bắt thủy hải sản
kiếm sống.
Quỷ hỏa: Lửa ma trơi.
Vô thủ
quỷ: Người chết bị mất đầu.
Hành khất: Người đi ăn xin sống lay lất qua ngày nhờ
sự bố thí của người khác.
Nịch tử
giả, nịch quỷ: Người
bị chết chìm dưới nước ở sông biển, ao hồ.
Lạc thụ
tử giả, lạc thụ quỷ: Người
bị chết do té cây.
Lạc tỉnh
tử giả, lạc tỉnh quỷ: Người
bị chết do té giếng.
Đồng tử,
tiểu quỷ: Đứa trẻ bị sẩy thai hoặc bị phá bỏ, hoặc
trẻ chết khi từ 12 tuổi trở xuống.
Sản nữ,
mẫu tử quỷ: Người
mẹ chết lúc sinh con hoặc đang mang thai.
Oan
hình nạn giả: Người
bị ghép tội oan uổng, cầm tù rồi chết khi chưa được giải oan.
Hỏa tai
nạn giả: Người bị chết do nạn lửa cháy.
Tinh
quái nạn giả: Người
bị chết do sơn tinh thủy quái, tà linh tinh quái sát hại.
Hung
thú nạn giả: Người
bị chết do thú dữ tấn công.
Hồng thủy
nạn giả: Người bị chết do nạn lũ lụt cuốn trôi.
Đồng
hoang chi linh: Âm
linh cư ngụ nơi đồng hoang.
Mộ
hoang chi linh: Âm
linh cư ngụ ở mộ hoang.
Trúc
tùng chi linh: Âm
linh cư ngụ ở bụi tre trúc.
Thảo
tùng chi linh: Âm
linh cu ngụ ở bụi cỏ lùm cây.
Thụ ảnh
chi linh: Âm linh cư ngụ dưới bóng râm của cây lớn.
Phố thị
chi linh: Âm linh cư ngụ ở nơi phố chợ.
Khách
điếm chi linh: Âm
linh cư ngụ ở quán trọ, hàng quán xá.
Thánh sở
chi linh: Âm linh cư ngụ ở chùa chiền đền miếu.
Kiều hạ
chi linh: Âm linh cư ngụ ở dưới gầm cầu có bóng
râm.
Giang
hà chi linh: Âm
linh cư ngụ ở miền sông nước.
Bộc bố
chi linh: Âm linh cư ngụ ở nơi thác nước.
Vân sơn
chi linh: Âm linh cư ngụ ở nơi đồi núi cao có mây
lãng đãng.
Bốn
mươi chủng loại chúng sinh nói trên là các dạng người chúng ta thường thấy biết
trong cuộc sống xã hội, còn rất nhiều chủng loại khác nữa của loài người sau khi
chết hóa thành.
Hành giả
tụng bản văn này để cúng thí thực cho những vong linh còn đang đau khổ bởi các
chấp niệm sâu dày của mình. Nhờ vậy mà họ được hồi hướng, tâm tình dần tịnh lặng
an yên, chuyển hóa các nhân duyên bất thiện thành thiện lành, sanh về những cảnh
giới an lành. Việc tưởng nhớ, đọc tụng này cũng giúp cho người hành trì khai mở
lòng từ bi, biết thương xót chúng sinh, các vong linh oan hồn khắp nơi còn đang
mờ mịt vì u mê.
Cúng
thí thực là hành động chuẩn bị đồ ăn, thức uống nhằm lan tỏa tình yêu thương, sự
quan tâm sẻ chia dành cho những người đã khuất, các bạn âm linh trong vô hình.
Vậy nên chỉ cần người cúng có tâm thành yêu thương, thì bất cứ khi nào cũng có
thể cúng thí thực, không cần phải vào dịp đặc biệt.
Sau khi
nấu ăn, trước khi ăn, hay đi đường thấy có món gì ngon, đều có thể chuẩn bị bàn
lễ mời các bạn cùng dùng bữa. Cúng thí thực là như thế, chỉ đơn giản là quan
tâm yêu thương thì làm, như cách chúng ta thấy món gì ngon, hấp dẫn, đều nghĩ đến
những người thân thương của chúng ta ở nhà, mua về một ít để cùng dùng bữa với
họ.
Việc
cúng thí thực chỉ cần mộc mạc thôi, vài món chay hoặc bánh, trái cây tuỳ thích,
cùng vài tách trà, chén nước trên một bàn lễ thân mật có nhang đèn được chuẩn bị
bằng tất cả sự quan tâm chân thành. Bởi các âm linh không ăn vật thực, mà chỉ cảm
thấy “no” hơn, ấm áp, an lạc hơn bởi chính tâm tình yêu thương, quan tâm sẻ
chia của người sống dành cho mình. Nhờ vậy mà các bạn ấy sẽ bớt cô đơn, đau khổ,
cảm thấy yên lòng vì còn có người nhớ thăm, quan tâm đến mình.
