;
BỐN SỰ THẬT CAO QUÝ
(Les Quatre Nobles Vérités)
Venerable Guéshé Lobsang Yéshé
Bản dịch từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Pháp: Marie-Thérèse Guetab
Bản dịch sang Việt ngữ: Hoang Phong
Lời giới thiệu của người dịch
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau. Bài chuyển ngữ dưới đây đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn gốc vô minh tạo ra mọi thứ khổ đau cho con người, đã được nhà sư Tây Tạng Guéshé Lobsang Yésheé thuyết giảng tại chùa Thar Deu Ling, một ngôi chùa tọa lạc tại một vùng ngoại ô thành phố Paris, vào ngày 16 và 30 tháng 9 năm 2004. Bài giảng được chùa Thar Deu Ling in thành một quyển sách nhỏ, ấn bản thứ nhất vào năm 2006.
Ven. Guéshé Lobsang Yéshée
Bốn Sự Thật Cao Quý
Guéshé Lobsang Yéshée
Nhập đề
Chủ đề bài giảng là Bốn Sự Thật Cao Quý. Tối hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về hai sự thật đầu tiên. Mỗi khi nghe giảng về Đạo Pháp (Dharma) dù là nêu lên chủ đề nào cũng vậy, thật hết sức quan trọng là chính chúng ta trước hết phải khơi động trong lòng mình một sự nhiệt tình. Quý vị nào từng đi nghe giảng tất nhiên đều ý thức được là tại sao lại phải làm như vậy. Tuy thế thiết nghĩ cũng không là một việc thừa thải khi phải lập lại điều đó, kể cả đối với những người đã từng đến đây nhiều lần, hầu nhắc nhở mình về tầm quan trọng của nó. Đối với những người mới thì việc giải thích về sự phát huy lòng nhiệt tình đúng đắn là điều cần thiết giúp mình cố gắng khơi động nó.
Có ba cấp bậc suy nghĩ đưa đến ba cấp bậc nhiệt tình khác nhau theo thứ tự như sau: lòng nhiệt tình của những người tu tập còn kém gọi là lòng nhiệt tình thấp, lòng nhiệt tình của những người tu tập trung bình gọi là lòng nhiệt tình trung gian, và lòng nhiệt tình của những người tu tập cao gọi là lòng nhiệt tình thượng thặng.
Shantideva (Tịch Thiên) trong tập Bodhicharyavatara (Con đường hành xử của người Bồ-tát) (kinh sách gốc Hán ngữ gọi là Bồ-tát Hành Luận) có nói như sau:
Một khi nhìn thấy tôi đạt được những sự tự do như thế này,
Mà không biết từ bỏ những hành động tiêu cực của mình,
Thì chẳng có gì là mù quáng hơn!
Cũng chẳng có một sự lầm lẫn nào có thể tệ hại hơn!
Ý nghĩa của tiết thơ này là chúng ta may mắn được mang thân con người, được thừa hưởng tám sự tự do và mười sự may mắn (tám sự tự do là: không sinh ra trong một xứ không có Đạo Pháp, không sinh ra mà không có đầy đủ các giác quan, không sinh ra trong cảnh giới ngạ quỷ, v.v. Mười sự may mắn còn gọi là mười sự giàu có là: sinh ra trong một xứ sở theo Phật giáo, không khuyết tật, không phạm vào năm giới cấm, sinh sau khi Đức Phật đã ra đời, sinh sau khi Giáo Huấn của Đức Phật đã hoàn tất, hội đủ các điều kiện giúp mình tu tập, v.v..) hầu tạo điều kiện cho chúng ta tu tập Đạo Pháp (Dharma). Thế nhưng nếu không biết tận dụng những lợi điểm đó để tu tập, nhất là để từ bỏ những hành động tiêu cực, thì thân xác quý giá dưới thể dạng con người - tương tự như một hệ thống cơ khí mang những khả năng kỳ diệu - thay vì giúp mình thực hiện được những ước vọng thật cao thì chỉ mang lại đau buồn mà thôi. Thật vậy nếu mù tịt không biết gì cả về Đạo Pháp thì quả khó cho mình tránh khỏi những điều bất hạnh, bởi vì nghiệp mới trong kiếp sống này sẽ ghép thêm vào nghiệp cũ của quá khứ khiến mình phải tái sinh dưới các thể dạng hiện hữu thấp kém để mà gánh chịu mọi thứ khổ đau.
Do đó một khi đã hướng vào con đường tu tập Đạo Pháp thì phải khơi động trong tâm thức mình ước vọng sẽ đạt được những kiếp sống tốt đẹp hơn trong tương lai.
Sự nhiệt tình ở cấp bậc thấp
Sự nhiệt tình thuộc lãnh vực thấp sẽ hướng vào những sự suy nghĩ như sau: "Hiện nay tôi được thừa hưởng một sự hiện hữu quý giá trong thân xác con người. Thế nhưng cuộc sống đó sẽ không kéo dài, nó sẽ chấm dứt nhanh chóng một ngày nào đó, và tôi lại phải tái sinh sau khi chết. Vì thế nếu không muốn rơi vào một thể dạng hiện hữu thấp tôi phải tu tập Đạo Pháp hầu được tái sinh ở một thể dạng cao, chẳng hạn như con người hoặc thiên nhân (deva)"
Sự nhiệt tình ở cấp bậc trung bình
Đối với những người tu tập với lòng nhiệt tình trung bình thì họ sẽ suy nghĩ như thế này: "Hiện nay tôi đang thừa hưởng một sự hiện hữu quý giá trong thân xác con người, và nếu tôi biết tu tập Đạo Pháp thì sau kiếp sống này tôi sẽ lại tái sinh dưới thể dạng con người trong kiếp sống mới, và cũng có thể là các kiếp sống sau đó nữa. Thế nhưng thật hiển nhiên qua các kiếp sống ấy nếu các hành động tiêu cực của tôi ngày càng chồng chất thêm thì sẽ khiến tôi không sao tránh khỏi rơi xuống các cấp bậc hiện hữu thấp hơn. Khi vẫn còn bị chi phối bởi chu kỳ xoay vần của những sự hiện hữu thì tôi vẫn sẽ không sao tránh khỏi khổ đau; không sao tìm thấy những niềm hạnh phúc lâu bền và đích thật. Vì thế không phải chỉ cần đạt được thể dạng con người là đủ, mà phải đạt được hạnh phúc đích thật, bền vững và lâu dài. Điều đó có nghĩa là tôi phải loại bỏ vĩnh viễn tất cả mọi thứ khổ đau của cả Ba Thế Giới (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới) thuộc chu kỳ của những sự hiện hữu, hầu đạt được sự giải thoát, tức là Niết-bàn. Nhằm đạt được mục đích đó tôi phải tập cho tâm thức tôi biết hướng vào Đạo Pháp". Nghe giảng với lòng nhiệt tình chính là vì lý do đó.
