;
Giữ Gìn và Bảo Vệ Di Tích Cổ Ở Chùa Đậu, Hà Tây
Trước khi bị thực dân Pháp đốt (năm 1947), chùa còn lưu giữ nhiều đồ vật quý do Vua Lê, Chúa Trịnh ban, còn cả ngôi chính điện thờ Pháp vũ mang đậm nét văn hóa bản địa. Giờ đây, Chùa Đậu đem lại cảm giác luyến tiếc cho mọi người trước khu cảnh nền chính điện đồ sộ với những chân cột đá lớn trơ trụi còn sót lại sau năm 1947, hai dãy hành lang đặt các bức tượng La hán, bia đá cổ, hương án thờ xuống cấp nghiêm trọng, những kèo cột, mái ngói mục nát, xập xệ. Hiện nay chùa đang tu sửa nhà thờ tổ và sắp tới sẽ tiếp tục tiến hành với một trong hai dãy hành lang. Với nguồn kinh phí có hạn do Nhà nước hỗ trợ, chùa chỉ có thể đủ để chống xuống cấp một số khu vực chính.
Năm ngoái, Chùa Đậu từng có thời gian gây xôn xao dư luận vì vụ kẻ gian hung dữ đột nhập trong một đêm mưa gió tối trời. Sau sự cố này, nhà chùa vẫn luôn có bốn thầy trò sư Thích Thanh Nhung túc trực cùng một bảo vệ xã hỗ trợ, dự định sẽ tăng thêm người. Mặc dù từ đó đến nay chưa xảy ra chuyện gì nhưng với địa thế hiện tại của chùa chưa phải là thật sự kiên cố, lại ở nơi vắng vẻ đồng không mông quạnh vẫn luôn gợi cho mọi người nỗi lo kẻ gian từ nơi khác đến.
Xin mời quý độc giả xem tiếp tin tức liên hệ đến Chùa Đậu và lịch sử hai nhục thân bất hoại của hai vị thiền sư do các báo ở trong nước và ngoài nước viết:
CHÙA ĐẬU
Một di sản quý, với những báu vật, những điều bí ẩn
Thích Thanh Nhung
Chùa Ðậu vốn là Thành Ðạo Tự nằm ở cuối làng Gia-Phúc xã Nguyễn Trãi huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây, cách Hà-Nội 21 km về phía Nam. Chùa có 5 tên gọi :
1. Thành Ðạo Tự
2. Pháp Vũ Tự
3. Chùa Vua
4. Chùa Bà
5. Chùa Ðậu
Chùa là một trong bốn ngôi chùa thờ Tứ Pháp (Vân,Vũ, Lôi, Ðiện tức là Mây, Mưa, Sấm, Chớp), trung tâm phát sinh Tứ Pháp là thành Luy lâu nay thuộc hai huyện Gia Lương và Thuận-Thành tỉnh Hà Bắc. Hệ thống Tứ Pháp gắn liền với sự tích Chùa Ðậu. Trong cuốn sách bằng đồng có từ thời Sĩ Nhiếp đầu thế kỷ thứ III (200 -210) hiện còn cất giữ tại Chùa có ghi rõ sự tích nàng Man Nương và Phật giáo Ấn độ du nhập vào Việt Nam.
Cách đây gần 2000 năm Chùa Ðậu đã nổi tiếng là nơi linh thiêng ứng nghiệm, mọi người cho rằng về tới nơi đây là đến nơi đất Phật. Gần đây hơn 300 năm, có hai Thiền Sư thành đạo tại Chùa.
Phật Giáo du nhập vào Việt-Nam bằng đường thủy và đường bộ, nói tới lịch sử Phật giáo Việt-Nam người ta không thể quên câu chuyện được thần thánh hóa về nguồn gốc phát sinh Tứ Pháp.
Ðất nước Việt-Nam nằm ở vùng nhiệt đới, Tứ Pháp ra đời là phù hợp với nguyện vọng của người dân Việt-Nam.
