;
Am Thụy Ứng
Năm 1947, Pháp về hành quân làng Thi Ông, thấy địa điểm đặc biệt, thuận lợi cho việc đóng quân (vì có khúc sông gọi là Bến cạn), nên chúng quyết định đóng quân tại đồn Thi Ông, phía Nam con sông. Phía Bắc là nhà dân chúng ở. Ngay trước mặt đồn, cách con sông khoảng 300 đến 400m, thường đêm Việt minh về tuyên truyền bên này sông. Đồn Pháp bên kia sông, bắn qua từng loạt dữ dội, loại đạn 81ly. Có cả loại đạn 105ly (canông) ở quận Hải Lăng và Quảng trị dội về. Cho nên tất cả mọi gia đình đều có hầm núp bom đạn.
Một hôm Việt minh về tuyên truyền và hai bên đã đánh nhau dữ dội. Đồn Pháp kêu gọi đạn pháo từ Diên sanh, Quảng trị dội về từng loạt ác liệt. Trong gia đình ông tôi lúc đó có tám người; Có thêm mệ ngoại ở lại và gia đình ông chú ruột, cả thảy 10 người, tất cả đều vào núp hầm này. Khoảng 2 giờ sáng tiếng pháo kích mới tạm ngừng, tất cả mọi người ra khỏi hầm thở phào nhẹ nhõm. Đến 7giờ sáng thì phát giác chính giữa, trên nóc hầm, một quả đạn pháo chưa nổ, thò cái đuôi khếnh lên trên mặt đất hầm. Ông nội tôi qua báo bên đồn Pháp, tên quan ba làm đồn trưởng cho hai lính Pháp tên là Rađiô và Rôben qua xem xét. Tên Rôben bò đến trên nóc hầm cột một sợi dây vào đuôi quả pháo, thả dây đưa ra xa phía ngoài mép một con hói nước chảy. Mọi người chạy ra xa núp vào hầm hoặc gò đất cao. Tên Rôben lôi sợi dây căng ra, một tiếng nổ vang dội, tất cả đều hú hồn hú vía.
Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước tạm bình yên, hầm vẫn được giữ nguyên vậy. Ông tôi (Võ Đình Ứng) làm trên đó một cái Am tranh tre, tạm thỉnh một tượng Phật bằng giấy về thờ.
Năm 1966, vào ngày 14-2, Thi Ông xảy ra một trận đánh ác chiến, khốc liệt. Giặc huy động cả xe tăng thiết giáp và máy bay (một chiếc thiết giáp cháy tại ruộng Hộ phiên). Số đông ông bà lão không chạy được, nhờ trú nơi Am cốc này mà thoát qua đại nạn. Trong trận đó, một trung đội nghĩa quân xã đã tử nạn tại phía Nam sông, đất Phong Trào.
Tháng 2- 1972, chiến cuộc Quảng trị sôi động, cũng nhờ Am cốc này mà mấy chục ông bà già cả ở lại quê hương không chạy được, đã đến nơi đây tạm trú và được yên ổn.
Trước năm 1975, đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh. Quảng Trị lại là mảnh đất gánh chịu sự cày xéo của bom đạn tiêu điều khốc liệt nhất. Bờ Hiền Lương, sau hiệp định Giơnevơ 1954 trở thành ranh giới chia cắt giữa hai miền Nam Bắc. Chiến trận Quảng Trị của "mùa hè đỏ lửa" có ai nhắc đến cái tên đó mà không biết đến sự ác liệt.
Mời quý vị nghe một câu chuyện mầu nhiệm dưới sức gia trì của Đức Quan Âm. Người được Đức Phật gia hộ chính là ông thân của tôi, thế danh Võ Đình Tọa. Nhân duyên nhiệm mầu sau này đã tiếp tục đưa ông tới con đường xuất gia, đầu sư học đạo với Hòa thượng Thích Đồng Huy và có pháp danh Thích Minh Thông.
Theo lời Thầy tự thuật:
“Trước năm 72, tôi sống ở Thạch hãn, thị xã Quảng trị. Khi chiến cuộc 72 bùng nổ tôi phải về quê đưa ông thân di tản. Về đến quê, gặp ông già, ông nói ngay:
- "Sáng mai nhà mình gặt, lúa chín đầy đồng". Tôi nói: - Mọi người chạy hết rồi, chiến tranh đang bùng nổ. Nhưng ông nhất mực không chịu đi. Khi tôi lên lại thị xã Quảng Trị thì trời vừa tối không thể chạy được nữa. Lúc đó bom đạn pháo mìn bắn phá ác liệt.
Đêm đó, tôi đã ngồi xuống giữa nhà nắm lấy danh hiệu Đức Quan Thế Âm hết lòng trì niệm với một lời thề:
"Nếu con bình an trong tai nạn này mà được trở về đoàn tụ cùng gia đình, nguyên quán, con sẽ dựng am tranh thờ Ngài để sớm hôm phụng thờ, ăn chay niệm Phật quyết lòng giữ đạo". Với hy vọng Ngài cứu lấy mình trong cơn nguy biến này để sáng ngày mai được vào Huế an toàn, tôi thành tâm quỳ xuống khẩn nguyện:
"Kính lạy Ngài, từ 14-3-1972 vào 6giờ chiều tới 6giờ sáng ngày mai con định vào Huế.
