;
Cẩm nang cho cuộc sống ngày nay
Lời giới thiệu của người chuyển ngữ
Quyển sách "365 Lời khuyên Tâm huyết của Đức Đạt-lai Lạt-ma - Cẩm nang cho cuộc sống ngày nay" (365 Méditations quotidiennes du Dalai-Lama pour éclairer votre vie) của Đức Đạt-lai Lạt-ma cùng nhà sư Matthieu Ricard, đã được nhà xuất bản Presses de la Renaissance tại Paris ấn hành lần đầu tiên năm 2001, và sau đó đã được tái bản nhiều lần và cũng đã được dịch sang nhiều thứ tiếng.
Quyển sách này cũng có nhiều ấn bản khác nhau, mang nhiều tựa khác nhau, trong số này có nhiều ấn bản đã được tóm lược. Một trong số các ấn bản rút ngắn này - gồm 53 câu thay vì 365 câu - cũng đã được dịch sang tiếng Việt và đã được Nhà Xuất Bản Tôn Giáo ấn hành tại Việt Nam năm 2009, và sau đó cũng đã được Nhà Xuất Bản Phương Đông tái bản năm 2011 ("Những lời khuyên tâm huyết của Đức Đạt-lai Lạt-ma", Hoang Phong chuyển ngữ, nguyên bản tiếng Pháp là "Dalai Lama - Conseils du coeur", Pocket, 2003).
Lần tái bản bằng tiếng Pháp gần đây nhất và cũng đầy đủ nhất gồm toàn bộ 365 câu, là vào năm 2017. Bản chuyển ngữ tiếng Việt dưới đây được dựa vào ấn bản mới này. Người đọc cũng có thể tham khảo bản tiếng Anh của quyển sách này: "365 Dalai-Lama: Daily Advice From The Heart" (Hampton Roads Publishing Company, 2012).
Các câu "suy tư" trong quyển sách này chính thật là những "lời khuyên", giúp chúng ta biến cải chính mình hầu đối phó hay thích nghi với mọi cảnh huống trong cuộc sống, từ trong gia đình đến ngoài xã hội, từ trên thân xác đến bên trong nội tâm mình. Những lời khuyên rất thiết thực nhưng cũng thật thâm sâu này của Đức Đạt-lai Lạt-ma đã được nhà sư Matthieu Ricard trực tiếp ghi chép bằng tiếng Tây Tạng, và sau đó đã được học giả Christian Bruyat dịch sang tiếng Pháp.
Nếu nhìn Phật giáo như là một tín ngưỡng thì tín ngưỡng đó không hề bị ám ảnh bởi cái chết và những lời hứa hẹn phía sau cái chết, bởi vì đối với Phật giáo thì cái chết cũng chỉ là một thành phần của sự sống mà thôi. Những lời khuyên trong quyển sách này nhất thiết chỉ nói lên sự sống đó với tất cả các khía cạnh khó khăn cũng như thuận lợi của nó. Thật ra thì đấy cũng là những gì hiện lên bên trong tâm thức và trên thân xác mình trong từng ngày. Do đó chúng ta có thể xem quyển sách này như là một quyển sách "gối đầu giường", hoặc một người bạn đồng hành trong cuộc sống của mình. Mỗi khi cần phải đối phó với một nghịch cảnh hay gặp phải một vấn đề nan giải thì biết đâu chúng ta cũng có thể tìm được một vài lời khuyên trong sách để suy ngẫm hầu tìm một giải pháp thích nghi.