Cuốn sách đồng ở Chùa cho biết, ngay từ buổi đầu nền Phật Giáo Việt Nam đã tiếp thu và hấp thụ được tinh hoa của nền Phật Giáo Ấn độ.
Tứ Pháp ra đời mang chủng tử của một Thiền tăng đã đắc đạo người Thiên Trúc, người mẹ là nàng Man Nương Việt-Nam. Thành công của tín, hạnh, nguyện đã làm cho Man-Nương trở thành Ðức Thánh Mẫu sinh Thánh Tử, đúng như câu kệ của Thiền Tăng đã đọc:
Hình hài như đạo thứ
Tâm không cảnh cũng không
Lần nữa chưa giác ngộ
Ứng vật vạn duyên cùng
(Trích sách đồng)
Người Việt Nam đã kế thừa và phát huy được tinh hoa của nền Phật Giáo Ấn độ, nhưng vẫn mang bản sắc riêng của dân tộc. Sĩ Nhiếp làbậc hiền tài được nhân dân tôn trọng như Vua nên được gọi là Sĩ Vương đã thừa nhận điều nầy:
Nước Nam sông núi dáng thần linh
Văn hiến mở khai dạng Phật kinh
Thánh Mẫu quả nhiên sanh Thánh tử
Mưa lành nhuần tưới giúp dân sinh
(Trích sách đồng)
Qua bốn danh hiệu, bốn ngôi chùa thờ bốn vị Bồ Tát về Tứ Pháp, đã toát lên tính tiểu thừa và đại thừa : Chùa Thiền định, Chùa Thành Ðạo, Chùa Phi Tướng, Chùa Trí Quả. Trong Tứ Pháp, Ðức Pháp Vân là chị cả, phần quyết định là Ðức Pháp vũ. Tục ngữ Việt Nam có câu: "Quý vật tầm quý nhân".
Lúc đó ở phía Nam kinh thành như có luồng linh khí. Quách Thông theo lệnh Vua, về tới đất Gia-Phúc thấy thế đất trông tựa dáng hình một đôi hoa sen đang nở tỏa sáng, Quách Thông trình Sĩ Nhiếp, Sĩ Nhiếp cho rằng hoa sen là nơi đất Phật bèn cho lập chùa đặt tên là Thành Ðạo Tự, rước Ðại Thánh Pháp Vũ Ðại Bồ Tát về thờ nên gọi là Pháp Vũ Tự. Do Nhà Vua chọn đất làm Chùa và chỉ dành cho bậc Vua Chúa đến lễ, người dân chỉ được vào lễ trong ba ngày hội nên gọi là Chùa Vua. Bồ Tát hiện thân Nữ nên gọi là Chùa Bà. Bậc trí sĩ cầu nghiệp lớn được đậu đạt, người dân trồng cây ra hoa đậu hoa, ra quả đậu quả từ đó trong dân gian gọi là Chùa Ðậu (Chữ Ðậu cũng là chữ rút gọn từ chữ Thành Ðạo).
Tả cảnh đẹp nơi chùa và công đức vô lượng đó, Sĩ Nhiếp đề thơ rằng :
Ðồng bằng bát ngát nẩy Tòa Sen
Phật ngự trang nghiêm tựa Thiên Tiên
Ðất phúc xây lên cung nguyệt điện
Trời Nam riêng hẳn cảnh thiên nhiên
Nén hương khói tỏa tan niềm tục
Hồ ngọc trăng soi rõ cửa Thiền
Công đức từ bi bao xiết kể
Công lao vô lượng, lại vô biên
(Trích sách đồng)
Trải qua nhiều thời đại, bút tích lưu lại còn in đậm nét trên bia đá tại chùa, công nhận là nơi linh thiêng, ứng nghiệm, nước cầu dân khẩn đều được, đúng như lời thơ tả : Phật ngự trang nghiêm trên toà sen, nơi đất phúc của đạo tâm, trời Nam dành riêng cho cảnh đẹp nơi đây, nén hương khói toả làm tan hết những gì mệt nhọc, ô trọc của trần tục, chỉ thấy một niềm an lạc giải thoát. Cửa thiền là nơi thanh tịnh, như hồ nước vắng lặng, trong suốt chẳng khác gì ngọc, ánh trăng dịu hiền tỏa sáng soi thấu cửa thiền ?