Kính lạy Ngài! Từ năm 1959 đến năm 1970 con đã hy sinh tận cùng cho Đạo, con đã từng bị 18 tháng tù giam tại đảo Phú Quốc - 7 ngày biệt giam dưới hố xí (cầu tiêu) tại lao Thừa Phủ cùng Thượng Tọa Thích Như Mãn, Lữ Thượng Công, không lẽ hôm nay bị chết ở đây".
Đúng 6giờ sáng ngày 16-3 âm lịch (1972) tôi nổ máy chiếc xe Honda 68 từ nhà ở thị xã Quảng Trị. Đi khoảng 300m đến ngã tư rẽ vào Huế thì bất thần có hai Thủy quân lục chiến (TQLC) từ dưới mép hồ nhảy lên chắn đường, Họ dí hai khẩu R16 có gắn lưỡi lê vào hông tôi và bảo: "Không được tắt máy, nếu không nghe chết cả người lẫn xe tại chỗ, bảo lái đi đâu phải nghe theo đấy". Hồn vía tôi bấy giờ bay đi đâu hết chỉ biết chạy theo lệnh của họ.
Trên suốt con đường từ Quảng Trị vào Huế đông nghẹt người chạy tản cư, nhiều đoạn người đông như kiến không chen nổi, hai tên (TQLC) một tay bám chặt lấy xe, một tay gạt mọi người ra để đi. Có đoạn hàng vài kilômét họ kéo bừa để lôi xe tới, tôi cứ ngồi trên xe dùng chân chọi. Kẹt nhất là đoạn cầu Dài, hai người dùng súng gạt mọi người mới lôi xe qua được cầu.
Chúng tôi đến được cầu Mỹ chánh. Từ đó vào cầu Bến đá - Phò trạch, đoạn đường này thưa người nhưng rất nguy hiểm! Cứ khoảng 3 đến 5m lại có một tốp từ ba đến năm tên, súng lẻ, lựu đạn, dao găm chặn đường giết người cướp của. Họ (hai người TQLC) nhẩy xuống xe, đổi vị trí ngồi, một người ngồi chĩa súng về phía trước, một người quay mặt và chĩa súng về phía đằng sau. (Hai người dùng cách đó để đề phòng, sợ khi qua mặt những kẻ bên đường bắn phía sau, lỡ có bất trắc thì liền nổ súng).
Khi đến Phò trạch tôi thấy người Quảng Trị ra đón thân nhân rất đông, nhưng hai người bảo không được dừng và lấy súng gạt mọi người ra rồi bắt chạy đến đồi cây số 23, rẽ phải lên núi 100m, có con đường mòn đất đỏ. Tới nơi họ bắt dừng xe lại. Xuống xe, hai tên xoay mặt vào tôi và nói:
- "Ông nghe đây - bây giờ tôi nói ông nghe nhưng chưa hiểu, vì hồn vía ông bay mất hết rồi. Hai thằng tôi chính là kẻ hộ tống ông vào đây, Nếu ông đi một mình thì chết mười mạng rồi. Từ bến Đá vào đây bọn lẻ tẻ chính là bọn chặn người cướp của. Thôi ông quay về đi"
Hai người đi khoảng 10m thấy tôi vẫn đứng, họ quay lui bảo:
- "Ông về đi, đứng đây một mình nguy hiểm "
Nghe vậy tôi mới quay xe trở lại Phò trạch. Chạy tới một quán nước, xin một chai nước cam uống. Mọi người xúm tới hỏi chuyện rất đông nhưng tôi không nhớ được chi hết. Uống xong từ 10- 15phút sau, tôi mới dần nhớ lại: Chiếc xe 68 vẫn còn, rờ vào tay vẫn còn chiếc đồng hồ, kiểm tra trong túi vẫn còn tiền. Đến 20 phút sau tôi mới nhớ lại toàn bộ sự việc từ chiều hôm qua cho tới giờ phút này. Tôi thấy hết sức mầu nhiệm nên sụp lạy tại chỗ đang uống nước cam. Mọi người xung quanh tưởng tôi mất hồn vía, nên đến đỡ dậy. Tôi gạt mọi người và bảo: Để tôi lạy xong, tôi kể lại cho mọi người nghe.
Khi đang kể chuyện thì thấy trong Huế có hai chiếc xe 67 chạy ra. Thì ra đó là chuẩn úy Chấn và chuẩn úy Lạc mà tôi có quen biết từ lâu. Hai người đến nghe chuyện liền nói với tôi và mọi người:
- "Làm gì còn thủy quân lục chiến, rút hết cách đây một tuần lễ rồi. Hai anh em tôi ở trong bộ tư lệnh truyền tin ra đây. Anh là người luôn luôn tranh đấu cho Phật giáo, hễ ai động đến Phật giáo là có mặt anh. Anh đã hy sinh nhiều cho Phật giáo rồi, nay Quan Thế Âm sai các vị thiên thần hóa người phàm tục giả làm thủy quân lục chiến (loại lính hung bạo, ai thấy cũng sợ) để đưa anh vào đây. Chứ bây giờ làm gì còn thủy quân lục chiến. Thôi, từ nay về sau anh về lo tu đi, ngàn người chỉ có mình anh được sống sót vào tới đây lúc này".