Quyển sách gồm tất cả năm phần:
I. Suy tư về sự sống (câu 1 đến 48)
- Sự sống nói chung (1 - 16)
- Tuổi trẻ (17 - 35)
- Tuổi trưởng thành (36 - 42)
- Tuổi già (43 - 48)
II. Suy tư về các cảnh huống trong cuộc sống (câu 49 đến 129)
- Đàn ông và đàn bà (49 - 53)
- Cuộc sống trong gia đình (54 - 70)
- Cuộc sống độc thân (71 - 74)
- Cuộc sống tập thể (75 - 79)
- Cuộc sống sung túc (80 - 92)
- Cuộc sống trong cảnh nghèo khó (93 - 97)
- Bệnh tật (98 - 101)
- Những kẻ tật nguyền và những người chăm sóc họ (102 - 105)
- Người sắp lìa đời và những người thân chung quanh (106 - 118)
- Công ăn việc làm và tình trạng thiếu giải trí (119 đến 120)
- Nhà giam và các tù nhân (121 - 129)
- Đồng tính luyến ái (130 - 132)
III. Suy tư về cuộc sống tập thể trong xã hội (câu 133 đến 181)
- Chính trị (133 - 139)
- Công lý (140 - 144)
- Tương lai thế giới (145 - 147)
- Giáo dục (148 - 150)
- Khoa học và kỹ thuật (151 - 153)
- Thương mại và kinh doanh (154 - 156)
- Nghệ thuật viết lách và nghề làm báo (157 - 161)
- Canh nông và môi trường (162 - 167)
- Chiến tranh (168 - 175)
- Dấn thân vì kẻ khác (176 - 181)
IV. Suy tư về các khó khăn trong cuộc sống (câu 182 đến 304)
- Hạnh phúc (182 - 188)
- Bất hạnh (189 - 198)
- Yếm thế (199 - 210)
- Sợ hãi (211 - 215)
- Tự tử (216 - 219)
- Cô đơn và sự cô lập (220 - 229)
- Giận dữ (230 - 241)
- Kiềm tỏa dục vọng (242 - 247)
- Ganh tị và chứng ghen tuông (248 - 253)
- Kiêu hãnh (254 - 257)
- Khổ đau (258 - 267)
- Rụt rè (268 - 271)
- Do dự (272)
- Oán ghét chính mình (273 - 276)
- Nghiện rượu và ma túy (277 - 280)
- Đam mê tình ái (281 - 285)
- Thiếu suy nghĩ (286 - 289)
- Tính hay nói xấu (290 - 294)
- Tính độc ác (295 - 303)
- Thờ ơ (304 308)
V. Suy tư về cuộc sống tâm linh (309 -365)
- Người có đức tin (309 - 315)
- Người vô thần (316 - 327)
- Người tu sĩ và cuộc sống nơi tu viện. (328 - 339)
- Người hành thiền (340)
- Đức tin (341 - 344)
- Các giáo phái (345 - 347)
- Người muốn bước theo con đường Phật giáo (348 - 356)
- Việc Tu tập Phật giáo (357 - 365).
Suy tư về sự oán ghét chính mình
273
Oán ghét chính mình là một thái độ vô cùng tiêu cực. Nếu chịu khó đào sâu thêm một chút phía sau những biểu lộ bên ngoài, thì người ta sẽ nhận thấy ngay hình thức hận thù đó chỉ đơn giản là kết quả mang lại bởi ý nghĩ tự cao tự đại của mình, với bất cứ giá nào mình phải là người hoàn hảo nhất. Thế nhưng nếu hình ảnh lý tưởng đó về chính mình còn thiếu sót một chi tiết dù nhỏ nhặt đến đâu đi nữa, thì mình cũng vẫn không sao chịu đựng nổi. Cảm tính đó (tức là oán ghét chính mình) cũng là một hình thức kiêu hãnh.
274
Tôi vô cùng sửng sốt khi lần đầu tiên nghe nói đến cảm tính oán ghét chính mình. Tôi tự hỏi làm thế nào mà mình lại có thể oán ghét chính mình được. Tất cả mọi người đều yêu thương chính mình kể cả thú vật. Sau khi suy nghĩ thì tôi tự nhủ đấy cũng chỉ là một cách yêu thương chính mình quá đáng mà thôi (muốn mình là một con người lý tưởng thế nhưng mình thì lại không được lý tưởng đến như vậy. Sự thất vọng sâu xa đó khiến mình quay ra oán ghét chính mình. Oán ghét chính mình có thể hiểu như là oán ghét "cái tôi" của mình khi nó trở thành một niềm ray rứt hay thất vọng bên trong chính mình).