Nên ngày xưa người Việt-Nam tự hào đã hấp thụ được tinh hoa của nền Phật Giáo Ấn-Ðộ thì hơn 300 năm trước có hai Thiền Sư Việt-Nam đã đắc đạo tại chùa - nơi đất Phật các Ngài đã để toàn thân xá lợi. Ðể lại xá lợi là khi viên tịch, các Thiền sư sẵn có lửa tam muội và đã dùng lửa tam muội để thiêu thân, tính chất của lửa tam muội là đốt cháy được những lửa khác, làm cho các lửa khác không đốt cháy được, xá lợi đốt không cháy, ngâm trong nước không tan, không bị thời gian bào mòn. Quy luật của vũ trụ là : Vật chất chỉ có biến đổi từ dạng nầy sang dạng khác mà theo Phật Giáo gọi là thành, trụ, hoại, không. Xá lợi không bị chi phối bởi quy luật vũ trụ, chính vì vậy là một vật báu, là Quốc bảo thiêng liêng, được cung kính như đức Phật sống. Theo quy luật của đạo Phật, xá lợi chỉ để lại trên trái đất 5% đến 10% của toàn thân xá lợi nên gọi là toát thân xá lợi. Toàn thân xá lợi là để lại toàn thân thể không thiếu thứ gì, song với thời gian nào đó 10 năm, 200 năm hay 2000 năm v.v. là do Thiền Sư ấy quyết định, toàn thân xá lợi sẽ chuyển về toát thân xá lợi.
Phật Giáo ở các nước trên thế giới như Ấn Ðộ, Tây-Tạng, Trung-Hoa, Tích-Lan (Srilanca), Nhật-Bản v.v. đều có những pho toàn thân xá lợi.
Tương truyền ở Ấn-Ðộ còn pho toàn thân của Sư Tổ Ma-Ha-Ca- Diếp Tôn-Giả ; ở Tây Tạng có tháp thờ toàn thân xá lợi của Tổ Sư Liên Hoa Sinh Thương Nhân Tố Ðạt-Lai-Ðạt-Ma; ở Trung-Hoa có toàn thân xá lợi của Ðức Lục-Tổ Huệ Năng hiện thờ tại chùa Nam-Hoa, Huyện Khúc Giang, tỉnh Quảng Ðông, tại chùa Vân môn, tỉnh Thiên-Chân thờ toàn thân của Tổ Vân-Môn-Văn-Yến Thiền Sư và toàn thân của Ngài Từ-Hàng-Pháp-Sư ; ở Nhật-Bản có toàn thân của Tổ Nhật Liên Bồ Tát (Nichiren) và toàn thân của Tổ Truyển Giáo Ðại Sư (Dengo Dainhi).
Ở Việt-Nam có Tổ Từ-Ðạo-Hạnh, Tổ Không-Lộ Thiền-Sư (Nguyễn-Minh-Không), Tổ Giác-Hải Sư, Tổ Ðơn-Ðiền Thiền-Sư và hiện hai pho toàn thân xá-lợi đặc biệt giá-trị hy-hữu nhất của nước Việt-Nam còn tồn tại thờ tại Chùa, đó là Thiền sư Ðạo Chân Vũ Khắc Minh và Thiền sư Ðạo Tâm Vũ Khắc Trường. Thật là một biểu tượng cho hàng Thánh tăng Việt-Nam có những bậc vĩ nhân siêu thoát đã tiếp thu chứng đạt một cách thấu triệt viên mãn giáo-lý Phật-đà.
