Theo Kinh Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Bồ Tát Phổ Hiền dạy rằng: "Nhược dục thành tựu thử công đức môn, ưng tu thập chủng đại hạnh nguyện":
Nhứt giả lễ kính chư Phật.
Nhị giả xưng tán Như Lai.
Tam giả quảng tu cúng dường.
Tứ giả sám hối nghiệp chướng.
Ngũ giả tùy hỷ công đức.
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân.
Thất giả thỉnh Phật trụ thế.
Bát giả thường tùy Phật học.
Cửu giả hằng thuận chúng sanh.
Thập giả phổ giai hồi hướng.
Nhị giả xưng tán Như Lai.
Tam giả quảng tu cúng dường.
Tứ giả sám hối nghiệp chướng.
Ngũ giả tùy hỷ công đức.
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân.
Thất giả thỉnh Phật trụ thế.
Bát giả thường tùy Phật học.
Cửu giả hằng thuận chúng sanh.
Thập giả phổ giai hồi hướng.
Nghĩa là nếu ai muốn trọn nên công đức của Phật, thời phải tu mười điều hạnh nguyện rộng lớn như sau:
Một là thành tâm kính lễ các đức Phật.
Hai là khen ngợi, tán thán Như Lai.
Ba là thực hành hạnh cúng dường rộng rãi.
Bốn là ăn năn chừa bỏ các nghiệp chướng.
Năm là vui theo các công đức.
Sáu là thỉnh Phật thuyết pháp.
Bảy là thỉnh Phật trụ ở thế gian.
Tám là thường tu học theo lời Phật dạy.
Chín là luôn luôn tùy thuận lợi ích chúng sanh.
Mười là hồi hướng công đức khắp tất cả pháp giới.
Hai là khen ngợi, tán thán Như Lai.
Ba là thực hành hạnh cúng dường rộng rãi.
Bốn là ăn năn chừa bỏ các nghiệp chướng.
Năm là vui theo các công đức.
Sáu là thỉnh Phật thuyết pháp.
Bảy là thỉnh Phật trụ ở thế gian.
Tám là thường tu học theo lời Phật dạy.
Chín là luôn luôn tùy thuận lợi ích chúng sanh.
Mười là hồi hướng công đức khắp tất cả pháp giới.
1) Lễ Kính Chư Phật:
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều dùng thân khẩu ý, tam nghiệp thanh tịnh, thường tu hạnh lễ kính. Nghĩa là chúng ta thường xuyên một lòng thành tâm kính lễ chư Phật mười phương, điều này là lẽ đương nhiên đối với những người Phật tử. Ðiều quan trọng cần lưu ý là chúng ta không những kính lễ mười phương chư Phật quá khứ, tức là chư Phật đã thành, mà chúng ta luôn luôn kính lễ chư Phật trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Chư Phật hiện tại và vị lai là những vị nào, ở đâu, làm sao chúng ta biết được mà kính lễ?
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều dùng thân khẩu ý, tam nghiệp thanh tịnh, thường tu hạnh lễ kính. Nghĩa là chúng ta thường xuyên một lòng thành tâm kính lễ chư Phật mười phương, điều này là lẽ đương nhiên đối với những người Phật tử. Ðiều quan trọng cần lưu ý là chúng ta không những kính lễ mười phương chư Phật quá khứ, tức là chư Phật đã thành, mà chúng ta luôn luôn kính lễ chư Phật trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Chư Phật hiện tại và vị lai là những vị nào, ở đâu, làm sao chúng ta biết được mà kính lễ?
Thông
thường ở thế gian, chỉ khi nào các bậc thánh nhân viên tịch, các nhà
hiền triết qua đời rồi, người đời sau mới nhận ra được và tôn sùng,
chiêm bái. Còn khi các vị đó đương thời, tại thế, vì mê muội, vì ganh tị
đố kỵ, vì gièm pha phỉ báng, nói chung, vì vọng tâm tham sân si che
lấp, không có bao nhiêu người thấy được, hiểu được, cảm nhận được sự
siêu phàm, sự thanh cao bên trong cái hình tướng thế nhân của các vị đó.
Ðó là nói về các bậc chân tu thực học, đạo cao đức trọng, còn đối với
mọi người khác thì sao?
Con
người thường tưởng tượng rằng thánh nhân phải là những người có hình
tướng dị thường, có hào quang tỏa khắp thân, có phép lạ chữa lành bệnh
tật, có thần thông đi mây, cưỡi gió, lướt trên mặt nước, hô phong hoán
vũ, làm được những chuyện kỳ đặc khác người. Cho nên con người thích
chiêm ngưỡng, lễ lạy các vách tường, nóc nhà, gò mối, ụ đất, buồng
chuối, cây cao, gốc cây sồi, ngọn cây sao, khe suối, hốc đá, hang sâu,
bất cứ chỗ nào có người phao tin rằng có tiên thánh hiện ra nơi đó cứu
người giúp đời! Hoặc là tôn sùng, lễ bái các người có hình tướng dị kỳ,
râu tóc xồm xoàm, mười năm chưa tắm, bụi bặm dơ bẩn, móng tay cả tấc,
thậm chí có người không bận quần áo gì cả! Hay sùng bái các người làm
những việc khác thường như ngồi trên bàn chông, đi trên đống lửa, quanh
năm chỉ ngồi không nằm, ăn cơm muối mè, không dùng thức ăn nào khác, chỉ
uống nước lạnh, không chịu uống thuốc men gì cả!