Sự nhiệt tình ở cấp bậc cao
Đến đây chúng ta sẽ tìm hiểu xem lòng nhiệt tình ở cấp bậc cao là gì. Thật hết sức rõ ràng, nếu đạt được Niết-bàn thì tất sẽ đạt được hạnh phúc, giải thoát mình ra khỏi chu kỳ xoay vần của những sự hiện hữu, mang lại cho mình hạnh phúc lâu dài và bền vững. Thế nhưng đấy có phải là một sự trọn vẹn, một sự toại nguyện hoàn toàn hay chưa? Qua các kiếp sống trước đây của mình, những gì đã từng xảy ra giữa mình và kẻ khác? Biết đâu kẻ khác cũng từng là thân quyến của mình, cha mẹ mình, bạn hữu mình, là những người từng mang lại thật nhiều điều tốt đẹp cho mình, từng thương yêu mình? Vì vậy hôm nay chúng ta cũng nên mang lại hạnh phúc cho họ, giải thoát họ khỏi khổ đau. Dù có trở thành một vị A-la-hán (Arhat), giải thoát mình ra khỏi chu kỳ của các sự hiện hữu đi nữa, thì mình cũng chẳng làm được gì nhiều cho các chúng sinh khác. Chỉ có chư Phật mới hội đủ khả năng mang lại sự tốt lành thật trọn vẹn cho tất cả chúng sinh, bởi vì chỉ có chư Phật mới có thể loại bỏ cho mình tất cả những gì chưa hoàn hảo, thực hiện được tất cả những phẩm tính tốt, và trực tiếp quán thấy được mọi sự hiện hữu. Vì thế nếu muốn hội đủ khả năng mang lại hạnh phúc thật sự cho chúng sinh thì nhất định mình phải trở thành Phật.
Vì thế lòng ước vọng đạt được thể dạng một vị Phật hầu mang lại những điều tốt lành cho tất cả chúng sinh chính là lòng nhiệt tình ở cấp bậc thượng thặng, đó là sự nhiệt tình của những ngưòi tu tập cao, và đó cũng là lòng nhiệt tình của những người bước theo con đường Đại Thừa.
Lòng nhiệt tình nói lên cấp bậc tu tập của mình, cho thấy mình bước theo Tiểu Thừa hay Đại Thừa. Dù tu tập theo Đại Thừa thế nhưng nếu lòng nhiệt tình của mình thuộc cấp bậc thấp thì việc tu tập ấy cũng chỉ là cách tu tập Tiểu Thừa, chưa đúng hẳn với con đường Đại Thừa. Tu tập theo Tan-tra Thừa cũng thế, dù bước theo con đường Tan-tra, tức trên nguyên tắc thuộc vào Đại Thừa, thế nhưng lòng nhiệt tình lại là của những người tu tập Tiểu Thừa thì việc tu tập ấy của mình cũng chỉ là Tiểu Thừa (theo quan điểm trên đây của nhà sư Lobsang Yésheé thì Tiểu hay Đại Thừa cũng chỉ là một con đường chung, sự khác biệt chỉ là lòng nhiệt tình hay chủ đích ở các cấp bậc khác nhau của người tu tập. Chúng ta sẽ bàn thêm trong phần ghi chú bên dưới).
Thế nhưng nếu lòng nhiệt tình của mình đúng là của một người tu tập Đại Thừa nhằm vào mục đích mang lại hạnh phúc cho tất cả chúng sinh thì dù tu tập theo phương pháp nào: quỳ lạy, tụng niệm man-tra hay các kinh điển khác cũng vậy, tất cả đều là phép tu tập đích thật của Đại Thừa.
Dầu sao, trước khi mở ra Con Đường tu tập ở cấp bậc cao trong lòng mình thì trước đó cũng phải bước theo con đường của những người tu tập với lòng nhiệt tình ở các cấp bậc thấp và trung bình. Luyện tập tâm thức theo con đường của những người tu tập thấp là suy nghĩ về những thứ khổ đau của các chúng sinh ở các thể dạng hiện hữu thấp hầu tìm cách thoát khỏi những thể dạng hiện hữu đó. Luyện tập theo con đường của những người tu tập ở cấp bậc trung bình là cách suy nghĩ về bản chất khổ đau của cả ba cảnh giới của chu kỳ hiện hữu (dục giới, sắc giới và vô sắc giới: cảnh giới nào cũng đều khổ đau), về Bốn Sự Thật Cao Quý - hai Sự Thật nêu lên sự trói buộc trong chu kỳ hiện hữu và hai Sự Thật nêu lên sự giải thoát khỏi chu kỳ đó - và Mười Hai Mối Dây của Sự Tạo Tác Tương Liên (Thập Nhị Nhân Duyên).
Nếu không tuần tự luyện tập theo từng giai đoạn trên đây, cũng không suy tư theo từng cấp bậc thì sẽ rất khó phát huy được sự nhiệt tình tuần tự của những người tu tập ở cấp bậc thấp và sau đó là trung bình.