Một dân-tộc tự-hào có nền văn-minh sớm và cao cả vì dân tộc ấy còn tồn tại những chứng tích báu vật tư-liệu văn-hóa cổ hiện được bảo tồn. Tuy nhiên, sự khẳng định về giá-trị chứng-tích tư-liệu cổ-đại tùy theo những quan điểm của mỗi quốc gia, của mỗi thời đại, nhưng những chứng-tích ấy thể-hiện bằng trí-tuệ siêu việt, đưa con người vượt không gian, thời gian lên tột đỉnh thượng-tầng triết-học của loài người thì dù Ðông học hay Tây học vẫn được tôn thờ và đỉnh cao của sự thành-tựu ngự tại nhân-sinh.
Toát thân trên thế-giới có rất nhiều, ở Việt-Nam có Vua Trần-Nhân-Tông bỏ ngai vàng đi tu núi Yên-Tử, sau Ngài để lại toát thân là những viên ngọc, Hòa-Thượng Thích-Quảng-Ðức thiêu thân, phát nguyện để nguyên trái tim không cháy, hiện nay vẫn còn lưu giữ.
Theo lời di-chúc của Thiền-Sư : "Ta vào nhập thất 100 ngày tụng kinh niệm Phật, sau đó xác thân sẽ được giữ nguyên". Hết 100 ngày các thiện-tín Phật-tử mở cửa am, thấy Thiền-Sư vẫn ngồi theo thế nhập Thiền và có mùi thơm, qua vài chục năm áo vải bị ẩm, rơi rụng, khi đó Thiền-Sư chỉ còn da bọc xương các thiện-tín đã mặc cho Thiền-Sư một lớp áo bằng sơn ta, cho đến nay áo đó vẫn còn nguyên nên Thiền-Sư cũng khen là bền và đẹp.
Ta có thể hiểu : Thiền-Sư nhập thất là Thiền-quán, tụng kinh niệm Phật là Tịnh Ðộ, như vậy Thiền-Sư đã hiển mật song tu, tín đồ hiểu điều căn bản là phải có tự lực, song điều thiêng liêng là phải được thừa hưởng tha lực của chư Phật chư Bồ Tát. Những thiện-tín nào muốn hiểu rõ về toàn thân xá lợi xin hãy lui tới chiêm bái hai Thiền-Sư, sở nguyện của các Ngài rất muốn lân mẫn với những người sau. Danh hiệu của hai Thiền Sư là Ðạo Chân và Ðạo Tâm, nếu ghép hai chữ vào ta hiểu là Chân Tâm. Khối óc và tấm lòng của các Thiền Sư như muốn nói với chúng ta những điều khẩn thiết đức hạnh của các bậc Bồ Tát như ánh trăng soi chung, nước ở đâu là ánh trăng in hình ở đó. Những ai phát tâm thời tự thấu hiểu điều nầy.
Khoa học thế giới ngày nay đã khẳng định : Muốn ướp xác phải thoả mãn đồng thời 3 điều kiện :
1. Phải có thuốc
2. Phải hút ruột, hút óc
3. Phải để thể xác trong hòm kín, không có không khí.
Năm 1983 khoa học đã chứng minh bằng X quang (Thiền-Sư tự Ðạo-Chân Vũ Khắc Minh) và kết luận rằng:
* Không có vết đục đẽo
* Không có hiện tượng hút ruột, hút óc và các khớp xương dính chặn với nhau như thể tự nhiên
* Cân nặng 7 kg.
Hai Thiền-Sư đã không cần 3 điều kiện nói trên mà vẫn để lại toàn thân xá lợi, các nhà khoa học trong và ngoài nước rất mong muốn tìm ra "Phương-pháp ướp xác tinh-xảo" của các Thiền-Sư. Ðề tài nghiên cứu này đối với các nhà khoa học cho đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn.
Về kiến trúc, Chùa được xây dựng theo một quy mô lớn, khu chính diện được kiến thiết theo kiểu nội công, ngoại quốc, khu nội công rất nguy nga lộng lẫy, cột trạm rồng nổi hoa văn bay bướm? Nhưng rất tiếc đến nay khu này đã bị cháy hỏng, khu ngoại quốc vẫn còn song đã xuống cấp rất nghiêm trọng.