Sở
dĩ có nhiều chuyện mê tín dị đoan như vậy, kể cả những người gọi là học
thức, trí thức thế gian, bằng cấp này nọ, bởi vì con người thường quá
quan tâm đến phương diện vật chất, chỉ chú trọng đến cái thân xác của
con người, mà quên đi phần tâm linh. Ngay khi còn sống tại thế gian, cái
thân xác này còn không phải là mình, huống là sau khi chết. Tại sao
vậy? Bởi vì chúng ta ai ai cũng muốn được trường sanh bất tử, muốn thân
xác này trẻ mãi không già, đẹp mãi không nhăn, khỏe mãi không đau, sống
hoài không chết, nhưng nào có được đâu? Ðến khi nghỉ thở hai ba hôm là
không ai dám đến gần!
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh". Nghĩa
là bất cứ chúng sanh nào, bất cứ người nào trên thế gian này, không
phân biệt hình tướng, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chủng
tộc, không phân biệt sang hèn, không phân biệt địa vị, không phân biệt
nam nữ, không phân biệt tuổi tác, không phân biệt học thức, không phân
biệt xuất xứ, không phân biệt gì hết, mọi người đều có Phật tánh đồng
như nhau, chỉ vì mê ngộ không đồng, nghiệp chướng khác nhau, cho nên
hình tướng bên ngoài có khác.
Chính
vì con người chấp chặt cái hình tướng bên ngoài cho nên phân biệt tốt
xấu, phải quấy, đúng sai, không hiểu được ngoài các thân xác ra, chính
mình có Phật tánh, không hiểu được mọi người đều có Phật tánh như nhau.
Do đó phiền não khởi lên, cuộc đời chìm đắm trong các sự tranh chấp, hơn
thua, kiện thưa, đấu tranh, giành giựt, phê phán, chỉ trích, chiếm
đoạt. Nếu thực sự hiểu được mọi người đều bình đẳng, đều có Phật tánh
như nhau, thì con người không dám xúc phạm lẫn nhau, dù bằng hành động,
lời nói hay ý nghĩ, huống là âm mưu hại nhau, kiện nhau ra trước ba tòa
quan lớn, đòi bồi thường vài triệu đô la, để cả nhà xúm nhau chia chác!
Thiệt là tội nghiệp lắm thay! Con người tạo nghiệp mà không hay, không
biết! Hoặc biết mà vẫn cố phạm!
Chư Tổ có dạy: "Chúng
sanh nhìn chư Phật là chúng sanh cho nên khổ đau phiền não. Chư Phật
nhìn chúng sanh là chư Phật cho nên niết bàn an lạc". Nghĩa
là những người phàm phu không biết mình có Phật tánh, không biết mọi
người đều có thể thành một vị Phật trong tương lai, thường mang tâm
trạng tự ti, hèn kém, luôn luôn mang "cặp kiếng chúng sanh", cho
nên nhìn thấy tất cả mọi người chung quanh đều là chúng sanh như mình,
thường là tệ hơn mình, xấu xa hơn mình, cho nên sanh tâm chán nản, ghét
bỏ, khinh khi, giận tức, bực dọc, từ đó phiền não khổ đau bắt đầu. Nói
một cách thông thường đó là: "suy bụng ta ra bụng người". Người mang cặp
kiếng màu đen, nhìn chỗ nào cũng thấy tối thui, nhìn người nào cũng
tưởng là ma đen thùi!
Còn chư Phật từ nhãn thị chúng sanh, thương nhìn cuộc đời bằng Phật nhãn, với tâm bồ đề giác ngộ, với "cặp kiếng bình đẳng",
cho nên nhìn thấy rõ ràng người nào cũng có Phật tánh, cũng có khả năng
thành một vị Phật, nếu giác ngộ, biết quày đầu hướng thiện, từ bỏ
nghiệp chướng. Trong nhà Phật, mọi người trân quí Phật tánh của nhau,
nên thường chắp tay trước ngực, cúi đầu, chào nhau bằng câu: "Mô Phật" hay "A Di Ðà Phật", ngụ ý rằng: "Búp sen xin tặng người. Một vị Phật tương lai". Bởi vậy cho nên, tu hạnh "Lễ Kính Chư Phật",
chúng ta tạo không biết bao nhiêu phước báu, tránh được biết bao nhiêu
phiền não khổ đau, từ đó chúng ta sống trong sự cảm thông, tương kính,
cho nên cuộc đời của chúng ta sẽ được an lạc và hạnh phúc, không nghi,
dù chúng ta đang sống ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
2) Xưng Tán Như Lai:
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều dùng sức thậm thâm thắng giải hiện tiền tri kiến thường tu hạnh xưng tán. Mỗi âm thinh diễn xuất tất cả ngôn từ hải, khen ngợi tất cả công đức hải của tất cả Như Lai, bằng ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, thường không hề nhàm mỏi.
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều dùng sức thậm thâm thắng giải hiện tiền tri kiến thường tu hạnh xưng tán. Mỗi âm thinh diễn xuất tất cả ngôn từ hải, khen ngợi tất cả công đức hải của tất cả Như Lai, bằng ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, thường không hề nhàm mỏi.
Nghĩa
là chúng ta luôn luôn xưng dương, tán thán, ca tụng, ngợi khen công đức
của chư Phật đã thành, với mục đích tự nhắc nhở mình noi gương chư
Phật, trong cuộc sống hằng ngày, giữ gìn ba nghiệp thân khẩu ý được
thanh tịnh, chứ không phải chúng ta ca ngợi chư Phật để được ban phước,
để được may mắn, để được như ý. Chư Phật mười phương không cần chúng ta
tán tụng như vậy đâu! Chúng ta kính lễ chư Phật không phải chỉ ca tụng
chư Phật, mà cần phải noi gương, học và hành theo hạnh của chư Phật.
Sách có câu: "Tôn sùng các bậc vĩ nhân, không phải chỉ ca tụng họ, mà cần noi gương họ".