Phần I
Sự Thật về Khổ Đau và Sự Thật về Nguồn Gốc của Khổ Đau
Đến đây chúng ta sẽ đi thẳng vào chủ đề là Bốn Sự Thật Cao Quý.
Khi Đức Phật bắt đầu thuyết giảng thì Ngài đề cập ngay đến Bốn Sự Thật Cao Quý, và nêu lên hai sự thật đầu tiên như sau:
"Đây là Sự Thật Cao Quý về Khổ Đau"
"Đây là Sự Thật Cao Quý về Nguồn Gốc của Khổ Đau"
Mỗi khi muốn nêu lên một điều gì thì trước hết người ta thường nêu lên nguyên nhân và sau đó mới nói đến kết quả. Sự kiện này có vẻ hợp lý trên phương diện diễn tiến theo yếu tố thời gian. Thế nhưng trong trường hợp trên đây thì Đức Phật lại nêu lên kết quả trước rồi sau đó thì mới nói đến nguyên nhân (trước hết nhận định về tình trạng khổ đau của con người, sau đó là nguyên nhân gây ra tình trạng đó), chẳng qua là vì thứ tự này cũng sẽ được áp dụng vào việc tu tập. Trước nhất phải ý thức được Sự Thật về Khổ Đau như là một hình thức kết quả, sau đó thì nghĩ đến nguyên nhân đưa đến tình trạng khổ đau ấy, tức là Sự Thật về Nguồn Gốc của Khổ Đau.
Phép tu tập trên đây dựa vào sự suy nghiệm như sau:
Một khi chúng ta và tất cả chúng sinh chưa đạt được thể dạng A-la-hán (Arhat) (là thể dạng vượt thoát khỏi chu kỳ của những sự hiện hữu) hay thể dạng của một vị Phật thì chúng ta vẫn sẽ còn tiếp tục lang thang trong cõi luân hồi của các chu kỳ hiện hữu (samsara), có nghĩa là phải tái sinh qua vô số kiếp trong sáu cõi của Ba Thế Giới (còn gọi là Tam Giới, gồm: Dục Giới hay Cõi Tham Dục, Sắc Giới hay Cõi Hình Tướng tức phải lệ thuộc vào một hình tướng để hiện hữu, và Vô Sắc Giới hay Cõi Thánh Nhân còn gọi là Thiên Nhân không cần đến một hình tướng vật chất để hiện hữu) dù là trong các cõi thấp hay cao (trong số sáu cõi có ba cõi thấp là: địa ngục, quỷ đói, súc sinh; và ba cõi cao là: người, bán thiên tức là các hiền nhân những người thông thái, đạo đức, và các thiên nhân/deva), hoặc chuyển hết cõi này sang cõi khác từ cao cho đến thấp, hoặc có thể sinh ra ở cõi cao nhất nhưng sau đó lại rơi vào cõi thấp kém nhất là cõi địa ngục chẳng hạn (những cảnh khổ đau tột cùng chẳng hạn như bị tù tội, hành hạ, ngược đãi, đói nghèo... xảy ra chung quanh chúng ta có thể xem như là những cõi địa ngục). Tất cả là do chính mình đã tạo ra nguyên nhân tức nguồn gốc đưa đến những thứ khổ đau ấy qua các thể dạng tái sinh trong chu kỳ hiện hữu
Sự Thật về Khổ đau
Qua các kiếp sống trong quá khứ của mình thì mỗi người trong chúng ta đã từng chịu đựng vô số những khổ đau kinh hoàng, thật khó để hình dung hết được những thứ khổ đau sâu xa đó. Thật vậy trong chu kỳ của các sự hiện hữu có phải lúc nào chúng ta cũng được sinh ra làm người đâu. Trong vô số kiếp tái sinh qua sáu thể dạng chúng sinh trong chu kỳ của những sự hiện hữu, dù là ở thể dạng nào thì chúng ta cũng đều phải gánh chịu những khổ đau trong kiếp sống ấy (và sẽ còn tiếp tục gánh chịu những khổ đau khác trong các kiếp sống khác trong tương lai). Các kiếp sống của chúng ta tiếp nối nhau bất tận với đủ mọi thứ khổ đau, không mấy khi hưởng được một chút hạnh phúc dù chỉ là phù du.
Maitreya (Di Lặc, là một vị đại sư thầy của Asanga/Vô Trước, không phải là Phật Di Lặc) cũng từng nêu lên trong giáo huấn của mình các thứ khổ đau mang lại từ bệnh tật và các nguyên nhân gây ra các bệnh tật ấy như là một thí dụ tiêu biểu cho thấy quá trình diễn tiến từ sự nhận biết khổ đau đến việc tìm kiếm nguyên nhân của những khổ đau ấy. Mỗi khi bị bệnh thì chúng ta đi khám bác sĩ để tìm hiểu xem nguyên nhân của căn bệnh ấy là gì. Cũng thế Giáo Huấn của Đức Phật giúp chúng ta tìm hiểu căn nguyên các thứ khổ đau của mình. Giáo huấn Phật giáo cho biết có ba thứ khổ đau khác nhau: "khổ đau của khổ đau", "khổ đau mang lại bởi sự đổi thay" và "khổ đau nội tại của chu kỳ của những sự hiện hữu" (luân hồi tự nó là một sự khổ đau).
Hình thức khổ đau thứ nhất tức là "khổ đau của khổ đau" rất dễ nhận biết. Khổ đau này gồm tất cả những gì mà chúng ta thường gọi là "khổ đau", có nghĩa là những thứ đau đớn hiển nhiên, chẳng hạn như bệnh tật: nhức đầu, đau bụng, hoặc những đớn đau tinh thần: phiền muộn, lo buồn, tang chế, gặp phải khó khăn, v.v. Nói một cách khác là tất cả những sự cảm nhận đau đớn và lo buồn đều thuộc vào thể loại "khổ đau của khổ đau".