Chùa Ðậu là niềm tự hào của dân tộc Việt-Nam, là một trong những di-sản quý và lâu đời của nước ta và thế giới. Chùa là nơi danh lam thắng cảnh được thiên nhiên ưu đãi có kiến trúc cổ kính là nơi siêu thoát và thờ hai Ðức Phật sống - quốc bảo thiêng liêng của Ðất nước. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận di tích "Lịch-sử - Văn-hóa".
Trước đây chùa đã được nhiều niên đại, nhiều bậc hiền nhân mang tâm công đức trùng tu lại. Ngày nay Bộ Văn hóa và nhà Chùa cùng nhân dân địa-phương đang lập dự án với một quy mô lớn : Tôn tạo lại di tích lịch-sử văn-hóa của dân tộc .
Mong sự phát tâm công đức của Phật tử thập phương, du khách khắp trong và ngoài nước để một ngày không xa Chùa Ðậu sẽ được khang trang như cũ.
CHÙA THÀNH ĐẠO (CHÙA ĐẬU)
Nguyễn Bá LăngChùa có tên chữ là Pháp Vũ Tự và Thành Ðạo Tự ở làng Gia Phúc huyện Thường Tín, tỉnh Hà-Ðông. Chùa thờ nữ thần Pháp Vũ (một vị trong Tứ Pháp) tục gọi là Bà Ðậu nên chùa thường được gọi là chùa Ðậu.
Theo truyền thuyết, chùa được lập từ thời Sĩ Nhiếp đời Tam Quốc (T.K. III) đồng thời với chùa Dâu (chốn tổ của Tứ Pháp) ở Luy Lâu nay thuộc Bắc Ninh, nhưng theo văn bia thì chùa được lập từ triều Lý. Chùa được trùng tu nhiều lần, lần tu tạo quan trọng đáng kể có lẽ đã được thực hiện vào thời Mạc (T.K. XVI). Di tích là những viên gạch đỏ son có in hình trang trí hoa lá và một số bia có niên hiệu Sùng Khang (1566-1577).
Theo bia Dương Hòa năm thứ 5 (1639) thì lại có một cuộc đại trùng tu vào năm 1635 đời vua Lê Thần Tôn do cung tần Ngô Thị Ngọc Nguyên đứng ra làm hội chủ hưng công. Chùa có quy mô rộng lớn như ngày nay, trên căn bản có thể kể là bắt đầu từ thời này. Khuôn viên chính là 1 hình chữ nhật 43m x 32m gồm phía trước là một tòa tiền đường 7 gian 2 chái. Hai đầu phía sau nối vào 2 dẫy hành lang 11 gian thì gian đầu một bên thờ Ðức Ông, một bên thờ Ông Giám Trai, 6 gian sau đắp tượng La Hán và Kim Cương, 2 gian cuối dùng làm phòng ngủ chư tăng. Lưng khuôn viên là hậu đường cũng 7 gian 2 chái như tiền đường. - đây có bàn thờ các vị sư tổ, tượng và bàn thờ hậu và chính phi (bà Ngọc Nguyên ?), có cả tượng và bàn thờ ông đốc công điều khiển việc trùng tu chùa (năm 1635 ?).
Hai đầu hậu đường là 2 phòng của hành lang 2 bên kéo dài. Trong lòng khuôn viên là 2 tòa trung điện và thượng điện dựng trên nền cao, có nhà thiên tượng hay ống muống rộng nối vào nhau từ tiền đường, qua trung điện đến thượng điện thành thế chữ vương là kiểu đặc biệt của chùa này mà không nơi nào có.
Trước mặt tiền đường là 1 sân gạch rộng, hai bên có xây nhà giải vũ 5 gian làm nơi sửa soạn nghi lễ rước sách, hội hè và là nơi nghỉ ngơi cho khách hành hương. Trước sân dựng 1 gác chuông và 2 cửa phụ ra vào. Gác chuông kiểu đẹp, dưới xây tường, trên lầu gỗ với 8 mái đao góc uốn cong. Hình như tòa gác chuông này đã được tôn nền cao lên để khoảng giữa đủ chiều cao cho kiệu rước đi lọt qua.