275
Có một điều thật chắc chắn là nếu không thể đối xử nhân từ với chính mình thì mình cũng sẽ không thể nào đối xử nhân từ với kẻ khác được. Nếu muốn bộc lộ tình thương yêu và sự trìu mến của mình đối với kẻ khác, hoặc mang lại hạnh phúc cho họ và giúp họ tránh né khổ đau, thì mình cũng phải phát động được các cảm tính nhân từ đối với bản thân mình trước đã, nhờ đó mình mới ý thức được là kẻ khác cũng có những ước vọng chẳng khác gì mình, và khi đó thì tình thương yêu và lòng từ bi mới có thể hiện lên với mình được.
Vì thế một khi mình vẫn còn thù ghét chính mình thì mình sẽ không thể nào thương yêu kẻ khác được. Vì vậy nếu không cố gắng biến cải thái độ đó nơi mình (thay đồi thái độ thù ghét chính mình) thì quả hết sức khó cho mình có thể tìm được sự an bình và niềm hân hoan bên trong nội tâm mình. Đấy là cách mà mình sẽ làm hỏng cả cuộc đời mình. Điều đó chẳng phải là ngu xuẩn lắm hay sao? Đúng ra tôi không nên nói ra điều đó, thế nhưng sự thật là như vậy (hãy cứ yêu thương chính mình để biết thương yêu kẻ khác).
276
Nếu muốn hóa giải sự oán hận chính mình thì phải ý thức được hình ảnh sai lầm về mình do chính mình tạo ra cho mình, đồng thời trau dồi sự tự tin đích thật và lành mạnh về mình, dựa vào các phẩm tính nhân bản nơi mình. Hãy giữ sự khiêm tốn và hướng vào kẻ khác nhiều hơn.
Suy tư về tệ nạn nghiện rượu và ma túy
277
Những người nghiện rượu và ma túy thường ý thức được là các thứ ấy sẽ hủy hoại đời mình, thế nhưng họ không phát động được sự quyết tâm cần thiết bên trong chính mình để mà dừng lại. Sự yếu đuối đó cũng như sự mong manh của tâm thức khi phải đối đầu với các vết thương sâu kín bên trong nội tâm mà chúng ta đã có dịp nói đến trên đây (câu 258), có thể là một khía cạnh thuộc vào bản tính của một cá thể (nghiện rượu và ma túy phản ảnh một sự yếu đuối không cưỡng lại được sự thèm khát một số giác cảm thuộc thân xác và cả tâm thần. Sự thèm khát đó phát sinh từ nghiệp sâu kín bên trong chính mình, do vậy thật hết sức khó hóa giải được sự thèm khát đó).
278
Tất cả mọi người đều hiểu rằng ma túy có hại cho sức khỏe và khiến tâm thức hoang mang. Dù ma tuy có thể tạm thời làm giảm bớt các sự sợ hãi và lo âu, đối với khổ đau cũng vậy nó không thể nào làm cho chấm dứt được, mà chỉ có thể che lấp trong một lúc nào đó mà thôi.
Nếu muốn vượt lên trên khổ đau thì trước hết phải nhận diện được nó, xác định được bản chất của nó và các nguyên nhân tạo ra nó, và đấy là những gì mà sự hoang mang (tình trạng ngây ngất, mơ màng, say sưa hay đờ đẫn) tạo ra bởi các chất ma túy không thể nào làm được (nói một cách khác là thể dạng "minh mẫn" và "trong sáng" của tâm thức mang lại bởi thiền định là một thể dạng hoàn toàn đối nghịch với thể dạng "lâng lâng" và "ngây ngất" do ma túy tạo ra. Người hành thiền cũng nên quan tâm đến điều này, không nên để cho việc hành thiền của mình trở thành một thứ "ma túy" hay một sự trốn tránh hiện thực).
279
Trong một phim phóng sự trên đài truyền hình BBC (của nước Anh), tôi thấy các người Nga trẻ tuổi cho biết sự thích thú tạo ra bởi ma túy mạnh hơn nhiều so với sự thích thú tính dục, dù rằng sự thích thú này thường được xem là mạnh nhất nơi con người và cả thú vật (sự thích thú tính dục phát sinh từ bản năng truyền giống, trong khi đó sự thích thú tạo ra bởi ma túy là để trấn át các sự lo âu, các nỗi đau buồn, cô đơn... là các cảm tính khá mơ hồ phát sinh từ sự lo sợ trước các sự sinh hoạt trong gia đình và ngoài xã hội, nói chung là sự sống.