"Khổ đau của sự đổi thay" là các cảm nhận thích thú tạm thời, chẳng hạn như sự thích thú trước một bữa cơm khi đang đói, hoặc cảm giác mang lại từ một chiếc áo ấm vừa vặn khi trời lạnh... Các cảm giác thích thú tạm thời đó cũng chỉ là những hình thức khổ đau của sự đổi thay. Tuy không phải thật sự là những cảm nhận đớn đau nhưng cũng có thể gọi chúng là "khổ đau". Mỗi khi các cảm nhận thích thú hiện ra thì chúng ta thường xem đấy là hạnh phúc đích thật, bởi vì thật hết sức khó cho chúng ta nhận biết được bản chất khổ đau tàng ẩn bên trong những giác cảm thích thú đó. Thật vậy quả rất khó nhận thấy khổ đau qua những cảm nhận thích thú, chẳng hạn như ăn một bữa cơm ngon, tham dự những buổi giải trí vui nhộn, v.v... Chúng ta thường xuyên tìm cách mang lại hạnh phúc cho mình bằng những sự thích thú đại loại như thế, nhưng không hề ý thức được chúng chỉ là những thứ hạnh phúc tạm thời, những thứ khổ đau của sự đổi thay mà thôi. Chỉ vì không quán thấy được bản chất đích thật của những thứ hạnh phúc đó thật ra chỉ là khổ đau, nên chúng ta không sao có thể làm hiện lên trong lòng mình quyết tâm thoát khỏi chu kỳ của các sự hiện hữu, hầu mang lại sự giải thoát cho mình.
Hãy nêu lên thí dụ về sự thích thú đến từ một bữa tiệc tùng vào dịp lễ cuối năm (hay dịp Tết Tây Tạng chẳng hạn). Chúng ta ăn nhiều và quá chén, lúc đầu là một sự hả hê, thế nhưng sự tham ăn và quá uống ấy khiến chúng ta bị bệnh. Đấy là những gì cho thấy bản chất của khổ đau mà trước đó chúng ta cho là hạnh phúc đích thật, là một thứ hạnh phúc lâu bền mà chúng ta có thể tha hồ tận hưởng ngày càng nhiều thêm, không bao giờ mất mát đi, và bản chất hạnh phúc đó sẽ không bao giờ biến đổi. Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng quá một giới hạn nào đó thì ăn nhiều và quá chén sẽ khiến mình bị ốm đau. Tất cả những hình thức thích thú ấy không phải là hạnh phúc đích thật, bản chất của chúng là khổ đau. Những sự thích thú ấy thực sự chỉ là khổ đau mà thôi.
Điều này có thể chứng minh bằng nhiều cách: Thí dụ trời đang rét căm căm, nhưng khi tiến đến gần một bếp lửa thì một cảm giác thật dễ chịu sẽ đến với mình như là một thứ hạnh phúc. Thế nhưng nếu ngồi lâu bên bếp lửa thì ta sẽ cảm thấy quá nóng và nhận thấy rằng ngồi bên bếp lửa chẳng có gì là thích thú cả, hơi nóng trở thành một thứ gì đó rất khó chịu. Đấy là một hình thức khổ đau của sự đổi thay. Cảm giác thích thú mà chúng ta ghi nhận được không phải là hạnh phúc đích thật và lâu dài bởi vì sớm muộn nó sẽ biến thành khổ đau. Các sự thích thú đó không thể mang lại hạnh phúc lâu bền dù cho sự cảm nhận của mình luôn tìm mọi cách để đuổi bắt chúng (thí dụ mua một bộ quần áo mới, mặc lên người chúng ta cảm thấy thích thú và hãnh diện, thế nhưng sau đó thì lại hối tiếc là tại sao mình lại không chọn một màu áo khác tươi hơn, hoặc hôm sau thì cửa hàng trưng bày một kiểu áo khác có vẻ trẻ trung và đẹp hơn khiến mình không còn thích bộ quần áo vừa mua hôm trước. Đó là những thứ khổ đau thường xuyên của sự đổi thay, mang lại từ bản chất vô thường của mọi hiện tượng kể cả bên trong tâm thức mình).
Đối với những gì mà người ta gọi là "khổ đau nội tại của chu kỳ hiện hữu" là tất cả các cảm nhận trung hòa, tức có nghĩa là không thích thú cũng không khó chịu, cũng chính vì thế mà người ta gọi chúng là các "cấu hợp tâm-lý-thể-xác" (psychosomatic aggregates) (các tác động hổ tương liên kết giữa tâm lý và thân xác) không tinh khiết (kết quả mang lại từ các nguyên nhân sai lầm và vô minh) nhờ sự kết hợp của nhiều điều kiện mà có (conditioned co-production), có nghĩa là các cấu hợp không tinh khiết phát sinh bởi sự chi phối của nghiệp và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức (thể loại khổ đau này rất tế nhị, sâu kín và phức tạp, có thể hiểu một cách vắn tắt là những thứ khổ đau hiện sinh mang lại từ bản chất cấu hợp luôn luôn biến động của tri thức và thân xác một cá thể).
Khi nào ba thể loại khổ đau trên đây hiện ra thì chúng sẽ biến thành các nguyên nhân đưa đến các yếu tố bấn loạn trong tâm thức (khổ đau sẽ làm hiện ra các thứ xúc cảm bấn loạn). Chẳng hạn mỗi khi các cảm nhận thích thú hiện ra - thật ra thì đấy cũng chỉ là các thứ khổ đau của sự đổi thay - thì chúng sẽ tạo ra rất nhiều yếu tố bấn loạn trong tâm thức, nhất là các sự thèm muốn và bám víu, chẳng hạn như thèm muốn các món ăn mà chúng ta xem là tuyệt hảo, hoặc ngược lại là các sự ghét bỏ mỗi khi các cảm nhận không thích thú hay đớn đau hiện ra với mình. Các khổ đau mang tính cách nội tại liên kết với chu kỳ của những sự hiện hữu là nguyên nhân đưa đến các yếu tố bấn loạn trong tâm thức, chẳng hạn như vô minh và mù quáng.
