;
Tấm bia được tạc bằng đá xanh nguyên khối. Bia có chiều cao 1,45m, rộng 0,8 m và dày 0,18m. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá. Rùa có chiều dài 1,50 m, rộng 0,9 m và cao 0,32 m. Cổ và đầu rùa dài 0,38 m. Rùa được đặt trên mặt đất, bốn chân rùa được tạc nổi, mỗi chân có 5 móng. Đuôi rùa nhỏ, được tạc uốn cong, vắt lên lưng. Đầu rùa ngẩng cao, vẻ uy nghi đường bệ. Toàn thân rùa cũng được tạc từ một phiến đá xanh nguyên khối, nét chạm rất tinh tế, mềm mại, hình khối cân đối và vững chãi. Lưng rùa nhẵn và tròn trịa, giữa lưng có đục một mộng ghép hình chữ nhật để ghép khớp với chân bia đá. Chính mộng ghép này đã giữ cho bia đá có thể đứng ngay ngắn trên lưng rùa trong suốt hơn 900 năm. Trán bia khắc dòng chữ lớn: “Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi” nghĩa là bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc. Văn bia khắc kín phần thân bia. Hai góc của trán bia có khắc hình hai con rồng chầu lên chữ “Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi”. Hình tượng hai con rồng chầu bên trán bia đều ở tư thế nhìn nghiêng và giống hệt nhau cả về kích thước và kiểu dáng. Làm nền cho hình tượng con rồng là các hoa văn hình vân mây và một số hoa văn hình chữ S biểu hiện ý niệm về mây mưa, sấm chớp cầu mong mưa thuận gió hòa, nhân tố thiết yếu đối với nền kinh tế nông nghiệp của đất nước ta.
Bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc. Ảnh: Lý Thịnh |
Người soạn bia là Lý Thừa Ân, văn bia được soạn theo lệnh của Hà Hưng Tông là nhân vật được nhắc đến trong bia. Bên cạnh phần đạo lý Phật giáo, nội dung bia nói về gia thế của dòng họ Hà. Đời ông của Hà Hưng Tông làm quan Thái Bảo. Cha của Hà Hưng Tông có công trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược. Bấy giờ, nhân lúc vua Lý Nhân Tông lên ngôi mới 7 tuổi, nhà Tống bèn tập trung binh mã tại các trấn thành phía Nam, chuẩn bị xâm lược nước ta.
Lý Thường Kiệt tổng chỉ huy quân đội đã đề xuất chiến lược “Tiên phát chế nhân”. Tháng 10-1075, ông thống lĩnh 10 vạn quân chia làm 2 đạo thủy, bộ tập kích thẳng vào đất Tống. Thân phụ của Hà Hưng Tông với binh mã châu Vị Long (Chiêm Hóa ngày nay) đã đóng vai trò quan trọng trong đạo quân đường bộ này. Sau 42 ngày đêm công phá, quân ta đã chiếm được thành trì của châu Ung, châu Khâm, châu Liêm, trong đó châu Ung là căn cứ quân sự lớn nhất. Quân ta phá hủy kho tàng khí giới, lấy đá lấp sông ngăn chặn sự vận chuyển của đối phương. Cuộc tấn công chiến lược nói trên có tác dụng làm suy giảm lực lượng và phương tiện chiến tranh của địch.
Văn bia ghi: “Thân phụ Thái Phó chỉnh đốn vương sư đánh sang ải Bắc, vây thành Ung cho bõ giận, bắt tướng võ, dâng tù binh, do đó được nhà vua ban chức Hữu đại liêu ban đoàn luyện xứ”. Nhờ công lao của cha nên Hà Hưng Tông năm 9 tuổi được kết làm em vua nhà Lý, năm 10 tuổi (1078) được phong chức Tả đại liêu ban và kết duyên với công chúa Khâm Thánh. Đến năm 1086 được nối tước Thái Phó kiêm tri châu Vị Long. Việc các tù trưởng dân tộc thiểu số giữ các châu mục, nhận chức tước của triều đình chứng tỏ từ lâu vùng này đã nằm trong hệ thống hành chính của Nhà nước thống nhất, đồng bào các dân tộc cùng với người Kinh nằm trong khối cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc là tài liệu thành văn cổ nhất phát hiện được trên đất Tuyên Quang và là một trong số rất ít các di vật thời Lý (thế kỷ XI) còn được nguyên vẹn cho tới ngày nay. Ngoài giá trị lịch sử, tấm bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc còn mang giá trị tiêu biểu, điển hình cho nền mỹ thuật điêu khắc thời Lý (nền nghệ thuật Phật giáo).