Khi
nghe hoặc thấy một người lâm nạn đau khổ, chúng ta liền khởi tâm từ bi
thương xót. Ðó chính là xưng tán Như Lai. Nhưng đến khi nhận biết kẻ lâm
nạn là người đã từng hãm hại mình, là người mình không ưa, thì chúng ta
liền khởi tâm khoái chí. Ðó chính là phỉ báng Như Lai. Xưng tán Như Lai
còn có nghĩa là chúng ta tự nhắc nhở chính mình, ai ai cũng có đức tính
giác ngộ, sáng suốt, thanh tịnh và hòa bình, tự nhắc nhở chính mình nên
sống một cuộc đời tỉnh thức, không để vọng tâm chi phối, không để tâm
tham điều khiển, không để tâm sân xui khiến, không để tâm si thúc đẩy,
làm những chuyện lợi mình hại người, vì quyền lợi nhỏ nhen của mình và
người thân của mình làm thiệt hại, gây đau khổ cho người khác và gia
đình họ, dù cho người đó là kẻ thù cũng vậy.
Xưng
tán Như Lai không có nghĩa là chúng ta chỉ lo chuyện xây chùa to, dựng
tượng lớn, đọc các bài tán thán chư Phật trong các thời khóa tụng kinh,
làm thơ ca ngợi công đức chư Phật, tổ chức hành hương thập tự, tham dự
các khóa tu học, các khóa hành thiền. Nếu chúng ta chỉ biết làm những
chuyện như vậy mà thôi, còn trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta sẵn sàng
đấu tranh, giành phần hơn, giành phần thắng, giành phần phải, giành
phần tốt, giành phần ngon, giành phần lợi, chúng ta để tâm tham sân si
chi phối, sẵn sàng lôi người khác ra tòa, hạ nhục kẻ khó ưa, thì thực sự
chúng ta phỉ báng Như Lai, chứ không phải xưng tán Như Lai vậy.
3) Quảng Tu Cúng Dường:
"Khởi thâm tín giải hiện tiền tri kiến, tất dĩ thượng diệu chư cúng dường cụ nhi vi cúng dường". Nghĩa là đối với chư Phật mười phương, chúng ta phát tâm hiểu biết, tin tưởng sâu sắc, thành tâm dâng cúng những điều tốt đẹp, những thành tựu cao quí nhứt trên bước đường tu học. Khi viếng chùa, về phần sự tướng, chúng ta thường dâng cúng các phẩm vật cụ thể như: hương, đăng, hoa, quả, tượng trưng cho những nghĩa lý cao thượng, những yếu tố tâm linh siêu thoát.
"Khởi thâm tín giải hiện tiền tri kiến, tất dĩ thượng diệu chư cúng dường cụ nhi vi cúng dường". Nghĩa là đối với chư Phật mười phương, chúng ta phát tâm hiểu biết, tin tưởng sâu sắc, thành tâm dâng cúng những điều tốt đẹp, những thành tựu cao quí nhứt trên bước đường tu học. Khi viếng chùa, về phần sự tướng, chúng ta thường dâng cúng các phẩm vật cụ thể như: hương, đăng, hoa, quả, tượng trưng cho những nghĩa lý cao thượng, những yếu tố tâm linh siêu thoát.
Dâng
cúng hương mang ý nghĩa dâng cúng những hương thơm kết tụ do việc giữ
gìn giới luật, những hương thơm kết tụ do việc thiền định, những hương
thơm kết tụ do việc phát triển trí tuệ, những hương thơm kết tụ do việc
tu hạnh giải thoát và những hương thơm kết tụ do việc giải thoát những
hiểu biết phiền lụy của thế gian. Nói chung gọi là Ngũ Phần Hương, gồm
có: giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát và giải thoát tri kiến
hương.
Dâng
cúng đăng, tức là dâng cúng đèn, mang ý nghĩa dâng cúng ánh sáng trí
tuệ sáng suốt, thắp sáng tâm trí, biết nhận thức mọi sự mọi vật đúng như
thực, không điên đảo, không mê mờ, biết sống theo chánh kiến và chánh
tín, tránh tà kiến và mê tín dị đoan. Cho nên trên bàn thờ Phật tại tư
gia, cũng như tại các tự viện, luôn luôn có một ngọn đèn thắp sáng, mang
ý nghĩa nhắc nhở chúng ta luôn luôn sống trong tỉnh thức, sáng suốt,
luôn luôn thúc liễm thân tâm, luôn luôn sống theo lời chư Phật dạy.
Dâng
cúng các loại hoa, mang ý nghĩa dâng cúng những điều thiện lành, tốt
đẹp, thơm tho, chúng ta làm được trong cuộc sống hằng ngày theo lời chư
Phật dạy. Chẳng hạn như chúng ta làm được việc thiện nào trong ngày,
chúng ta dừng được việc ác nào trong ngày, đó là những bó hoa tươi thắm
đem dâng cúng chư Phật.
Dâng
cúng các loại quả, các loại trái cây, mang ý nghĩa dâng cúng những
thành tựu, những kết quả, do công phu tu học theo đúng Chánh Pháp. Chẳng
hạn như trước đây, những lời phê phán, chửi mắng có thể làm chúng ta
bực bội, khó ở, quên ăn, mất ngủ trong một thời gian dài. Giờ đây, gặp
những cảnh ngộ trái ngang như vậy, gặp những người gây phiền não khó
khăn như vậy, gặp những việc bất như ý đến như vậy, chúng ta có thể khởi
lên một niệm trong tâm, song nhận thức được ngay, liền tan biến mất,
hoặc là tâm hoàn toàn tĩnh lặng, vô niệm khởi, tức là chúng ta đã thành
tựu đạo quả, dù một cách viên mãn, hay chưa viên mãn!
Ðể
tâm trí được thanh tịnh, chúng ta hãy làm các điều thiện, quảng tu cúng
dường, vì chính những ích lợi của các điều thiện ấy, chứ không phải vì
quyền lợi cá nhân, vì quyền lợi bản thân. Chúng ta có thể dễ chán những
niềm vui mà chúng ta nhận được, nhưng chẳng bao giờ chán những niềm vui
mà chúng ta cho. Ðó là ích lợi sâu xa của sự bố thí cúng dường của những người thiện tâm.