Tóm lại chúng ta cảm nhận vô số những thứ khổ đau đủ loại, thế nhưng tất cả dù là dưới hình thức nào cũng đều thuộc vào ba thể loại khổ đau trên đây.
Nếu muốn kê ra chi tiết tất cả các thứ khổ đau mà chúng sinh phải gánh chịu thì thật hết sức dài dòng, chỉ làm mất thêm thì giờ cho chúng ta mà thôi.
Đại sư Vasubandhu (Thế Thân) so sánh hoàn cảnh của chúng ta trong chu kỳ xoay vần của những sự hiện hữu với đầu một chiếc kim nhọn (gây ra đau đớn cho mình). Khi vẫn còn vướng mắc trong chu kỳ đó thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể cảm nhận được hạnh phúc. Thật vậy, khi nào chưa thoát ra khỏi chu kỳ hiện hữu đó thì chúng ta cũng chỉ có thể cảm nhận được những thứ hạnh phúc phù du, chẳng những không bao giờ tìm được hạnh phúc lâu dài và bền vững mà còn phải đối đầu với hết khổ đau này đến khổ đau khác.
Đức Phật nêu lên vấn đề khổ đau trước nhất thế nhưng đấy không phải là để mang lại thêm đau buồn và thất vọng cho chúng ta mỗi khi nhìn lại thân phận mình, hay tạo ra thêm khó khăn trong cuộc sống của chúng ta, cũng không phải là để khiến chúng ta chỉ biết ta thán về số phận mình: thế thì tôi phải chịu đựng toàn là khổ đau, mãi mãi chỉ là khổ đau hay sao? Tất nhiên đấy không phải là mục đích của Đức Phật khi nêu lên Sự Thật về Khổ Đau. Sở dĩ Ngài nói lên điều đó là để chúng ta ý thức được bản chất khổ đau trong hoàn cảnh của mình hầu giúp mình tìm cách thoát ra khỏi nó. Bởi vì một khi đã ý thức được bản chất khổ đau ấy của mình thì chính sự ý thức đó sẽ trở thành nguyên nhân khơi động lòng ước vọng giải thoát mình ra khỏi chu kỳ của những sự hiện hữu.
Suy tư về ba thể loại khổ đau không phải là một việc quá khó. Sự suy tư ấy không đòi hỏi chúng ta phải hồi tưởng lại các cảm nhận từ lâu đời trong các kiếp sống quá khứ hay tưởng tượng các khó khăn sẽ xảy đến trong tương lai. Chúng ta không cần phải nhìn vào những gì xảy ra đã từ lâu hoặc sẽ xảy đến trong tương lai, bởi vì khổ đau đang xảy ra với mình ngay trong hiện tại này, ngay trong những giây phút này. Khổ đau của chúng ta là thực tại trong từng giây phút mà mình đang trải qua. Chỉ cần suy tư về các cảm nhận hằng ngày trong cuộc sống cũng đủ để chúng ta nhận thấy những khổ đau ấy.
Sự Thật về Nguồn Gốc của Khổ Đau
Tuy nhiên chúng ta cũng có thể tự hỏi: Vậy thì những thứ khổ đau ấy phát sinh từ đâu? Thật hết sức hiển nhiên, một mặt chúng không thể phát sinh mà lại không có một nguyên nhân nào làm động cơ thúc đẩy, mặt khác chúng cũng không thể là sản phẩm do bất cứ ai khác tạo ra cho mình hay một nhân vật nào từ bên ngoài điều khiển và áp đặt những thứ khổ đau ấy cho mình (khổ đau là do mình khổ đau, bởi vì đó là những cảm nhận của mình bên trong tâm thức mình. Những khổ đau ấy là do mình tạo ra trên dòng tri thức của chính mình. Con người có những khổ đau của con người, Thượng Đế có những khổ đau của Thượng Đế. Thượng Đế thương con người hay con người thương Thượng Đế cũng là những biểu hiện của khổ đau).
Hiện tại chúng ta đang vuớng mắc trong quá trình xoay vần của chu kỳ các sự hiện hữu. Thế nhưng tại sao chúng ta lại bị lôi cuốn vào quá trình đó? Nguyên nhân gây ra khổ đau là gì? Tại sao Nguyên nhân cội rễ mang lại khổ đau lại gọi là "Sự Thật Cao Quý về Nguồn Gốc của Khổ Đau"?
Đối với các thể dạng tinh tế nhất của nguồn gốc mang lại khổ đau thì chỉ có một vị Phật mới nhận biết được mà thôi. Trên khắp thế giới này từng có rất nhiều quan điểm giải thích về nguyên nhân mang lại khổ đau cho chúng ta. Theo một số truyền thống tín ngưỡng và triết học thì từ bên trong nguồn gốc của khổ có sự hiện diện của Vị Sáng Tạo ra Thế Giới, hàm chứa một sức mạnh toàn năng, đứng vào một vị thế bên ngoài chúng ta để quản lý mọi cảm nhận của chúng ta. Đức Phật qua sự sáng suốt siêu việt của mình đã quán thấy trực tiếp được bản chất của tất cả mọi sự hiện hữu và nhận biết được thật minh bạch khổ đau có một nguyên nhân gọi là "Nguồn Gốc của Khổ Đau" (nghĩa từ chương là "nguyên nhân làm phát sinh ra tất cả") sự nhận biết ấy thật chính xác tương tự như những con người bình dị chúng ta nhìn vào những gì trong lòng bàn tay mình.
Nguồn gốc ấy của khổ đau chính là nghiệp (karma) và các yếu tố bấn loạn bên trong tâm thức mình. Nghiệp mà chúng ta tự tạo ra cho mình và các yếu tố bấn loạn bên trong tâm thức mình chính là nguyên nhân mang lại khổ đau cho chính mình (một lần nữa xin nhắc lại là các "yếu tố bấn loạn trong tâm thức" còn được gọi là các "xúc cảm bấn loạn"/disturbing emotions/émotions perturbatrices, hay các "độc tố tâm thần". Tiếng Phạn là "klesa", tiếng Pa-li là "kilesa" có nghĩa là các xúc cảm tiêu cực, bấn loạn, mang tính cách tàn phá, u mê và sai lầm, thế nhưng kinh sách gốc Hán ngữ thì lại gọi là "phiền não"! Tiếc thay một chữ dịch không sát nghĩa có thể mang lại hoang hoang khiến người tu tập không hiểu được đúng đắn giáo lý Phật giáo là gì).