Sau khi
chuẩn bị vật phẩm, bàn lễ xong thì chúng ta mời các bạn đến dùng. Trong quá
trình cúng thí thực, chúng ta có thể dùng các nghi thức cầu siêu, giải oan, Kinh
Cứu Khổ, Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh, Văn Tế Chiến Sĩ… cũng như cầu nguyện cho
các âm linh hướng về Phật pháp để có an lạc, sinh về cõi lành.
Thức uống, đồ ăn chay sau khi cúng xong dùng như bình thường. Trước khi lấy xuống dùng thì cũng không quên xá, chào tạm biệt. Khi cúng gạo, hay bánh trái thì nên đựng trong tô, chén, dĩa chứ không nên rải khắp nơi trên nền đất tránh lãng phí. Sau khi cúng có thể dùng để nấu ăn, hay cho các loài vật khác ăn.
Đại thi hào Nguyễn Du (3.1.1766 - 16.9.1820) tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh
Hiên, sinh tại thành Thăng Long vào năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng. Quê Cụ Nguyễn
Du ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Cụ Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình đại
quý tộc, ông thân sinh là Nguyễn Nghiễm, một quan văn, một nhà nghiên cứu sử
học, đồng thời là một nhà thơ, từng làm đến chức tể tướng. Mẹ ông, bà Trần Thị
Tần, xuất thân dòng dõi bình dân, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh
Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, là vợ thứ ba của ông Nguyễn Nghiễm.
Cuộc đời Cụ Nguyễn Du gắn với các biến cố lịch sử giai đoạn cuối thế kỉ mười tám, đầu
thế kỉ mười chín. Trong những năm tháng lịch sử đầy biến động ấy, Cụ trải qua
nhiều thăng trầm, sóng gió. Năm Canh Thìn 1820, Gia Long băng hà, Cụ được cử
làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong, không may mắc bệnh dịch và
qua đời, hưởng dương 54 tuổi.
Năm Giáp Thân 1824, di cốt của
ông được cải táng về quê nhà - làng Tiên Điền, Hà Tĩnh. Cụ Nguyễn Du có học vấn uyên bác, số lượng tác phẩm bằng chữ Hán
của ông rất nhiều, có thể kể đến: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên)
gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn,
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm
quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh; Bắc hành tạp lục
(Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài, viết trong
chuyến đi sứ sang Trung Quốc, Độc Tiểu Thanh kí viết về nàng Tiểu Thanh tài sắc
vẹn toàn của Trung Quốc, viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật.
Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Cụ
Nguyễn Du gồm có: Đoạn trường tân thanh (Tiếng than van mới đau lòng đứt ruột.
Tên phổ biến là Truyện Kiều), viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục
bát; Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa:Văn tế mười loại chúng sinh), viết bằng
thể thơ song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm; Thác lời trai phường nón 48
câu, được viết bằng thể lục bát, nội dung là lời người con trai phường nón tỏ
tình với cô gái phường vải; Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ 98 câu, viết theo lối
văn tế, bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.
Văn tế thập loại chúng sinh còn được gọi là Văn
chiêu hồn hay Văn tế chiêu hồn là
một trong số những tác phẩm xuất sắc của đại
thi hào Nguyễn Du thường dùng trì tụng để cúng thí thực cho các vong
linh còn đang đau khổ, đặc biệt là trong dịp tháng Bảy âm lịch.
Văn tế thập loại chúng sinh, hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Tuy nhiên trong một lần thị
sát những ngôi chùa trên địa bàn Nghi Xuân, Giáo sư – thiền sư Lê Mạnh Thát đã
tìm thấy thông tin và huyền sử cho rằng đại thi hào Nguyễn Du đã sáng tác Văn
tế thập loại chúng sinh tại chùa Uyên Trừng, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh).
Theo sách Đồng Khánh dư địa chí, trên núi Uyên Trừng (Rú Dằng),
có một ngôi chùa cổ gọi là chùa Ba Tạng (Chính tên là Uyên Trừng Hoa tạng tự 淵澂華藏寺, đến đầu đời vua Thiệu Trị kiêng húy, đổi là chùa Ba Tạng). Vì
chùa dựng ở lưng núi Uyên Trừng nên cũng có tên chùa Uyên Trừng.