Tuy
nhiên, trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết. Pháp cúng
dường là: tu hành đúng theo lời Phật dạy, làm lợi ích cho chúng sanh,
chịu khổ thế cho chúng sanh, nhiếp thọ chúng sanh, siêng năng tu tập các
điều lành, tránh các điều dữ, phát tâm bồ đề. Pháp cúng dường là sự
cúng dường rộng lớn hơn tất cả, được vô lượng vô biên công đức. Tại sao
vậy? Bởi vì các đức Như Lai tôn trọng Chánh Pháp, theo đúng Chánh Pháp
mà tu hành, theo đúng lời chư Phật dạy thì sanh ra các Ðức Phật. Ðó mới
chính là mục đích cứu kính của đạo Phật, chỉ dạy phương pháp, giúp đỡ
con người, chuyển hóa thành Phật, chứ không phải chỉ có những hình thức
cúng kiến lễ lạy mà thôi. Thực hành được như vậy mới gọi là quảng tu
cúng dường.
4) Sám Hối Nghiệp Chướng:
Từ vô lượng kiếp về quá khứ, do lòng tham lam, giận tức, si mê, khiến cho thân khẩu ý tạo vô lượng vô biên nghiệp xấu ác, nghiệp bất thiện. Ngày nay chúng ta đem ba nghiệp thanh tịnh thành tâm sám hối, nguyện về sau không tái phạm nữa.
Từ vô lượng kiếp về quá khứ, do lòng tham lam, giận tức, si mê, khiến cho thân khẩu ý tạo vô lượng vô biên nghiệp xấu ác, nghiệp bất thiện. Ngày nay chúng ta đem ba nghiệp thanh tịnh thành tâm sám hối, nguyện về sau không tái phạm nữa.
Trong kinh sách có bài kệ sau đây:
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thủy tham sân si
Tùng thân khẩu ý chi sở sanh
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Giai do vô thủy tham sân si
Tùng thân khẩu ý chi sở sanh
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Nghiệp
là những điều gì do thân làm, do miệng nói, do ý nghĩ, thường xuyên
hằng ngày. Nghiệp thiện là những điều gì do thân khẩu ý, tạo ra ích lợi
cho mình và cho người. Từ xưa đến giờ, chúng ta tạo tác không biết bao
nhiêu là nghiệp xấu ác, nghiệp bất thiện, đều do tâm tham sân si, có từ
vô thủy, phát xuất ra hành động, lời nói hay ý nghĩ, làm lợi mình hại
người, gây đau khổ cho người khác. Tất cả hôm nay chúng ta đều thành
tâm, ăn năn sám hối, nguyện chừa bỏ, không tái phạm.
Nghiệp
thường gây những chướng ngại trên đường đời, cũng như trên đường đạo,
cho nên gọi là nghiệp chướng. Chẳng hạn chúng ta tạo nghiệp thiện như:
làm phước, bố thí, cúng dường, đi chùa, lễ Phật, tụng kinh, niệm Phật,
nhưng thấy người khác không làm như vậy, đâm ra bực dọc, khinh khi, phỉ
báng, thì cũng chướng, cho nên gọi là nghiệp chướng. Còn đối với những
nghiệp xấu ác, nghiệp bất thiện, thì dĩ nhiên là nghiệp chướng rồi,
không cần phải giải thích dài dòng.
Tuy nhiên, trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhứt thiết duy tâm tạo".
Nghĩa là mọi sự mọi việc trong khắp mười phương pháp giới đều do tâm
tạo ra tất cả. Công đức cũng do tâm tạo, nghiệp chướng cũng bởi tại tâm.
Ðó chính là vọng tâm, lăng xăng lộn xộn, sinh diệt thay đổi luôn luôn,
thường do tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên chúng ta
thường tạo nghiệp xấu ác nhiều hơn là nghiệp thiện. Bởi vậy cho nên, có
bài kệ như sau:
Tội tùng tâm khởi tương tâm sám
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Nghĩa
là tất cả những tội lỗi gây ra, đều do tâm của chúng ta chủ động, thì
phải thành tâm, phải tự trong thâm tâm, mà sám hối. Từ đó chúng ta phát
nguyện không tái phạm, cho nên mỗi khi từ vọng tâm khởi lên, tâm tham,
tâm sân, tâm si, chúng ta liền biết ngay, dừng lại, không làm theo sự
điều khiển, sai xử của tham sân si, thì tội lỗi sẽ không còn nữa. Khi
tội lỗi không còn, vọng tâm cũng lặng mất, chúng ta sống trong trạng
thái tịch tịnh, bình yên của tâm hồn. Ðó mới thực là sự sám hối chơn chánh.
Thân
nhân kẻ bị hãm hại thường đau khổ, nhưng nếu họ biết tha thứ cho kẻ xấu
ác kia, thì họ sẽ sống trong an lạc với tâm lượng từ bi hỷ xả. Con
người dù xấu ác đến cở nào, nhưng nếu biết thành tâm sám hối, đều có cơ
hội trở thành người thánh thiện. Không thiếu gì các vị thánh nhân trong
lịch sử, có quá khứ là kẻ bất thiện xấu ác trong xã hội. Chẳng hạn như
gương của Angulimala, nhờ thành tâm dừng các ác nghiệp, từ thân khẩu ý,
thực tâm sám hối, tinh tiến tu học, thực hành các lời dạy của Ðức Phật,
trở thành một vị đại đức chân tu đắc đạo. Bởi
vậy cho nên, chúng ta chỉ nên quán xét chính mình có biết sám hối chưa,
chứ đừng quan trọng đến quá khứ của người khác tốt hay xấu! Chuyện ai
nấy lo vậy!