Nguồn gốc của khổ đau do đó gồm có hai thể dạng: nghiệp (karma) và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức. Các yếu tố bấn loạn này có thể là các cảm tính tham lam, bám víu, hận thù, ghét bỏ, vô minh, sai lầm, kiêu ngạo, ganh tị, v.v. Xung năng của các yếu tố bấn loạn đó sẽ chuyển thành hành động và từ các hành động mà nghiệp sẽ phát sinh (nên hiểu nghiệp/karma" là các nguyên nhân đã được tạo ra từ trước, trong khi đó thì "các yếu tố bấn loạn trong tâm thức" là những gì đang tạo ra các nguyên nhân mới cho tương lai. Đó là sự diễn tiến dây chuyền của nghiệp).
Hãy đưa ra thí dụ về trường hợp bực dọc hay là nổi giận: nếu có một người nào đó nguyền rủa hoặc chỉ trích mình thật gay gắt, thúc đẩy bởi sự bám víu vào "cái tôi" của họ, một cái tôi phát sinh từ sức mạnh của vô minh của chính họ, khiến mình nổi giận thật hung hãn, xui khiến mình hành động dưới sự chi phối của cơn giận dữ đó, thì đấy là cách mà mình tự gây ra nghiệp tiêu cực cho chính mình.
Chúng ta hãy đưa ra thêm một thí dụ khác: một tên trộm chẳng hạn. Trước hết tên trộm bị chi phối bởi sự nắm bắt "cái tôi" tạo ra bởi tình trạng vô minh trong tâm thức hắn, sau đó hắn trông thấy một vật có thể mang lại thích thú cho mình, sự thèm muốn và bám víu xâm chiếm hắn, thúc đẩy hắn, khiến hắn tự nhủ như sau: "Nhất định là vật này phải thuộc về tôi ". Sự suy nghĩ đó chuyển thành hành động và hắn chộp lấy vật ấy. Đấy là cách mà hắn tạo nghiệp tiêu cực cho mình qua hành động đánh cắp ấy. Vào một lúc nào đó trong kiếp tái sinh sau này, nghiệp tiêu cực trên đây sẽ khiến hắn rơi vào cảnh huống nghèo khổ. Các thí dụ liên quan đến nghiệp và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức còn nhiều nhưng không thể kể ra hết được vì không đủ thì giờ. Nói một cách vắn tắt là chúng ta cũng chẳng khác gì như các vị bộ trưởng trong một chính phủ hay bề tôi của một vị vua, không sao chống lại các mệnh lệnh từ trên ban xuống. Cũng thế, chúng ta bị điều khiển bởi nghiệp và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức mình, không sao thoát khỏi sự kiềm tỏa của chúng, do đó chúng ta không có một chút tự do nào cả và chỉ biết tuân lệnh của chúng mà thôi. Vì thế mặc dù hết lòng mong cầu tìm cho mình một niềm hạnh phúc lâu bền, luôn được sống và không hề biết cái chết là gì, chỉ toàn cảm nhận được sự thích thú, thế nhưng chỉ vì bị nô lệ bởi nghiệp và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức mà chúng ta không chủ động được, nên chúng ta phải chết, phải tái sinh trong nhiều hoàn cảnh khác nhau và trong các hoàn cảnh đó chúng ta lại phải gánh chịu đủ mọi thứ khổ đau, để rồi phải chết, phải sinh không biết bao nhiêu lần như thế.
Chẳng hạn ai mà không muốn sống đến 200 tuổi hay hơn nữa, thế nhưng hy vọng ấy thật hão huyền, nguyên nhân đưa đến sự chua chát đó chính là nghiệp và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức, chúng trừng trị chúng ta, không cho phép chúng ta thoát khỏi sự kiềm tỏa của chúng, khiến chúng ta đành phải chấp nhận cái chết mà thôi. Đối với các ước vọng khác trong kiếp sống này cũng thế, tất cả đều không sao thoát khỏi sự kiềm tỏa của nghiệp và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức. Chúng ta mong muốn được sống hạnh phúc, sung mãn, không gặp khó khăn, không lo âu, thế nhưng chỉ vì nghiệp và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức chi phối nên chúng ta không thể nào thực hiện được những thứ ấy.
Tuy nhiên, chung quanh chúng ta cũng có những người giàu có, trên phương diện vật chất thì họ chưa bao giờ biết thiếu thốn là gì. Đó là kết quả do nghiệp của họ mang lại cho họ, chẳng qua là vì trong các kiếp sống trước đây họ đã tạo được những nghiệp đạo hạnh đưa đến các nguyên nhân thuận lợi, và đồng thời trong kiếp sống hiện tại họ nỗ lực tạo ra các cơ duyên thích nghi giúp cho các nguyên nhân thuận lợi ấy trở thành kết quả. Thật vậy, nếu muốn cho kết quả của nghiệp có thể xảy ra thì phải có sự kết hợp giữa nguyên nhân và các cơ duyên thuận hợp. Nghiệp tích tụ từ trước là nguyên nhân, các nỗ lực của mình nhằm vào một chủ đích nào đó trong kiếp sống này là cơ duyên. Nếu chỉ duy trì các nguyên nhân của nghiệp trong tình trạng nguyên nhân của nó nhưng không tạo ra cho nó các cơ duyên thích hợp thì sẽ chẳng có một kết quả nào xảy ra cả. Thí dụ, dù chúng ta từng tạo được các nghiệp thuận lợi nhằm mang lại sự giàu có cho mình, thế nhưng nếu mình chỉ biết khoanh tay ngồi chờ thì nguyên nhân sẽ không thể nào trở thành kết quả được (thật ra nghiệp tự nó cũng giữ một vai trò khá chủ động, đó là cách tạo ra các xung năng trong nội tâm mình, đưa đẩy hoặc xui khiến mình tiếp xúc với một số các cảnh huống tương quan và thích hợp với nó thuộc bối cảnh bên ngoài, sự tiếp xúc đó chính là cơ duyên thuận lợi và thích nghi khiến cho nguyên nhân của nghiệp bên trong dòng tri thức mình biến thành kết quả). Do đó trong kiếp sống hiện tại chúng ta cũng phải tích cực và phát huy sự cố gắng, hầu tạo ra các cơ duyên thuận lợi.