Tác phẩm được viết theo thể song
thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Theo một số nhà nghiên cứu văn học, có
thể chia bài văn thành bốn phần:
Phần một (20 câu): Tả cảnh một chiều thu tháng bảy mưa dầm buồn
bã, khiến nhà thơ chạnh lòng thương đến các chúng sinh đang lạnh lẽo, bơ vơ nơi
cõi âm mà lập đàn cầu siêu…
Phần hai (116 câu): Chỉ danh nguyên nhân thiệt mạng của mười
loại Cô Hồn.
Phần ba (20 câu): Miêu tả cảnh sống thê lương thảm thiết của các
Cô Hồn.
Phần cuối (28 câu): Lời cầu xin phép Phật nhiệm mầu giúp cho họ
được giải thoát. Cuối cùng là lời mời các Cô Hồn tới nhận phần lễ cúng để siêu
độ.
Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của
ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939,
thì Cụ Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng
khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở
khắp các chùa đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn.
Tuy nhiên,GS. Hoàng Xuân Hãn lại cho rằng có lẽ cụ Nguyễn
Du viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, tức khi ông còn làm cai bạ
ở Quảng Bình (1802-1812).
Ngày 25/10/2013, tại kì họp lần thứ 37, Đại Hội đồng Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) chính thức vinh danh
đại thi hào Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới.
VĂN TẾ
THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
5. Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
10. Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
15. Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tịnh bình rưới mát dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
20. Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
25. Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
30. Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
35. Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
40. Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn kẻ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.
45. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
50. Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng không đổi được
mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
55. Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
60. Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
65. Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
70. Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
75. Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm,
80. Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
85. Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
90. Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
95. Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
100. Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
105. Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
110. Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
115. Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
120. Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
125. Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
130. Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
135. Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
140. Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
145. Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
150. Gan héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
155. Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hoà tứ hải quần chu,
160. Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
165. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khuya tỉnh
chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
170. Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
175. Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
180. Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Trong bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh,
Đại Thi Hào Nguyễn Du có đề cập đến một số loại cụ thể như là:
1. Cô hồn: Chỉ
chung các hồn cô độc không nơi nương tựa, không thân thích.
2. Vương hầu khanh tướng: Người quyền thế có địa vị xã hội cao, có
quân binh.
3. Phản thần tặc tử: Kẻ có quyền binh trong tay mưu phản gây
loạn chiếm quyền.
4. Chiến sĩ: Người
chiến đấu vì lý tưởng nào đó, có kỹ năng chiến đấu, thường bỏ mạng nơi chiến
trường.
5. Binh tốt: Thường
dân bị bắt làm lính, ít có kỹ năng chiến đấu.
6. Kỹ nữ: Người
dùng kỹ nghệ, nhan sắc, thân thể mình bán vui mưu sinh.
7. Phu nhân: Vợ
hoặc thân nhân của người có quyền cao chức trọng, có người hầu và quyền lực
trong tay.
8. Cung nga: Cung
nữ thấp cổ bé họng trong cung cấm, nữ hầu của các nhà quyền quý.
9. Phi tần: Ái
thiếp của vua, có người hầu và quyền uy.
10.
Vương hậu: Vợ chính của vua một nước, nắm toàn quyền
hậu cung trong tay.
11.
Văn sĩ: Người có tài năng văn chương, dùng bút
làm lợi khí cho mình.
12.
Thư
sinh: Người có học thức nhưng chưa chắc được đời
công nhận hoặc học thức ấy có ứng dụng được việc gì không.
13.
Thương
nhân phú gia: Người
buôn bán, dành sức cả đời kiếm tiền, có tiền của nhiều.
14.
Tiểu
thương: Người buôn bán nhỏ, gánh hàng rong hoặc
sạp, quầy.
15.
Ngư phủ: Người đi sông biển đánh bắt thủy hải sản
kiếm sống.
16.
Quỷ hỏa: Lửa ma trơi.
17.
Vô thủ
quỷ: Người chết bị mất đầu.
18.
Hành khất: Người đi ăn xin sống lay lất qua ngày nhờ
sự bố thí của người khác.
19.
Nịch tử
giả, nịch quỷ: Người
bị chết chìm dưới nước ở sông biển, ao hồ.
20.
Lạc thụ
tử giả, lạc thụ quỷ: Người
bị chết do té cây.
21.
Lạc tỉnh
tử giả, lạc tỉnh quỷ: Người
bị chết do té giếng.
22.
Đồng tử,
tiểu quỷ: Đứa trẻ bị sẩy thai hoặc bị phá bỏ, hoặc
trẻ chết khi từ 12 tuổi trở xuống.
Sản nữ,
mẫu tử quỷ: Người
mẹ chết lúc sinh con hoặc đang mang thai.
23.
Oan
hình nạn giả: Người
bị ghép tội oan uổng, cầm tù rồi chết khi chưa được giải oan.
24.
Hỏa tai
nạn giả: Người bị chết do nạn lửa cháy.
25.
Tinh
quái nạn giả: Người
bị chết do sơn tinh thủy quái, tà linh tinh quái sát hại.