Con
người thường mang tâm niệm khinh khi, ghét bỏ, nguyền rủa những kẻ bất
thiện, mong muốn hình phạt nặng nề, cho nên tâm trạng bất an, rất có thể
trở nên kẻ xấu ác hồi nào không hay. Chúng ta nên biết rằng nền tảng
của hạnh phúc chính là sự bình yên của tâm hồn. An lạc và hạnh phúc là
điều mong ước của tất cả mọi người trên thế gian này. Muốn được như vậy,
trong đời sống hằng ngày, chúng ta hãy luôn luôn tha thứ cho người
khác, dù là kẻ thù cũng vậy, nhưng đừng bao giờ tha thứ cho bản thân
mình.
5) Tùy Hỷ Công Đức:
Từ lúc phát tâm bồ đề, vì muốn cầu đạo giải thoát, chúng ta siêng tu cội phước căn lành, trải qua vô số kiếp, làm tất cả những hạnh khó làm, thấy người khác tu tâm dưỡng tánh, làm bao nhiêu công đức, chúng ta đều phát tâm tùy hỷ. Người tu tập các nghiệp thiện lành như bố thí, cúng dường, giúp đỡ người gặp khó khăn, nghèo đói, hoạn nạn, góp phần ấn tống kinh sách, đúc chuông, tạo tượng, xây chùa, trường học, bịnh viện, tu tâm dưỡng tánh, tụng kinh, niệm Phật, thiền quán, trì chú, giảng kinh, thuyết pháp, được bao nhiêu công đức và phước đức, thì người tu hạnh tùy hỷ cũng được bấy nhiêu công đức và phước đức. Tại sao vậy?
Từ lúc phát tâm bồ đề, vì muốn cầu đạo giải thoát, chúng ta siêng tu cội phước căn lành, trải qua vô số kiếp, làm tất cả những hạnh khó làm, thấy người khác tu tâm dưỡng tánh, làm bao nhiêu công đức, chúng ta đều phát tâm tùy hỷ. Người tu tập các nghiệp thiện lành như bố thí, cúng dường, giúp đỡ người gặp khó khăn, nghèo đói, hoạn nạn, góp phần ấn tống kinh sách, đúc chuông, tạo tượng, xây chùa, trường học, bịnh viện, tu tâm dưỡng tánh, tụng kinh, niệm Phật, thiền quán, trì chú, giảng kinh, thuyết pháp, được bao nhiêu công đức và phước đức, thì người tu hạnh tùy hỷ cũng được bấy nhiêu công đức và phước đức. Tại sao vậy?
Bởi
vì người tu hạnh tùy hỷ công đức là người đã và đang dẹp được rất nhiều
các vọng tâm ganh tị, đố kỵ, nghi ngờ, tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ, bon
chen, mới có thể thấy người khác làm các việc thiện, việc lành mà vui
theo. Như vậy người tu tập các công đức lành và người tu hạnh tùy hỷ
công đức, được kết quả như nhau, không khác. Cũng ví như người có cây
đuốc cháy sáng, người khác đem cây đuốc của họ đến mồi, cây đuốc của họ
cũng được cháy sáng như vậy, không khác, mà cây đuốc của người kia không
bị giảm bớt chút ánh sáng nào cả vậy.
Người
tu hạnh tùy hỷ công đức là người luôn luôn nở nụ cười nhẹ nhàng, thanh
thản trên gương mặt, tâm trí khinh an, từ bi tâm rộng lớn, là người nhìn
đời với cặp mắt hoan hỷ khi thấy những người khác thành tựu các công
đức, dễ gần gũi thầy tốt bạn lành. Bởi vậy cho nên sách có câu: "Hãy gởi cho gió đóa hoa từ trên gương mặt rạng rỡ nở hoa của bạn. Tôi sẽ ngữi mùi hương trên khắp các nẻo đường bạn đi qua".
6) Thỉnh Chuyển Pháp Luân:
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều thành tâm đem thân khẩu ý, dùng tất cả những phương tiện ân cần thỉnh mời tất cả chư Phật nói pháp nhiệm mầu. Chư Phật hiện đời chính là các bực chân tu thực học, đạo cao đức trọng, mọi người đều có thể cảm nhận được khi gần gũi. Các Ngài cũng như những cây cổ thụ bóng mát che rợp, cũng như nước cam lồ ngọt lịm, đem lại sự mát mẽ, tươi vui, an lạc cho tất cả chúng sanh đang chìm đắm trong bể khổ của cuộc đời, đang trôi lăn trong các cuộc kiện thưa, tranh chấp về tiền bạc, về danh dự hão, về địa vị dỡm, về chức tước hàm, về đủ mọi thứ khổ não, phiền lụy trên đời.
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều thành tâm đem thân khẩu ý, dùng tất cả những phương tiện ân cần thỉnh mời tất cả chư Phật nói pháp nhiệm mầu. Chư Phật hiện đời chính là các bực chân tu thực học, đạo cao đức trọng, mọi người đều có thể cảm nhận được khi gần gũi. Các Ngài cũng như những cây cổ thụ bóng mát che rợp, cũng như nước cam lồ ngọt lịm, đem lại sự mát mẽ, tươi vui, an lạc cho tất cả chúng sanh đang chìm đắm trong bể khổ của cuộc đời, đang trôi lăn trong các cuộc kiện thưa, tranh chấp về tiền bạc, về danh dự hão, về địa vị dỡm, về chức tước hàm, về đủ mọi thứ khổ não, phiền lụy trên đời.
Thỉnh
chuyển pháp luân còn có nghĩa là thỉnh Phật tánh chính mình chứng minh
cho các hành động, lời nói và ý nghĩ của chúng ta hợp với Chánh Pháp.