Có một triết gia cho rằng: "tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân", điều này không phải là hoàn toàn sai. Ma túy có thể tạo ra sự hoang mang, mất định hướng, thế nhưng cũng có thể tạo ra sự "thèm khát" cực mạnh đưa đến các hình thức cực đoan, dễ bị người khác khích động và lèo lái. Nếu xã hội ý thức được sự tai hại của ma túy, thì những người làm chính trị cũng nên thận trọng trong chủ trương công cụ hóa tôn giáo).
Người ta từng tìm hiểu xem sức mạnh nào hàm chứa bên trong các chất ma túy lại có thể che lấp được các sự nguy hiểm do chính chúng gây ra, và tại sao sự đờ đẫn và hoang mang (tạo ra bởi ma túy) lại có thể trấn át được các nỗi lo buồn và tình cảnh khó khăn của chúng ta? Tôi thường nói nửa đùa nửa thật rằng tâm thức chúng ta đã thừa đủ làm con mồi cho những sự lầm lẫn, nào có cần gì phải ghép thêm cho nó những thứ ma túy ấy đâu (tâm thức mình đã có sẵn ba thứ độc tố là các sự u mê, thèm khát và hận thù, bấy nhiêu đó cũng đã thừa đủ, không nên ghép thêm cho nó các thứ độc tố của ma túy bên ngoài)!
280
Giáo dục, sự trợ giúp của những người chung quanh và sự ý thức sáng suốt về hậu quả tai hại của ma túy có thể góp phần mang lại sức mạnh cần thiết giúp các bạn cưỡng lại sự nghiện ngập. Thay vì chỉ biết tìm kiếm một thứ hạnh phúc cấp thời, giả tạo và phù du, chắc chắn sẽ mang lại khổ đau cho mình, thì các bạn nên kiến tạo sự an bình và hạnh phúc bên trong nội tâm mình, là các thứ không lệ thuộc vào các cảnh huống xảy ra và các chất liệu chuyển tải bên ngoài (tức là các chất ma túy).
Tương tự như trong các lời khuyên dành cho tuổi trẻ mà tôi đã có dịp nói đến trên đây, các bạn hãy nhìn vào các phẩm tính của chính mình, phát động sự tin tưởng nơi bản chất của mình, và hãy tập đứng thẳng trên đôi chân của chính mình. Dầu sao cũng nên hướng vào kẻ khác nhiều hơn là chỉ biết nhìn vào chính mình (để thương yêu họ). Tôi tin rằng sự can đảm (giúp mình chống lại sự nghiện ngập) sẽ gia tăng đồng loạt với sự phát triển của lòng vị tha.
Suy tư về sự đam mê tình ái
281
Thông thường các thứ nhãn hiệu, như tốt đẹp hay tồi tệ, xinh đẹp hay xấu xí, mà chúng ta dán lên cho kẻ khác và mọi sự vật, đều liên hệ đến sự thèm khát bên trong chính mình (các sự thúc đẩy của nghiệp - sự u mê, thèm khát và ghét bỏ - bên trong tâm thức sẽ ảnh hưởng đến cách nhìn của mình về người khác và mọi sự vật trong môi trường chung quanh). Nguời ta xem là tốt đẹp những gì mình yêu thích, xấu xí những gì mình ghét bỏ.
Các sự đánh giá đó chỉ đơn giản là các thứ sáng chế của tâm thức mình. Nếu như sự tốt đẹp thật sự hiện hữu từ bên trong đối tượng (một người hay một sự vật nào đó) thì tất cả chúng ta sẽ nhất loạt bị thu hút bởi con người hay sự vật đó, không cưỡng lại được (cùng một con người hay một sự vật, thế nhưng người thì ưa thích, người thì ghét bỏ, tất cả tùy thuộc vào các xúc cảm phát sinh từ nghiệp ghi khắc trên dòng tri thức của mỗi cá thể khi nó tiếp xúc với các tín hiệu cảm nhận của ngũ giác được đưa vào tâm thức).