Tòa thượng điện và trung điện là phần xưa nhất của chùa. Hai tòa này và cả ống muống, vách bọc chung quanh được làm hoàn toàn bằng gỗ theo kỹ thuật ván đổ nong như ở các kiến trúc xưa, nhưng ở đây trên mỗi thanh đổ đầy đặn đều được trang trí bằng những hình chạm nổi hạt ngọc bốc lửa (hỏa châu). Còn trong mỗi ô cửa sổ thông gió trổ ở 2 bên hông sườn kiến trúc thì chạm thủng tứ linh: long, ly, quy, phượng vùng vẫy, múa chầu giữa những cụm mây lửa hoặc chạm từng chữ thánh thọ vô cương nổi giữa những rồng, phượng, rùa, lân và mây lửa, bố cục sôi nổi. Trên mỗi cây cột lim, chạm 1 ổ rồng hình bầu dục nhọn đầu trong chiều dài của cột. Trong những tai trượng nghiêng, ôm bọc đầu những khuôn cửa, thì chạm tiên nữ đội mũ cánh sen, xòe đôi cánh, dang cánh tay trần, cầm quạt và uốn ngón múa may. Những cánh cửa cũng chạm rồng uốn khúc giữa những cụm mây hoặc trên nền triện gấm, qui tiền1 trổ thủng. Chùa Ðậu vì vậy nổi tiếng là được trạm trổ công phu và rực rỡ trong Kiến trúc Việt Nam.
Mái hai tòa thượng điện, trung điện này cùng ống muống được lợp bằng loại ngói mũi hài cổ đặc biệt là to dầy khoảng cỡ 20 cm x 30 cm x 3 cm.
Nếp tiền đường bên ngoài cũng được đục chạm, trang trí rực rỡ, sống động với những rồng mây, nhưng chỉ ở bộ phận rường kèo bên trên và được tô mầu thuốc phần nhiều là xanh lam và trắng, mang phong dạng của nghệ thuật T.K. XVIII không mạnh và độc đáo bằng hai tòa điện bên trong. Cột kèo của tòa nhà này cũng không to mập, vững vàng như hai tòa kia. Ðáng tiếc là hai tòa điện cổ kính và nổi tiếng về phong cách chạm trổ công phu rực rỡ này đã bị quân đội viễn chinh Pháp đốt cháy năm 19472. Khoảng năm 1952 nhà sư trụ trì chỉ xây cất lại một am gạch kiểu long đình trên nền điện cũ để thờ bà Ðậu; mà không hiểu do may mắn nào mà tượng còn tồn tại được vì thượng điện hay cung cấm chính là nơi thờ Bà. Pho tượng bà Ðậu ở đây có mặt trái soan, tay phải giơ lên đưa hai ngón tay giữa hướng lên trời, là kiểu khác với các tượng Tứ Pháp thờ tại nhiều nơi trong vùng đồng bằng Bắc bộ và có thể coi là đẹp hơn cả.
Chùa xưa có nhiều đồ cổ quý hiếm như bình, choé sứ, quạt tê giác, đai ngà, trống đồng, gương đồng và những hòm áo gấm thất thể do vua Lê, chúa Trịnh dâng cúng. Sau vụ hỏa hoạn do quân Pháp gây ra, bới đống tro tàn, người ta chỉ nhặt lại được cuốn kim phả, là một cuốn sách bằng đồng gồm khoảng chục tờ có khắc sự tích Tứ Pháp và lịch sử chùa. Nhưng cuốn sách này đã bị lửa nóng làm cho cong queo hoặc chẩy nát một phần.