Thỉnh chư Phật từ phương xa đến chuyển pháp luân, nói cách khác là
chuyển bánh xe pháp hay thuyết pháp, thực là muôn vàn khó khăn. Còn Phật
tánh thì luôn luôn có sẵn với chúng ta, mỗi hành động, lời nói hay ý
nghĩ đều hợp với Chánh Pháp, với lời dạy của chư Phật mười phương, chính
là thỉnh Phật chuyển pháp luân vậy.
Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi tắt là Kinh Pháp Hoa, Ðức Phật chỉ chấp nhận chư Bồ Tát "tùng địa dũng xuất"
hộ trì Chánh Pháp mà thôi. Nghĩa là chỉ có những người phát tâm bồ đề,
tu hạnh bồ tát, từ tâm địa mạnh mẽ xóa bỏ tham sân si, xa lìa mê tín dị
đoan, không còn nghĩ chuyện lợi mình hại người, từ tâm địa dũng mãnh
phát khởi tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả, phát khởi ý nghĩ quên mình vì
người, mới thực sự là những người thực hành Chánh Pháp, những người hộ
trì Chánh Pháp, những người đang chuyển bánh xe pháp, đang chuyển pháp
luân vậy.
Kinh sách có câu: "Nhược năng chuyển vật tức đồng Như Lai".
Nghĩa là nếu người nào có khả năng và thường chuyển được mọi sự, mọi
việc, mọi vật trên đời theo tâm lượng từ bi hỷ xả, không để các vọng tâm
tham lam, sân hận, si mê chuyển, điều khiển, sai khiến, thì người đó
đồng với Như Lai, không khác. Trong các buổi tụng kinh, thuyết pháp hay
bàn luận trong nhà Phật, trước tiên mọi người đều niệm hồng danh Ðức
Phật để cầu gia bị, mang ý nghĩa thỉnh Phật chuyển pháp luân, trong suốt
thời tụng kinh, buổi thuyết pháp hay buổi họp đó, để được trọn vẹn
phước đức và công đức. Mọi người thỉnh Phật tánh của chính mình, chuyển
bánh xe pháp trong mọi hành động, mọi lời nói hay mọi ý nghĩ, để làm
gương cho kẻ khác có tín tâm với đạo Phật, với Chánh Pháp.
Chư Tổ có dạy: "Tĩnh tọa thường tư kỷ quá. Nhàn đàm bất luận nhơn phi". Nghĩa
là khi ngồi yên một mình, người nào thực tâm tu học, muốn thoát ly
phiền não của cuộc đời, thường suy nghĩ về những lỗi lầm, những sai trái
của chính mình trong mọi hành động, lời nói hay ý nghĩ. Còn trong lúc
nói chuyện, đàm luận với người, không bao giờ đề cập đến sự sai trái,
khuyết điểm, lỗi lầm hay tội lỗi của người khác, trong quá khứ cũng như
hiện tại. Do đó, chúng ta nên biết rằng những cách cư xử đẹp trên đời
không phải là việc vô ích, mà là kết quả của một bản tính cao thượng,
thanh nhã và một tinh thần chính trực, ngay thẳng, chí công, vô tư. Ðược
như vậy, cũng có nghĩa là chúng ta thỉnh Phật chuyển pháp luân rồi vậy.
7) Thỉnh Phật Trụ Thế:
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều thành tâm đem thân khẩu ý, dùng tất cả những phương tiện ân cần thỉnh mời tất cả chư Phật ở lại thế gian, vì muốn tất cả chúng sanh được lợi lạc. Về phương diện toán học, một với một là hai. Nhưng về phương diện Phật tánh, một với một là không hai. Chúng ta thương yêu nhau, tinh thần chúng ta sẽ hợp nhất. Chúng ta không tốt được với kẻ thù, thì chưa thực sự tốt hoàn toàn. Chúng ta chưa nhận ra sự bình đẳng giữa các chúng sanh, giữa mình với người, tức là chúng ta chưa thỉnh Phật trụ thế, Phật tánh của chúng ta còn bị che lấp bởi phiền não và khổ đau của cuộc đời, còn bị người đời hãm hại, thưa kiện, nên vọng tâm khởi lên sự tức giận, khó kềm chế nổi.
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều thành tâm đem thân khẩu ý, dùng tất cả những phương tiện ân cần thỉnh mời tất cả chư Phật ở lại thế gian, vì muốn tất cả chúng sanh được lợi lạc. Về phương diện toán học, một với một là hai. Nhưng về phương diện Phật tánh, một với một là không hai. Chúng ta thương yêu nhau, tinh thần chúng ta sẽ hợp nhất. Chúng ta không tốt được với kẻ thù, thì chưa thực sự tốt hoàn toàn. Chúng ta chưa nhận ra sự bình đẳng giữa các chúng sanh, giữa mình với người, tức là chúng ta chưa thỉnh Phật trụ thế, Phật tánh của chúng ta còn bị che lấp bởi phiền não và khổ đau của cuộc đời, còn bị người đời hãm hại, thưa kiện, nên vọng tâm khởi lên sự tức giận, khó kềm chế nổi.
Muốn
thỉnh Phật trụ thế, còn có nghĩa là muốn Phật tánh của chúng ta hiển
lộ, chúng ta không nên làm bất cứ điều gì, không nên nói bất cứ điều gì,
không nên nghĩ bất cứ điều gì nhằm mục đích hạ thấp người khác. Nhờ đó,
chúng ta có thể thỉnh Phật tánh của tất cả những người chung quanh trụ
thế. Cuộc đời giữa những người cư xử với nhau bằng chơn tâm, Phật tánh
chắc chắn sẽ an lạc và hạnh phúc, không nghi, không còn phải mong đợi
cảnh giới cực lạc nào khác, ngoài thế gian này nữa cả.