26.
Hung
thú nạn giả: Người
bị chết do thú dữ tấn công.
27.
Hồng thủy
nạn giả: Người bị chết do nạn lũ lụt cuốn trôi.
28.
Đồng
hoang chi linh: Âm
linh cư ngụ nơi đồng hoang.
29.
Mộ
hoang chi linh: Âm
linh cư ngụ ở mộ hoang.
30.
Trúc
tùng chi linh: Âm
linh cư ngụ ở bụi tre trúc.
31.
Thảo
tùng chi linh: Âm
linh cu ngụ ở bụi cỏ lùm cây.
32.
Thụ ảnh
chi linh: Âm linh cư ngụ dưới bóng râm của cây lớn.
33.
Phố thị
chi linh: Âm linh cư ngụ ở nơi phố chợ.
34.
Khách
điếm chi linh: Âm
linh cư ngụ ở quán trọ, hàng quán xá.
35.
Thánh sở
chi linh: Âm linh cư ngụ ở chùa chiền đền miếu.
36.
Kiều hạ
chi linh: Âm linh cư ngụ ở dưới gầm cầu có bóng
râm.
37.
Giang
hà chi linh: Âm
linh cư ngụ ở miền sông nước.
38.
Bộc bố
chi linh: Âm linh cư ngụ ở nơi thác nước.
39.
Vân sơn
chi linh: Âm linh cư ngụ ở nơi đồi núi cao có mây
lãng đãng.
Bốn
mươi chủng loại chúng sinh nói trên là các dạng người chúng ta thường thấy biết
trong cuộc sống xã hội, còn rất nhiều chủng loại khác nữa của loài người sau khi
chết hóa thành.
Hành giả
tụng bản văn này để cúng thí thực cho những vong linh còn đang đau khổ bởi các
chấp niệm sâu dày của mình. Nhờ vậy mà họ được hồi hướng, tâm tình dần tịnh lặng
an yên, chuyển hóa các nhân duyên bất thiện thành thiện lành, sanh về những cảnh
giới an lành. Việc tưởng nhớ, đọc tụng này cũng giúp cho người hành trì khai mở
lòng từ bi, biết thương xót chúng sinh, các vong linh oan hồn khắp nơi còn đang
mờ mịt vì u mê.
Cúng
thí thực là hành động chuẩn bị đồ ăn, thức uống nhằm lan tỏa tình yêu thương, sự
quan tâm sẻ chia dành cho những người đã khuất, các bạn âm linh trong vô hình.
Vậy nên chỉ cần người cúng có tâm thành yêu thương, thì bất cứ khi nào cũng có
thể cúng thí thực, không cần phải vào dịp đặc biệt.
Sau khi
nấu ăn, trước khi ăn, hay đi đường thấy có món gì ngon, đều có thể chuẩn bị bàn
lễ mời các bạn cùng dùng bữa. Cúng thí thực là như thế, chỉ đơn giản là quan
tâm yêu thương thì làm, như cách chúng ta thấy món gì ngon, hấp dẫn, đều nghĩ đến
những người thân thương của chúng ta ở nhà, mua về một ít để cùng dùng bữa với
họ.
Việc
cúng thí thực chỉ cần mộc mạc thôi, vài món chay hoặc bánh, trái cây tuỳ thích,
cùng vài tách trà, chén nước trên một bàn lễ thân mật có nhang đèn được chuẩn bị
bằng tất cả sự quan tâm chân thành. Bởi các âm linh không ăn vật thực, mà chỉ cảm
thấy “no” hơn, ấm áp, an lạc hơn bởi chính tâm tình yêu thương, quan tâm sẻ
chia của người sống dành cho mình. Nhờ vậy mà các bạn ấy sẽ bớt cô đơn, đau khổ,
cảm thấy yên lòng vì còn có người nhớ thăm, quan tâm đến mình.
Sau khi
chuẩn bị vật phẩm, bàn lễ xong thì chúng ta mời các bạn đến dùng. Trong quá
trình cúng thí thực, chúng ta có thể dùng các nghi thức cầu siêu, giải oan, Kinh
Cứu Khổ, Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh, Văn Tế Chiến Sĩ… cũng như cầu nguyện cho
các âm linh hướng về Phật pháp để có an lạc, sinh về cõi lành.
Thức uống,
đồ ăn chay sau khi cúng xong dùng như bình thường. Trước khi lấy xuống dùng thì
cũng không quên xá, chào tạm biệt. Khi cúng gạo, hay bánh trái thì nên đựng
trong tô, chén, dĩa chứ không nên rải khắp nơi trên nền đất tránh lãng phí. Sau
khi cúng có thể dùng để nấu ăn, hay cho các loài vật khác ăn.