282
Sự thèm khát dục tính (các sự thúc đẩy của bản năng truyền giống) vận dụng đồng loạt tất cả các cơ quan giác cảm (vóc dáng, giọng nói, mùi, vị, sự cọ sát và cả các sự tưởng tượng hay liên tưởng/fantasies hiện ra trong tâm thức) tạo ra một tác động thật mạnh có thể khiến các sự cảm nhận của mình đạt đến chỗ tột đỉnh của chúng. Sự đam mê của tình yêu nam nữ sẽ khiến người đàn ông hay đàn bà mà mình say mê hiện ra thật hoàn hảo trên mọi lãnh vực, một sự hoàn hảo thật trọn vẹn và bền vững, đáng để mình yêu thương mãi mãi.
Trong từng nét nhỏ nhặt của người mình yêu đều tỏa ra một vầng hào quang thật kỳ diệu (khiến một nhác sĩ có thể sáng tác được các dòng nhạc thật trữ tình, một thi sĩ viết được các vần thơ thật ướt át, một họa sĩ vẽ được các đường nét thật dễ thương và khêu gợi...).
Chúng ta không sao tưởng tượng được là mình có thể sống thiếu người đàn ông hay người đàn bà ấy được. Thế nhưng tiếc thay, từ bản chất tất cả các thứ ấy đều biến đổi, các nét mà trước đây chúng ta nhận thấy thật đáng yêu vụt biến mất sự hấp dẫn của chúng chỉ vì một lời nói hay một cử chỉ nào đó, có thể chỉ là nhỏ nhặt. Tệ hơn nữa là nếu chúng ta khám phá ra người mà trước đây dưới mắt mình thật hoàn hảo lại yêu một người khác, thì tức khắc người này sẽ trở thành hoàn toàn đáng ghét.
Dù vóc dáng của một người nào đó không có gì là tuyệt vời lắm, thế nhưng một người khác có thể cảm thấy cái vóc dáng ấy vô cùng đáng yêu và đáng mến, chẳng qua vì sự cảm nhận đó được tô đậm bởi màu sắc của nghiệp ẩn nấp sâu kín từ phía sau tâm thức của người này. Sự cảm nhận đó có thể biến thành nguồn cảm hứng đưa đến các sáng tác nghệ thuật đủ các thể loại: âm nhạc, thi phú, văn chương, v.v. Một số trở thành các kiệt tác muôn đời và được xếp vào gia tài văn hóa quốc gia hay nhân loại.
Thế nhưng qua lời khuyên trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma thì đấy cũng chỉ là các sản phẩm phát sinh từ sự thèm khát dục tính, một hình thức đam mê và bám víu. Chẳng phải đấy là hai mặt của một sự nghịch lý nơi bản năng truyền giống hay sao? Một mặt là "tình yêu" che dấu phía sau nó là các thứ khổ đau đủ loại: bất hòa, cãi vã, ghen tưông, sinh con đẻ cái, nuôi nấng, dạy dỗ..., tạo ra mọi thứ khổ nhọc và "bất toại nguyện" thường xuyên.
Mặt khác là sự "say mê" và "đắm đuối" trước vóc dáng của nhau, khoác lên cho nhau những những vần thơ ướt át, hát cho nhau nghe những khúc nhạc thật êm dịu, cho nhau mùi hương của da thịt, sự đụng chạm, các cử chỉ quấn quýt, sự nhớ nhung và... tưởng tượng. Dường như khía cạnh thứ hai này giúp con người chịu đựng khía cạnh thứ nhất tức là các thứ khổ đau mang lại bởi "tình yêu" và cuộc sống lứa đôi. Bản năng truyền giống quả là một sáng chế tuyệt vời của thiên nhiên hầu đảm bảo cho sự tồn vong của giống người và nhân loại).
283
Nếu cảm thấy các thứ bám víu đó (yêu thương hay ghét bỏ) đè nặng mình một cách quá đáng thì các bạn hãy nhìn lại tình trạng của mình một cách thật thư giãn qua tất cả các khía cạnh của nó. Nên hiểu rằng mọi sự đều thăng trầm, kể cả cái đẹp cũng như những sự thích thú, tất cả cũng chỉ là các tạo tác tâm thần.