8) Thường tùy Phật học:
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều thành tâm đem thân khẩu ý, dùng tất cả những phương tiện ân cần nương theo tất cả chư Phật, học tập, thực hành các hạnh tinh tấn, không biếng trễ, thực hành các hạnh khó làm, ở trong đạo tràng, cũng như ở khắp mọi nơi.
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều thành tâm đem thân khẩu ý, dùng tất cả những phương tiện ân cần nương theo tất cả chư Phật, học tập, thực hành các hạnh tinh tấn, không biếng trễ, thực hành các hạnh khó làm, ở trong đạo tràng, cũng như ở khắp mọi nơi.
Sách có câu: "Không biết thì hỏi, không giỏi thì học", hay "Không thầy đố mầy làm nên".
Ở đời, muốn có trí tuệ, muốn được thông minh, muốn sự hiểu biết được
sâu rộng, chúng ta nhứt định phải học hỏi từ sách vở, từ những bực thiện
hữu tri thức, từ những bực tiền bối có nhiều kinh nghiệm, hay từ những
người đồng trang lứa, thậm chí từ những người trẻ tuổi hơn hơn chúng ta
nữa. Người biết đặt câu hỏi, biết được chỗ dốt của mình, sẽ chỉ ngu dốt
trong nhứt thời. Còn người không chịu học hỏi, sẽ không hiểu không biết
suốt đời. Khi biết được mình dốt điểm nào thì bắt đầu hết dốt. Người trí
là người biết mình không biết điều gì, còn người ngu là người tưởng
mình biết hết tất cả mọi việc trên đời!
Trong
đạo Phật cũng vậy, chư Phật và chư Tổ mười phương cũng từng giảng dạy
những pháp môn tu học trong tam tạng kinh điển, để giúp chúng sanh thoát
ly khỏi luân hồi, khỏi trầm luân sanh tử, đạt được cứu kính niết bàn.
Do đó chúng ta cần nên gần gũi các bực thầy lành bạn tốt để học hỏi đạo
lý, không ai có thể tự mình trở thành Phật mà không cần tu học theo đúng
Chánh Pháp, theo lời chư Phật dạy, cũng như người đi đường cần có bản
đồ, có địa bàn, có hướng dẫn, có hỏi thăm mới có thể đến nơi đến chốn
như ý muốn được.
Chư Tổ có dạy: "Tu mà không học là tu mù. Học mà không tu là đãy sách".
Nghĩa là người phát tâm tu theo đạo Phật, nhứt định phải học hỏi Chánh
Pháp, mới tránh được tình trạng tu mù, dễ lầm đường lạc lối, theo tà ma
ngoại đạo, mê tín dị đoan. Ở đây, chúng ta cần nên biết rằng: dù có thờ
Phật tại gia hay tại chùa, ngoài Tâm cầu Phật đều gọi là ngoại đạo,
không phát tâm bồ đề mà làm Phật sự, chẳng qua đó là ma sự! Sách cũng có
câu: "Muốn tu thì phải học. Muốn đọc phải biết chữ".
Trái
lại, những người học cao hiểu rộng, trí thức thế gian, nhưng không
chịu, không biết tu tâm dưỡng tánh, tức là những người có tài học, mà
không có đức độ, thì chẳng ích lợi gì cho ai, có khi còn gieo tai họa
cho đời, khi họ đem sở học, sự hiểu biết phục vụ những mưu đồ của bản
thân, gia đình hay phe nhóm. Họ ỷ thế học rộng biết nhiều, về luật pháp
chẳng hạn, khinh khi mọi người, muốn làm giàu nhanh, làm ăn bất chánh,
kiếm được nhiều tiền, xúi giục người khác, nổi lòng tham lam, kiện tụng
lung tung, đòi tiền thiệt hại. Suốt đời của họ, chỉ biết có tiền! Những
người nghiên cứu kinh điển, chỉ nhằm mục đích, thỏa mãn nhu cầu, hiểu
nhiều biết rộng, đem đi tranh cãi, lý luận phê bình, chỉ trích soi mói,
nhưng không áp dụng, thực hành lời Phật, trong đời sống này, chẳng thể
thoát ly, sanh tử luân hồi, chẳng ích lợi gì cho đời sống tâm linh, ví
cũng như cái đãy đựng sách, cái tủ chưng sách, hay cái tàng kinh các mà
thôi.
9) Hằng Thuận Chúng Sanh:
Trong khắp pháp giới, mười phương ba đời, bao nhiêu chúng sanh sai khác về sắc thân, về tướng mạo, về hình trạng, về tâm tánh, về tri kiến, chúng ta đều tùy thuận tất cả, mà thực hành các sự tôn kính, cúng dường không phân biệt. Tôn trọng, tùy thuận, cúng dường, phụng sự chúng sanh chính là tôn trọng, tùy thuận, cúng dường, phụng sự chư Phật. Nếu làm cho chúng sanh vui mừng, thì chính là làm cho tất cả Như Lai hoan hỷ. Tại sao vậy?
Trong khắp pháp giới, mười phương ba đời, bao nhiêu chúng sanh sai khác về sắc thân, về tướng mạo, về hình trạng, về tâm tánh, về tri kiến, chúng ta đều tùy thuận tất cả, mà thực hành các sự tôn kính, cúng dường không phân biệt. Tôn trọng, tùy thuận, cúng dường, phụng sự chúng sanh chính là tôn trọng, tùy thuận, cúng dường, phụng sự chư Phật. Nếu làm cho chúng sanh vui mừng, thì chính là làm cho tất cả Như Lai hoan hỷ. Tại sao vậy?