Các chùa thờ Tứ Pháp phần nhiều đều thiết trí theo kiểu: tiền Phật hậu thánh nghĩa là thờ Phật ở đằng trước, thờ thánh ở đằng sau. Vì vậy ở đây tòa thượng điện hay cung cấm là nơi thờ thánh Pháp Vũ (bà Ðậu), căn trước trung điện (chính thức là thượng điện) mới là nơi thờ Phật. - căn ngoài: tiền đường chỉ đắp có hai ông hộ pháp mặc giáp phục ngồi ngang trên lưng sư tử. - hai giẫy hành lang và ở nhà hậu có những bàn thờ và những tượng như đã kể trên. Tại những giẫy nhà này còn dựng nhiều tấm bia đá kể từ T.K XVII đến T.K XVIII. Có nhiều kiểu khác nhau và đẹp như tấm do Bích quận công Vũ Tất Trân dựng mà người soạn văn bia là tiến sĩ Nguyễn Công Thái. Chùa cũng còn bài minh do Tứ Xuyên Bá Phạm Trọng Xuyên soạn khắc trên một chiếc khánh đồng đúc năm 1774 và hai tấm biển gỗ sơn son thiếp vàng khắc hai bài thơ nôm của chúa Trịnh Căn (1862-1709) và chúa Trịnh Cương (1709-1729).
Chùa Pháp Vũ
Thanh quang mơn mởn chốn giao quang,
Gấp mấy trần gian mấy thế thường
Cả mở tượng đồ, đô tuệ chiếu
Vẹn gồm khoe lục, lục kim cương
Doành thậu bích hải, doành quanh quất
Sắc ánh từ vân sắc rỡ ràng
Ðức thịnh càng ngày càng hiển ứng
Ðừng thay đừng lạnh dấu dâng hương.Trịnh Căn
Chùa được một bà cung phi đứng ra hưng công, lại được các vua chúa đến thăm, đề thơ như vậy đủ tỏ rằng là một danh lam đến như thế nào?
Chùa Ðậu nằm ở giữa vùng quê bằng phẳng nhưng có sông Nhuệ chảy phía sau lưng, có hồ nước vòng bọc xung quanh khiến chùa được tạo dựng như một hòn đảo. Do đó quang cảnh cũng khá đặc biệt. Nếu khéo sửa sang tô điểm, hài hòa kiến trúc với thiên nhiên: cỏ thông reo liễu rũ, có cổ thụ, sen hồ thì cũng sẽ xứng đáng với những buổi thịnh trị thời xưa.
Phía tay trái từ ngoài đi vào góc tây nam khuôn viên chính còn dựng thêm một ngôi chùa nữa, gọi là Công Minh Tự. Chùa nhỏ thôi nhưng kiến trúc khá đặc biệt là binh đồ chữ nhật đứng, thờ dọc, mặt tiền mở ra đầu hồi, dưới làm hàng hiên, trên làm mái cong có hai cây trụ gạch đứng trấn hai bên. Mái đầu hồi bên trên làm nhô ra thành điểm dốc, lại thêm một mái hắt trong lòng để che khung bảng đề tên chùa. Chùa có nhiều tượng, tượng đẹp, nét mặt tươi nhuận, từ bi và hầu hết đều sơn thếp rực rỡ. Ngoài hiên có dựng một cây bia đá vuông kiểu cách cổ kính và bên trong có một pho tượng đá sơn mầu trắng, một phiến đá chạm phù điêu đều đáng chú ý.
Tại chùa Ðậu, ngoài những đồ đá, bia, tượng nói trên còn phải kể đến đôi rồng đá ở bậc thềm tiền đường đi xuống sông. Rồng chạm với cái mào mũi khoang và giải tóc lướt dài trên thân mình uốn khúc là nét đặc trưng của mỹ thuật thời Trần.
Và đặc biệt nhất của chùa Ðậu là hai pho tượng hay chính xác hơn là hai nhục thân của hai nhà sư đã tu ở chùa này vào thế kỷ XVII, là thiền sư Ðạo Châu Vũ Khắc Minh và thiền sư Ðạo Tâm Vũ Khắc Trường.