Sự ý thức đó sẽ mở ra cho các bạn một tầm nhìn khác hơn. Tuy nhiên đôi khi các bạn cũng chỉ cần đơn giản tưởng tượng người yêu của mình sẽ hiện ra với mình như thế nào, khi bất chợt mình bắt gặp người ấy đang phản bội mình, hoặc có một cử chỉ nào đó hoàn toàn ngược hẳn lại với hình ảnh lý tưởng mà mình đã từng hình dung ra về người yêu của mình.
284
Hãy phân biệt giữa tình yêu đích thật và sự bám víu. Tình yêu đích thật, qua khía cạnh lý tưởng của nó, sẽ không hề chờ đợi một sự hồi đáp nào, cũng không tùy thuộc vào các cảnh huống bên ngoài. Trái lại sự bám víu không sao tránh khỏi sự đổi thay trên dòng chuyển biến của xúc cảm và các biến cố xảy ra.
285
Tình yêu kết nối giữa hai người phần lớn tùy thuộc vào sự thu hút tính dục (bản năng truyền giống). Sự kết nối đó chỉ có thể đích thật và lâu bền khi nào sự lựa chọn giữa hai người - ngoài sự hấp dẫn của thân thể nhau - còn phải dựa vào sự hiểu biết và tương kính.
Suy tư về sự thiếu suy nghĩ
286
Thông thường chúng ta nhận thức hiện thực một cách sai lầm và diễn đạt sự nhận thức đó bằng các ngôn từ, nhưng lại hoàn toàn không hề ý thức được đấy là cách mà mình đang nói dối (câu này rất quan trọng, nói lên một căn bản triết học vô cùng chủ yếu của Phật giáo.
Chúng ta nhận thức hiện thực xuyên qua ngũ giác và tâm thần, sự nhận thức đó hoàn toàn bị méo mó bởi ba yếu tố: 1) khả năng giới hạn của ngũ giác; 2) tình trạng vô minh của tâm thức, ảnh huởng bởi hai thứ độc tố là sự bám víu và ghét bỏ sẽ không cho phép tâm thức nhận thức được bản chất đích thật của mọi sự vật là những gì cấu hợp, luôn ở trong tình trạng chuyển động và đổi thay, trống không và vô thực thể: 3) ngôn từ mà mình sử dụng để diễn đạt sự nhận thức sai lầm đó cũng chỉ là các quy ước và khái niệm tạo dựng bởi tâm thần, hoàn toàn tách rời khỏi hiện thực.
Tuy nhiên dưới đây Đức Đạt-lai Lạt-ma cũng chỉ nêu lên sự "nói dối" này qua một thí dụ thật đơn giản và dễ hiểu. Thí dụ này tuy không diễn tả được hết sự sâu sắc trong khái niệm triết học này trong Phật giáo, nhưng rất đơn giản, thực dụng và dễ hiểu). Ở Tây Tạng người ta thường thuật lại cho nhau câu chuyện sau đây về một người từng trông thấy một con cá thật to. Những người được nghe anh ta kể chuyện thường hỏi anh ta thế thì con cá to như thế nào.
Anh ta vừa trả lời vừa ra dấu bằng hai tay cho biết kích thước thật to của con cá. Các người nghe vẫn cứ muốn biết kích thước đúng thật của con cá. Vậy thì nó to bằng chừng nào? Lúc đó kích thước của con cá trở nên khiêm tốn hơn. Cứ nói thật đi, nó to bằng chừng nào? Thế là lần này con cá trở thành bé tí xíu.
Người ta không thể bảo rằng lúc đầu anh ta nói dối, mà đơn giản chỉ vì anh ta không quan tâm đúng mức vào những gì mình nói (con cá hóa thành to hơn hiện thực bởi vì nó được nhận biết xuyên qua thị giác và sự diễn đạt của người trông thấy, ngôn từ thì cũng chỉ là những gì chủ quan và phóng đại, to hay nhỏ phát sinh từ sự bám víu hay ghét bỏ: bám víu thì con cá sẽ "rất to", ghét bỏ thì nó sẽ bé "tí xíu").