Nói xong họ đi đâu không thấy. Tôi quay xe tìm cũng không thấy họ đâu.
Vào tới Huế, tôi lại đưa gia đình vào Đà Nẵng. Gặp được Phan Tịnh (thủ kho truyền tin cũ) hỏi địa chỉ Phan Ngọc Chấn và Nguyễn Lạc, được biết họ đang ở Chu Lai. Ba tháng sau, ngày 20/7/1972 tôi vào Chu Lai tìm theo địa chỉ tới được nhà hai anh. Cả gia đình hai người rất vui mừng và bảo bẩy năm nay mới gặp lại tôi.
Tôi nói:
- "Mới 14/3 gặp tại Phò Trạch - Huế sao lại nói bẩy năm?"
Cả hai người đều bảo làm gì có chuyện đó, tôi nói:
- "Thôi vào nhà ta nói chuyện tiếp".
Hàng trăm bà con quanh đó đến nghe kể chuyện, cả hai vẫn khẳng định không gặp tôi vào ngày 14/3, vì rằng:
- "Anh cũng giống như người thầy dạy văn hóa cho tụi tôi đi học sĩ quan, sao chúng tôi gặp được anh mà chúng tôi lại bỏ đi, vậy là không có lý”.
Có hàng trăm người tại đó, tôi vẫn cố hỏi đi hỏi lại cho rõ để tôi xác quyết lại sự mầu nhiệm này."
*
Năm 1976, một trận lụt lớn xảy ra, nước đỏ khắp vùng, ông bà già cả cũng đến đây tạm trú trên dưới một tuần lễ đều được an toàn.
Tháng 9 năm 1985 cơn bão số 8 đi qua Quảng trị tàn phá rất nặng nề, cửa nhà sụp đổ, ngập chìm trong lũ. Ông bà lão đến đây trên 30 người cũng được an toàn. Qua cơn bão lụt mọi người ra về hoan hỷ.
Hết Mậu thân 68, đến năm 1972, qua 1975 ông nội tôi và mọi người đều dùng cái hầm tránh bom mà ở lại nhà không chạy đâu cả. Ông vẫn sống cho đến ngày hòa bình lập lại trên quê hương để đoàn tụ với con cháu.
Sau tháng 4-1975, mọi người trở về bước vào đời sống xã hội mới, thời bao cấp tem phiếu của nền kinh tế hợp tác xã. Tôn giáo đi vào một giai đoạn khó khăn mới.
Để tri ân sự mầu nhiệm của Phật Tổ, sự gia hộ của Bồ Tát Quan Âm đã che chở, ông thân tôi quyết định dựng một thảo am trên cái hầm tránh bom để phụng thờ Tam bảo, sớm hôm kinh kệ tu hành, và đặt tên Am là Thụy Ứng.
Từ đó tiếng chuông chiều mõ sớm vẫn ngày đêm đều đặn reo vang trước bao nghịch cảnh của thời cuộc.
Am Thụy Ứng có mặt từ đấy là một Thảo Am tre tranh đơn sơ nhưng sum xuê cây cối và đủ các loại phong lan bám trên thân lộc vừng khoe sắc tỏa hương. Tin vào Phật Pháp, tin vào sức mạnh tâm linh, vào khả năng hành thiện của chính mình; Am Thụy Ứng đã che chắn bom đạn nhiều phen, nay tiếp tục đứng vững cất cao Chánh Pháp cho nhân sinh tin vào sức mạnh tồn tại của Pháp Bụt mà đi tới.
Nơi đây dưới sự gia hộ mầu nhiệm của Chư Phật và Long Thần Hộ Pháp đã giúp ông thành công đi thỉnh ngôi tượng Bổn Sư về thờ vào lúc cam go nhất của thời điểm năm 1975, mà không gặp mảy may rắc rối nào trên đường đi.
Mãi đến 2003 Am tranh mới được thay bằng gạch ngói.
Năm 2005 nhờ một nhân duyên, phật tử Nông Văn Tùng đã phát tâm cúng dường xây dựng một Quan Âm Các. Đài cao hơn 10m, bề thế và duyên dáng, ẩn dưới tán cây bồ đề, bên lũy tre rợp bóng, bờ hói xanh mát. Quan Âm Các xoay mặt về hướng con sông Vĩnh Định.
Đầu năm 2007 tôi quyết định chọn nơi này dừng chân. Mong rằng sẽ đủ nhân duyên để xây dựng Am Thụy Ứng trở thành ngôi Già Lam trang nghiêm trên chính mảnh đất nhiều linh ứng này.