Tuy nhiên cũng có nhiều người tận lực thực hiện một số chủ đích nào đó, chẳng hạn như tạo ra cho mình của cải hay những thứ khác, thế nhưng dù khổ công hao sức nhưng chẳng đạt được một kết quả nào cả. Trong các trường hợp đó tuy cơ duyên hội đủ thế nhưng nguyên nhân của nghiệp thì lại không có, vì thế sẽ không có kết quả nào có thể xảy ra được.
Khi nào đã hoàn toàn tẩy xóa được tất cả các tác động của nghiệp và trở thành Phật thì khi đó người ta sẽ không còn chết nữa, không còn khổ đau nữa, không còn cảm nhận bất cứ một sự đớn đau nào nữa cả. Người ta sẽ vĩnh viễn an trú trong thể dạng phúc hạnh của Bồ-đề Tâm (Boddhicitta/Tâm thức Giác Ngộ).
Tóm lại chu kỳ của những sự hiện hữu hay cõi luân hồi (samsara) (nghĩa từ chương trong tiếng Tây Tạng là "chiếc bánh xe" hay "cái vòng tròn"), là một sự chuyển động liên tục, một sự xoay vần bất tận giữa các sự sinh dưới sáu thể dạng hiện hữu của Ba Thế Giới (Tam Giới) và các cái chết, cứ sau mỗi sự sinh lại có một cái chết. Dưới sự chi phối của nghiệp và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức, chúng ta sinh ra và lại chết, tiếp tục sinh ra rồi lại chết... đấy gọi là cõi luân hồi.
Nếu muốn được tái sinh với một sự tự nguyện hoàn toàn, tức có nghĩa là không bị chi phối bởi sức mạnh của nghiệp và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức thì nhất thiết phải đạt được thể dạng A-la-hán (Arhat), là những vị đã thoát khỏi sự kiềm tỏa của nghiệp và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức mình, họ có thể tự nguyên tái sinh ở bất cứ nơi nào hoặc hòa nhập vào bất cứ cõi nào mà họ muốn. Vậy nếu muốn trở thành một vị A-la-hán, tức là một chúng sinh đã thoát ra khỏi chu kỳ của các sự hiện hữu, tức là giải thoát mình khỏi sự khống chế của nghiệp và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức, thì nhất thiết phải luyện tập ít nhất theo con đường của những người tu tập ở cấp bậc trung bình, gồm việc thiền định về 16 đặc tính của Bốn Sự Thật Cao Quý, chẳng hạn như vô thường, v.v. Thật ra nếu muốn đạt được thể dạng A-la-hán thì trước hết phải khơi động quyết tâm thoát khỏi chu kỳ của những sự hiện hữu và ước vọng đạt được sự giải thoát. Luyện tập thiền định về Bốn Sự Thật Cao Quý và 16 đặc tính của Bốn Sự Thật ấy là cách giúp mình thực hiện các sở nguyện trên đây (16 đặc tính của Bốn Sự Thật sẽ được nêu lên trong phần Phụ Lục ở phần cuối của bài giảng).
Các đặc tính liên quan đến Sự Thật về Khổ Đau
Chúng ta không có đủ thì giờ giải thích chi tiết toàn bộ 16 đặc tính của Bốn Sự Thật Cao Quý, nên chỉ có thể nêu lên một cách tổng quát. Mỗi Sự Thật trong Bốn Sự Thật Cao Quý đều có bốn đặc tính, do đó sẽ có 16 đặc tính tất cả.
Các cấu hợp tâm-lý-thể-xác (Agrégats psychosomatiques) mà chúng ta hiện đang có là những cấu hợp ô nhiễm, tức không tinh khiết, có nghĩa là phải nhờ vào sự kết hợp của nhiều điều kiện mà có (tức có nghĩa là phải lệ thuộc vào sức mạnh của nghiệp và các yếu tố bấn loạn tâm thần để mà hiện hữu).
Bản chất của các cấu hợp trên đây sẽ làm nền tảng xác định các đặc tính của Bốn Sự Thật Cao Quý, và đối với Sự Thật Cao Quý về Khổ Đau thì các đặc tính ấy là:
- vô thường
- bản chất của khổ đau
- sự trống không (Tánh Không)
- không có cái tôi (vô ngã)
Chúng ta hãy nhìn vào các cấu hợp của chính mình để thiền định (suy tư) về bốn đặc tính ấy.
Vô thường
Đối với các cấu hợp tâm-lý-thể-xác thì việc thiền định về đặc tính vô thường của chính thân xác mình sẽ giúp mang lại nhiều hiểu biết bổ ích nhất.
Thật vậy, thân xác chúng ta là vô thường, bởi vì nó chỉ hiện hữu tạm thời mà thôi, nó không thể kéo dài bất tận được. Thân xác chưa bao giờ hiện hữu truớc sự sinh của mình. Sở dĩ nó hiện hữu là nhờ vào sự sinh (theo Phật giáo sự sinh bắt đầu từ khi thụ thai: tức kể từ lúc noãn cầu và tinh trùng bắt đầu kết hợp với nhau). Sau đó thì nó sẽ không hiện hữu nữa. Do đó nó chỉ có thể hiện hữu trong một lúc nào đó, và vào một lúc khác thì nó không còn hiện hữu nữa.
