;
Tác giả Phước Nguyên có đạo văn hay không?
Hiện tượng Phước Nguyên, trách nhiệm thuộc về ai?
Trong bài viết của mình “Thượng nhân Tăng thống Quảng Độ: Từ THÍ VÔ UÝ GIẢ đến PHÁP TRUNG LƯƠNG KIỆT” đăng trên website Thư Viện Hoa Sen, thầy Thích Phước Nguyên viết:
“Về băng rôn số 7, treo 4 chữ Nho: “Pháp trung lương kiệt - 法 中 樑 傑”, do một bậc Đại Trưởng lão đồng hàng đồng kiến với đức Tăng thống, một thời quý Ngài chung tay dựng cơ đồ Phật giáo Đại Việt, bái chúc cho đức Tăng thống, trước khi ngài dự tri thời chí.”
- Theo từ điển Thiều Chửu, nghĩa chữ pháp - 法 là nhà Phật gọi đạo là pháp, cho nên giảng đạo gọi là thuyết pháp 說法, tôn xưng các sư giảng đạo là pháp sư 法師, v.v.
- Theo từ điển Trần Văn Chánh, nghĩa chữ trung - 中: là giữa, ở giữa, trong, trên, dưới v.v tùy theo văn cảnh.
- Theo từ điển Thiều Chửu và Trần Văn Chánh, nghĩa chữ lương - 樑 là tục dùng như chữ lương 梁, nghĩa là cái cầu, cái xà nhà v.v.
- Theo từ điển Thiều Chửu và Trần Văn Chánh, nghĩa chữ kiệt - 傑 là giỏi lạ, trí khôn gấp mười người gọi là kiệt, xuất sắc, kiệt xuất, lỗi lạc v.v.
Thầy Thích Phước Nguyên dịch nghĩa “Pháp trung lương kiệt” là “BẬC ĐỐNG LƯƠNG KIỆT XUẤT TRONG CHÁNH PHÁP” và giải thích thêm “ bậc đống lương kiệt xuất trong chánh pháp” là bậc thượng thủ lãnh đạo, chèo chống ngôi nhà Phật giáo anh tài, trước sau thuỷ chung như nhất với lý tưởng, dù trải qua bao thăng trầm vẫn không đổi dời”.
Như đã trích dẫn từ điển Thiều Chửu và Trần Văn Chánh, nghĩa của chữ lương- 樑 là một danh từ chỉ đồ vật cụ thể, đó là cái cầu, cái xà nhà. Còn chữ kiệt - 傑 một danh từ trừu tượng chỉ cho ai đó có phẩm chất, tính chất: giỏi lạ, xuất sắc, kiệt xuất, lỗi lạc.
Vậy, chữ lương- 樑 sao có thể đi chung với chữ kiệt - 傑 để hỗ trợ, bổ sung cho cách hiểu “ bậc đống lương kiệt xuất” của thầy Phước Nguyên được? Và “trước sau thuỷ chung như nhất” sao có thể viết là chữ trung - 中, có nghĩa là giữa, ở giữa, trong, trên, dưới?
Qua phân tích về chữ nghĩa ở trên, có thể nhận thấy, chỉ với 04 chữ “Pháp trung lương kiệt” được thầy Thích Phước Nguyên chuyển từ âm Hán Việt sang chính văn Hán ngữ đã sai 02 từ: trung - 中 và lương- 樑. Từ đó viết sai chính văn Hán ngữ của “Pháp trung lương kiệt” mà “một bậc Đại Trưởng lão đồng hàng đồng kiến với đức Tăng thống”, tức cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quang viết tặng cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Quảng Độ.
Trong bài “Bốn chữ 'Pháp trung lương kiệt' trong tang lễ của Trưởng lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, thực sự là những chữ gì?” cũng được đăng trên trang nhà Thư Viện Hoa Sen, tác giả Nguyên Dũng viết: “4 chữ mà Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quang tặng Trưởng lão Hòa thượng Thích Quảng Độ là gồm những chữ gì? Đó là “法忠良傑”.”
Chân dung Cố HT. Thích Trí Quang và HT.Thích Quảng Độ
- Theo từ điển Thiều Chửu và Trần Văn Chánh, nghĩa chữ trung 忠 là thực, dốc lòng, hết bổn phận mình là trung, trung thành, trung, hết lòng v.v.
- Theo từ điển Thiều Chửu và Trần Văn Chánh, nghĩa chữ lương - 良 là lành, tính chất thuần tốt bền giữ không đổi gọi là lương, tốt, vật gì hoàn toàn tốt đẹp gọi là lương, lương thiện, hiền lương, tài v.v.
Trong văn phạm Hán văn thì 4 chữ “Pháp trung lương kiệt” có kết cấu là một ngữ danh từ. Trong đó, “pháp trung” là định ngữ bổ trợ cho từ trung tâm là “lương kiệt”.
Vậy, nghĩa của “Pháp trung lương kiệt” được hiểu là “bậc anh tài kiệt xuất hết lòng bảo vệ chánh pháp”, hoặc “bậc tài ba xuất chúng luôn trung thành với đạo pháp”.
Thiết nghĩa, chỉ với 04 từ “Pháp trung lương kiệt” mà thầy Thích Phước Nguyên đã khôi phục từ âm Hán Việt sang chính văn Hán ngữ đã sai 02 từ.
Từ đó lộ ra trình độ Hán văn của thầy Thích Phước Nguyên còn hạn chế, non kém. Và mọi người có quyền nghi ngờ đặt dấu chấm hỏi, rằng với trình độ Hán văn còn non nớt như vậy, làm sao thầy Thích Phước Nguyên có thể đủ năng lực, trình độ dịch từ Hán văn sang Việt văn các bộ luận như: A-Tỳ-Đạt-Ma Pháp Uẩn Túc Luận, A-Tỳ-Đạt-Ma Tập Dị Môn Túc Luận v.v?