Quả hết sức lạ lùng, lắm người dường như vẫn cứ nói năng theo cung cách đó. Người Tây Tạng cũng đã quen như thế. Mỗi khi họ thuật lại một câu chuyện thì họ không hề đưa ra một bằng chứng nào cả, và cũng chẳng có ai thắc mắc từ đâu phát sinh ra các câu chuyện ấy, và làm thế nào các chuyện ấy lại đến tai mình.
Những người có các xu hướng ăn nói như thế nên cẩn thận hơn về những gì mình nói ra (một lời khuyên thật ý nhị, chỉ trích người Tây Tạng nhưng thật ra là khuyên tất cả chúng ta - trong đó có những người trong các ngành truyền thông và chính trị. Từ chuyện một con cá được phóng đại đến chuyện nói dối của ngôn từ, tất cả tạo ra một thế giới không thật mà tách ra khỏi hiện thực. Không những người nói phải "ý thức" được sự nói dối của mình mà người nghe cũng phải "nhận thấy" tính cách dối trá đó trong những lời của họ).
287
Từ một góc nhìn nào đó, tốt hơn là không nên nói nhiều, chỉ nói khi nào có điều gì quan trọng để nói. Ngôn từ là một nét đặc thù và tuyệt vời của giống người. Các khái niệm và ngôn từ mà chúng ta sử dụng sẽ cô lập hóa một cách giả tạo mọi sự vật (tâm thức xác định một sự vật xuyên qua sự nhận thức chủ quan và phiến diện của nó, và sau đó thì diễn tả sự hiểu biết méo mó đó bằng các ngôn từ quy ước, tức là một sự méo mó thứ hai.
Điều đó cho thấy sự nhận thức của chúng ta tách rời mọi sự vật ra khỏi hiện thực), trong khi đó thì các sự vật, do khái niệm hay ngôn từ chỉ định, thì lại mang thật nhiều sắc thái (thể dạng, khía cạnh/facets) khác nhau, các sắc thái này biến đổi không ngừng dưới tác động của vô số các nguyên nhân và điều kiện (thí dụ hai người ở hai vị trí khác nhau nhìn vào cùng một vật thể, chẳng hạn như một cái bàn, thì cái bàn đó sẽ hiện ra dưới hai hình tướng khác nhau vì được nhìn từ hai góc nhìn khác nhau.
Nếu một trong hai người là người Việt Nam thì sẽ cho biết: "Đây là cái bàn", nếu là một người Mỹ thì sẽ thốt lên: "It's a table". Có thể một trong hai người "thích" cái bàn người kia thì "không". Xúc cảm hiện lên trong tâm thức của hai người phản ảnh sự bám víu hay ghét bỏ của họ đối với cái bàn. Đối tượng của sự trông thấy - của cả hai người - bị tách rời ra khỏi hiện thực của nó là như vậy).
Mỗi khi xác định một sắc thái (thể dạng/khía cạnh) nào đó của hiện thực, thì đồng thời người ta cũng gạt bỏ ra ngoài tâm thức tất cả các sắc thái khác của hiện thực đó, và chỉ định đối tượng mà mình đã chọn lựa - tức là một sắc thái nào đó của hiện thực mà mình đang hướng vào đó - bằng một một ngôn từ chỉ áp dụng cho nó và để nhận diện được nó mà thôi ("cái bàn" là một quy ước được xác định bởi một mặt phẳng gồm có bốn chân, dùng để đặt một vật gì trên đó, tâm thức gạt bỏ các khía cạnh khác: chẳng hạn như màu sắc, cũ mới, to nhỏ, làm bằng gỗ, và nếu muốn có gỗ thì phải có một hạt giống, nhờ đất, nước, ánh sáng mặt trời hạt giống trở thành một cây cổ thụ, người tiều phu cưa cây, người thợ mộc đóng bàn...
Hiện thực là một thể dạng cấu hợp mang tính cách tương liên và tương kết giữa nhiều nguyên nhân và điều kiện, xuyên qua không gian và thời gian. Khi nói lên cấu hợp đó bằng ngôn từ "cái bàn" thì đấy chỉ là một quy ước phản ảnh một sắc thái của hiện thực do tâm thức tạo dựng ra từ bên trong nó mà thôi).