Thân xác là vô thường bởi vì nó được tạo ra và mang bản chất không vĩnh viễn. Một khi mà nó được tạo tác bằng cách nhờ vào sự kết hợp của một số nguyên nhân và điều kiện thì nó sẽ không sao tránh khỏi sự biến đổi. Khi nào các nguyên nhân và điều kiện tạo ra nó đã kiệt lực (hao hụt, không còn nguyên vẹn) thì sự hiện hữu của nó cũng sẽ chấm dứt.
Chúng ta cũng có thể áp dụng sự suy nghiệm này đối với tổng thể các cấu hợp tâm-lý-thể-xác. Tuy nhiên trong cấp bậc luyện tập hiện nay của mình thì chúng ta cũng chỉ cần suy nghiệm về thân xác của mình cũng là đủ.
Thí dụ một cơ xưởng đóng xe làm ra một chiếc xe, thì cũng dự trù chiếc xe sẽ được sử dụng trong một thời gian nào đó. Tuy nhiên trong khoảng thời gian này chiếc xe cũng có thể bị tai nạn hoặc bị hư hỏng, không còn sử dụng được nữa trước thời gian dự tính. Dù là trong trường hợp nào thì chiếc xe cũng chỉ có thể chạy được trong một khoảng thời gian nhất định nào đó mà thôi, khoảng thời gian này tuy thuộc vào độ hao mòn của tất cả các bộ phận tạo ra nó, đến một độ hao mòn nào đó thì chiếc xe sẽ không còn sử dụng được nữa.
Cũng thế, thân xác chúng ta trong cuộc sống này cũng đã được quy định bởi nghiệp và các yếu tố tâm thần bấn loạn của mình trong quá khứ. Dù cho thân xác tồn tại cho đến khi chúng ta được một trăm tuổi thì nó cũng không sao vượt xa hơn khoảng thời gian này.
Một chiếc xe - hay bất cứ một máy móc nào khác cũng vậy - nếu tự nó hiện hữu không cần ai sáng tạo ra nó cả, có nghĩa là tự nhiên nó hiện hữu như thế, bản chất của nó là như thế, sự hiện hữu của nó là nhờ vào quyền lực của chính nó, thì trong trường hợp đó nó sẽ không bao giờ bị biến đổi cả. Nếu nó được tạo dựng bởi chính nó, thì nó phải luôn luôn hiện hữu giống hệt với chính nó, không hề bị hư hao gì cả. Thế nhưng nếu đã là sản phẩm của một sự tạo tác, là kết quả mang lại từ một quá trình tạo dựng nhờ vào sự lắp ráp của nhiều bộ phận khác nhau và sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và điều kiện khác nhau, thì nó sẽ phải biến đổi, hư hao, và khi nào không còn giữ được chức năng của nó nữa thì hạn kỳ hiện hữu của nó cũng sẽ chấm dứt.
Thật hết sức quan trọng là phải biết suy tư về vô thường theo chiều hướng đó. Thật vậy suy nghiệm về vô thường là cách hiệu quả nhất thúc dục chúng ta đến gần với Đạo Pháp (Dharma) và khích động chúng ta nên sớm tu tập. Bởi vì nếu chúng ta biết tu tập ngay trong lúc này thì không những chúng ta sẽ tìm thấy hạnh phúc trong kiếp sống hiện tại mà cho cả những kiếp sống tương lai. Do đó biết đến gần với Đạo Pháp trong kiếp sống này là cả một điều may mắn, giúp mình hiểu được là phải suy tư về vô thường hầu mang lại cho mình những ứng dụng lợi ích.
Chúng ta hãy nhìn vào các nhân vật thế lực trong thế giới này, chẳng hạn như vua chúa, các bậc vĩ nhân, các nhà thông thái, kể cả chư Phật và các vị Bồ-tát, để xem những gì đã và sẽ xảy đến với họ? Dù danh tiếng cách mấy thì họ cũng đều giã từ thế giới này, mang theo thân xác của họ, chẳng có gì tồn tại. Thân xác là vô thường, phù du, gánh chịu mọi sự biến đổi đưa nó đến chỗ chấm dứt. Biết suy tư như thế thật hết sức quan trọng, đó là cách giúp chúng ta biết nghĩ đến việc tu tập Đạo Pháp và ý thức được là kẻ khác cũng như chính mình, tất cả đều phải rời bỏ sự sống này một ngày nào đó. Và khi cái ngày ấy xảy đến thì những gì mà mình có thể trông cậy được là kết quả mà mình đã thực hiện được từ việc tu tập Đạo Pháp của mình trước đây, bởi vì thân xác của mình lúc đó đã trở thành một thây ma mà mình bỏ lại phía sau.
Tóm lại, các cấu hợp ô nhiễm nhờ các điều kiện mà có [tức là nghiệp và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức] là vô thường, chẳng qua vì chúng chỉ là các sản phẩm phù du và tạm bợ.
Khổ đau (nói một cách chính xác hơn là Bản chất của Khổ Đau)
Các cấu hợp ô nhiễm nhờ vào sự kết hợp của nhiều điều kiện đưa đến sự hình thành của chúng ta, đều mang bản chất khổ đau (xin nhắc thêm dấu ấn thứ hai trong số bốn dấu ấn của Phật giáo là: "Tất cả các hiện tượng cấu hợp đều là khổ đau"), chẳng qua là vì các cấu hợp ấy luôn phải gánh chịu sự chi phối của nghiệp và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức.
Tánh Không và Vô Ngã
Thật ra trong trường hợp này (Bốn Sự Thật Cao Quý) không có gì khác biệt nhiều giữa những gì mà chúng ta gọi là "Tánh Không" và "Vô Ngã" (không có cái tôi). Trên phương diện tổng quát, Vô Ngã gồm có nhiều cấp bậc tinh tế khác nhau, các cấp bậc này được xác định tùy theo các học phái triết học kh