Tương truyền hai vị là người thôn Gia Phúc sống vào đầu và giữa thế kỷ XVII, đã kế tiếp nhau tu tại chùa Ðậu. Trước khi viên tịch, hai vị có dặn dò đệ tử là khi thấy các ngài ngồi tĩnh tọa, siêu thoát rồi thì hãy cứ để yên vậy một thời gian; nếu thấy có mùi hôi thì hãy đem chôn. Ðệ tử thấy xác không hư thối nên để vậy mà thờ. Có lẽ các vị đã ứng dụng phương pháp dùng lửa tam muội (nhân hỏa) để tự thiêu hủy dần dần các chất hữu cơ dễ hư nát trong người rồi kết tinh, để lại những thành phần ít ô trọc như xương da. (Có thể vì hiện tượng này mà chùa có tên là Thành Ðạo Tự đó chăng? Và rồi phong tục gọi là chùa Ðậu? Những bia cổ của chùa vẫn khắc là Pháp Vũ Tự). Về sau để bảo vệ nhục thân của hai vị được tốt hơn, người ta đã thêm một lớp sơn bó bên ngoài rồi phủ quang dầu lên trên, biến nhục thân thành một loại tượng riêng biệt.
Tượng thiền sư Vũ Khắc Minh ngồi theo thế nhập thiền, mình cong gấp xuống vì thời gian, đầu hơi cúi xuống phía trước và thân gầy đét lộ xương da. Sau năm 1931 ở đầu tượng có một vết nứt độ 2mm lộ ra ở bên trong cùng là xương sọ, tiếp đến một lớp bồi dầy từ 2 đến 4 mm, chất bồi là đất gò mối mịn trộn sơn sống và mạt cưa giã nhỏ, đoạn phủ một lớp sơn ta mầu cánh gián, và ngoài cùng thì phủ quang dầu. Gần đây các nhà nghiên cứu chiếu quang tuyến X, thấy rõ xương cốt còn nguyên vẹn bên trong tượng xác. Pho tượng hiện nay cao 57 cm và nặng 7 kg.
Thiền sư Vũ Khắc Tường là người thừa kế thiền sư Vũ Khắc Minh, theo tương truyền là người đã cho khắc tấm bia năm Dương Hòa thứ 5 và như vậy là nhà sư đã tham gia trực tiếp vào cuộc đại trùng tu Pháp Vũ Tự vào những năm trước đó. Tượng thiền sư đã bị nước lụt tràn đến (khoảng đầu T.K XX?) làm trôi gẫy làm hai đoạn nên người ta đã gắn lại và tô bọc bằng cát vôi mật, vì thế pho tượng xác này nặng hơn pho kia. Tượng được sơn trắng, tô môi vẽ mắt, ngồi ngay hơn nên vì thế mà kém nét tự nhiên hơn. Hai pho tượng trước kia được thờ trong hai ngôi miếu nhỏ, xây bằng gạch, ở bên ngoài khuôn viên chính, nay được di chuyển vào thờ trong hai khám gỗ tại hậu đường.
Tương truyền là khi công cuộc đại trùng tu chùa Pháp Vũ hoàn tất rồi còn dư nhiều gỗ tốt, bà cung phi Ngọc Nguyên (thường gọi là bà Chúa) cho chôn dìm hàng bè gỗ lim và truyền lại là để dành cho hậu thế. Khi nào cần đến để sửa chữa lại chùa thì vớt lên mà dùng.
Nhưng từ hồi phần chánh điện chùa bị đốt cháy đến nay đã nửa thế kỷ, mà phần này vẫn chưa được phục hồi lại. Gần đây dân làng mới dựng được mấy gian nhà cầu đơn sơ để làm chỗ tạm thờ Phật.
Nguyễn Bá Lăng
Xuân 1996(1) Qui tiền: hoa văn chạm hình những bát giác như trên mu rùa, những lồng chếch lên nhau thành những dáng đồng tiền có lỗ vuông.
(2) Trong cuộc tuần sát ở vùng này, năm 1947, quân đội Pháp thấy có nhiều thùng dầu tây chứa trong buồn kho chùa, bèn đem ra dội hắt vào tòa thượng điện rồi châm lửa đốt cháy