Sau đó tùy theo thói quen nhận định về đối tượng đó (trong thí dụ trên đây là "cái bàn) mà người ta tạo ra thêm một sự phân biệt khác kèm theo với nó: đây là một vật tốt, đây là một vật xấu, và cứ tiếp tục như thế... (tức là sự nhận định chủ quan được nhuộm thêm đủ thứ màu sắc phát sinh từ các xúc cảm, tức là những gì phát sinh từ nghiệp của một cá thể, khi cá thể này trông thấy một sắc thái nào đó của hiện thực), thế nhưng trên thực tế thì không thể nào gán một đặc tính nội tại nào cho bất cứ một thứ gì cả, mà đấy chỉ là kết quả mang lại từ một góc nhìn về hiện thực, khá lắm cũng chỉ phản ảnh được một phần nào đó của hiện thực (kể cả khoa học với máy móc tối tân cũng chỉ xác định được một sắc thái, một khía cạnh hay một đặc tính nào đó của hiện thực), hoặc tệ hơn thì đấy chỉ là cả một sự lầm lẫn (phiến diện và chủ quan, một sự "nói dối").
Dù ngôn từ có phong phú đến đâu đi nữa thì khả năng của nó cũng thật giới hạn. Chỉ có các kinh nghiệm cảm nhận phi-khái-niệm (một sự nhận biết bằng trực giác) mới có thể giúp mình nhận thức được bản chất đích thật của mọi sự vật (mọi sự vật đều mang tính cách cấu hợp, gồm chung các yếu tố tâm thần và các điều kiện của môi trường bên ngoài, trong đó kể cả không gian và thời gian, tất cả hiện ra với mình dưới hình thức các "hiện tượng". Do đó thật hết sức khó để nhận diện hiện thực qua các hiện tượng đó, vì thế các kinh nghiệm thiền định rất cần thiết giúp vượt lên trên ngôn từ, khái niệm và sự lý luận, hầu quán thấy hiện thực một cách trực tiếp hơn. Sự quán thấy đó sẽ mang lại cho chúng ta những sự hiểu biết thật sâu sắc về thế giới và bản chất của nó)
288
Các vấn đề tế nhị liên quan đến ngôn từ có thể nhận thấy trong nhiều lãnh vực, chẳng hạn như chính trị. Các chương trình hành động được các chính trị gia thiết lập thường quá đơn giản, trong khi các vấn đề phải giải quyết thì lại quá phức tạp, liên hệ đến thật nhiều yếu tố. Họ làm cứ như là có thể giải quyết được các vấn đề đó bằng cách chỉ cần dựa vào một vài khái niệm hay ngôn từ, chẳng hạn như chủ nghĩa Mác-xít, chủ nghĩa Xã-hội, chủ nghĩa Tự-do, chủ nghĩa Bảo-hộ (Protectionism), v.v.
Trước một khối khổng lồ gồm không biết bao nhiêu nguyên nhân và điều kiện tạo ra một tình trạng nào đó, các chính trị gia chỉ tách riêng ra một hai nguyên nhân và điều kiện, bất chấp đến số còn lại, vì vậy họ chẳng bao giờ tìm được một giải đáp đúng đắn, và mọi sự lầm lẫn đều có thể xảy ra được.
Theo tôi thì đấy là cội nguồn của tất cả mọi thứ khó khăn. Tiếc thay, chúng ta không có một phương tiện nào khác hơn ngoài ngôn từ và khái niệm (Đức Đạt-lai Lạt-ma nêu lên một nguyên lý thật căn bản của hiện thực là sự tương liên và tương tác thật phức tạp giữa mọi hiện tượng, và sự diễn đạt méo mó của tâm thức đối với hiện thực bằng các ngôn từ quy ước và phiến diện, chẳng hạn như chuyện con cá thật to trên đây.
Trong lời khuyên này Ngài ứng dụng sự hiểu biết đó vào lãnh vực chính trị. Nói chung nếu thấu triệt được giáo lý của Đức Phật thì chúng ta có thể ứng dụng sự hiểu biết đó vào bất cứ một lãnh vực nào của hiện thực, mang lại cho mình một sự nhận định thận trọng hơn và một cung cách hành xử đúng đắn hơn. Phật giáo không phải chỉ là nghi lễ).
289