Bởi
vì các đức Như Lai dụng tâm đại bi làm thể, nhơn nơi chúng sanh mà sanh
lòng đại bi, nhơn nơi lòng đại bi mà phát tâm bồ đề, nhơn nơi tâm bồ đề
mà thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bởi vì đối với tất cả
chúng sanh, mà đem tâm bình đẳng đối xử, thì có thể sanh lòng đại bi đầy
đủ hoàn toàn. Dùng tâm đại bi mà tùy thuận chúng sanh thì có thể thành
tựu pháp cúng dường Như Lai. Những người tu hạnh Bồ Tát, tùy thuận chúng
sanh như thế ấy. Chứ tùy thuận chúng sanh không có nghĩa là bị
chúng sanh sai xử, xui khiến, xúi giục, làm theo tất cả những gì chúng
sanh đòi hỏi, những gì chúng sanh mong muốn.
Trong
gia đình, cũng như ngoài xã hội, tùy thuận chúng sanh không có nghĩa là
nhắm mắt hùa theo, làm theo, ủng hộ những việc làm bất thiện, bất
lương. Chẳng hạn như con cái không thể tùy thuận cha mẹ, làm những việc
sai lời Phật dạy, trả thù báo oán, sát nhân hại vật. Ngược lại, cha mẹ
cũng không thể tùy thuận con cái, chiều theo con cái, muốn gì được nấy,
thưa kiện hại người, dù đó là người thân hay kẻ thù cũng vậy. Tùy thuận
cũng không có nghĩa là tự do muốn làm gì thì làm, tự do muốn làm gì cũng
được. Chúng ta cần nên nhớ rằng: mọi thứ tự do đều được giới hạn ở chỗ đụng chạm tới tự do của kẻ khác.
Ví
như giữa chốn rừng sâu, có cây cổ thụ to lớn, nơi gốc cây được nước
tưới nhuần, thì cành lá hoa quả thảy đều sum sê tươi tốt. Trong vòng
sanh tử luân hồi, cây bồ đề cũng vậy, tất cả chúng sanh là cội rễ, Bồ
Tát là hoa, chư Phật là quả. Dùng nước đại bi đượm nhuần gốc rễ chúng
sanh, thì có thể trổ bông Bồ Tát trí tuệ, và kết thành quả Phật toàn
giác. Nghĩa là chư Phật và chư Bồ Tát không từ trên mây rơi xuống, không
từ dưới đất đi lên, mà từ những chúng sanh biết tu tâm dưỡng tánh, biết
chuyển hóa tâm địa, biết tu hạnh nhẫn nhục, biết từ bỏ các việc lợi
mình hại người, biết dừng các nghiệp báo, biết trưởng dưỡng tâm từ bi hỷ
xả, biết cứu người giúp đời, biết vì người quên mình, biết tùy thuận
chúng sanh, để hướng dẫn chúng sanh vào Bát chánh đạo.
10) Phổ Giai Hồi Hướng:
Từ sự lễ kính ban đầu nhẫn đến tùy thuận có bao nhiêu phước đức và công đức, thảy đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sanh khắp trong hư không pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sanh thường được an lạc, không các bịnh khổ, muốn thực hành các pháp ác đều không thành, còn tu các nghiệp lành thì đều mau thành tựu. Nếu các chúng sanh nhơn vì trước kia chứa nhóm các nghiệp ác nên chiêu cảm tất cả quả khổ, chúng ta đều phát nguyện chịu thế cho, khiến chúng sanh đều được giải thoát, rốt ráo thành tựu quả vô thượng bồ đề. Những người tu hạnh Bồ Tát, hồi hướng như vậy.
Từ sự lễ kính ban đầu nhẫn đến tùy thuận có bao nhiêu phước đức và công đức, thảy đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sanh khắp trong hư không pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sanh thường được an lạc, không các bịnh khổ, muốn thực hành các pháp ác đều không thành, còn tu các nghiệp lành thì đều mau thành tựu. Nếu các chúng sanh nhơn vì trước kia chứa nhóm các nghiệp ác nên chiêu cảm tất cả quả khổ, chúng ta đều phát nguyện chịu thế cho, khiến chúng sanh đều được giải thoát, rốt ráo thành tựu quả vô thượng bồ đề. Những người tu hạnh Bồ Tát, hồi hướng như vậy.
Hồi
hướng như vậy, người tu học sẽ dẹp được các vọng tâm tham lam, ích kỷ,
bỏn sẻn, keo kiệt, trừ được tâm sân hận căm tức, bực dọc thù hằn, phá
được tâm si mê u tối, không biết lẽ phải, không thấy chánh đạo, tâm từ
bi hỷ xả sẽ phát triển, ngày một to lớn hơn, tâm thiện lành ngày một bao
trùm, khắp các hành động, lời nói, ý nghĩ. Con người sẽ ngày một gần
với chư Phật hơn, cuộc đời ngày một an lạc và hạnh phúc hơn. Niết bàn
hay quả vị Phật ngày một gần hơn, không còn bao xa nữa vậy.
Tóm lại,
nếu chúng ta quyết tâm, trì chí tu tập theo mười điều nguyện lớn thì có
thể thuần thục tất cả chúng sanh, trọn đủ các hạnh nguyện hải của ngài
Bồ Tát Phổ Hiền, các loài ma quân, quỉ dữ thảy đều tránh xa, các hạng
phát tâm tu tập gần gũi, tuy vẫn sống trong thế gian, nhưng không gặp
chướng ngại.
Lúc
lâm chung tất cả các căn thân đều hư hoại, tất cả thân thuộc đều phải
xa lìa, tất cả oai phong đều phải thối thất, tất cả của cải, tài sản,
công danh, sự nghiệp đều không đem một món nào theo được. Chỉ có mười
điều nguyện lớn này chẳng rời người mà thôi. Người nào được nghe
mười điều nguyện lớn này, luôn luôn giữ gìn, giảng giải cho người, tất
cả hạnh nguyện đều được thành tựu, phước đức vô lượng, công đức vô biên,
có thể ở trong biển đau khổ phiền não tự cứu được mình, giúp đỡ chúng
sanh, khiến được giác ngộ, đạt được Niết bàn.
cutranlacdao@yahoo.com