nguoiphattu.com Trong năm giới của người Phật tử được Đức Thế Tôn chế định có giới thứ 5 là không được uống rượu vì nguy hại của rượu là làm mất hoặc không kiểm soát được trí tuệ, mà trí tuệ là điều kiện cần của đời sống an lạc hạnh phúc, và là mục tiêu cứu cánh của sự nghiệp giác ngộ, giải thoát.
Đây là giới thứ 5 trong Ngũ giới dành cho Phật tử tại gia và cũng là giới khiến nhiều người hoang mang và lo lắng nhất.
Hoang mang: vì khi (nếu) tôi thọ giới rồi sẽ vĩnh viễn không bao giờ được uống rượu (bia) nữa.
Lo lắng: đã thọ giới, nhưng vì cuộc sống, công việc, phải giao lưu, tiếp đón mọi người... bắt buộc phải dùng tới rượu (bia), nhỡ không giữ được giới mà uống rượu (bia) thì phải làm sao?
Giới uống rượu này đối với tu sĩ xuất gia và người đã thọ Bồ Tát giới cả xuất gia và tại gia thì Phật cấm không được uống rượu.
Với Phật tử tại gia, Phật không cấm mà khuyên không nên uống. Trong đạo gọi là khai giới, tức giới mở. Vì thế khi thọ Ngũ giới, hay Bát Quan Trai Giới vị Thọ Giới Sư sẽ hỏi các giới tử xin thọ giới bằng cách: giải thích nguyên nhân, ý nghĩa, công đức và phước lợi của việc thọ từng giới, kế đó sẽ hỏi các giới tử: quý vị có giữ được không?
- Nếu giới tử nói: Con giữ được = chấp nhận giữ giới của Phật.
- Nếu giới tử nói: con sẽ cố gắng = 50% sẽ giữ và 50% sẽ phạm.
Vì thế trong Kinh Phật đã chia và gọi Phật tử theo từng giới mà người đó đã thọ và đã giữ được
Ví dụ: Ngũ Giới: có người chỉ xin thọ giới: Không sát sanh và giữ trọn giới này = được gọi là Ưu Bà Tắc hay Ưu Bà Di trì nhất giới sát.
Cũng tương tự cho các giới khác: không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu, nếu thọ và hứa giữ trì thêm được giới nào thì Phật gọi là: Ư Bà Tắc hay Ưu Bà Di trì Nhị, Tam, Tứ, Ngũ giới.
Xét về ý nghĩa: một người xin thọ 1 giới và hành trì chọn vẹn cũng vẫn tốt hơn là không giữ giới nào; người xin thọ 2,3,4,5 giới sẽ tốt hơn nữa.
Riêng thọ Bát Quan Trai Giới có sự khác biệt vì người xin thọ giới học tập hạnh tu xuất gia trong vòng 24 giờ. Nếu cả 8 giới mà người xin thọ đều nói: con sẽ cố gắng hoặc 1/3; 2/3 trong 8 giới đều nói: con cố gắng = chưa thực dũng mãnh muốn thọ giới. Đương nhiên trong 24 giờ tu học, tâm sẽ không thể nhiếp giới thanh tịnh được. Lý do? Vì đã khởi ý niệm mình sẽ phạm giới. Đây là điều khá vi tế mà khi thọ giới chúng ta cần phải cân nhắc để dũng mãnh phát tâm thì sự thọ giới và tu học mới thực sự có lợi lạc.
Đức Phật dạy rằng: “Nếu là một Phật tử đã thọ giới Bồ Tát, mà lại có tâm cố ý uống rượu là điều tuyệt đối không thể chấp nhận được. Vì như vậy là trái với tư cách của một vị Bồ Tát. Vì rượu là vực sâu của tội ác, là cửa ngõ sanh tử họa hại. Khi đã uống rượu vào thì dễ tạo các tội lỗi.
Kinh Phân Biệt Thiện Ác Sở Khởi Phật dạy: Người ở thế gian thích uống rượu say, sẽ có ba mươi sáu lỗi. Những gì là ba mươi sáu lỗi?
Đó là:
1. Người uống rượu say thì làm con đối với cha mẹ không biết kính thờ; làm tôi đối với vua không biết tôn trọng. Do đó mà cha con, vua tôi không có trên dưới.
2. Nói năng lộn xộn và hay sinh lỗi lầm.
3. Phạm tội lưỡng thiệt và ưa nói nhiều.
4. Nếu có việc gì cần giấu kín, nhưng khi say rồi thì đem nói tất cả.
5. Mắng chửi trời đất không hề sợ tội.
6. Nằm giữa đường sá không thể về nhà, mọi thứ đồ đạc mang theo đều bỏ mất hết.
7. Không thể tự sửa mình cho chính đáng.
8. Đi đứng ngã qua, ngã lại, lúc thì ngửa mặt lên trời, lúc lại gầm đầu xuống đất, có khi bị sa hầm, sa hố, thân thể bị tổn thương.
9. Không thể đứng vững vàng nên phải bò lết như người què, đến khi đứng dậy được thì thân thể, mặt mày đều bị xây xát, trầy trụa.
10. Lúc bán buôn hay bị lầm lộn và thường vọng động xúc phạm mọi người.
11. Phế bỏ công việc không lo làm ăn.
12. Tài vật bị tổn hao.
13. Vợ con đói khát mặc kệ không nghĩ đến.
14. Kêu la chửi mắng không biết nể sợ pháp luật quốc gia.
15. Thoát bỏ hết y phục để thân thể lõa lồ mà đi trên đường sá.
16. Chửi bậy vào nhà người, gặp đàn bà, con gái thì lôi kéo, nói năng xằng bậy, xúc phạm đến họ, tạo vô lượng tội lỗi.
17. Thấy bất cứ ai đến gần đều muốn gây gổ với họ.
18. Kêu la làm kinh động xóm làng.
Say rượu có thể dẫn đến phạm các giới sát (đánh đập, hành hung người, vật), dâm (tà dâm, dâm loạn với vợ người, với ruột thịt, họ hàng thân thuộc, với những phụ nữ không phải là vợ của mình), vọng ngữ (chửi bới, mắng nhiếc, nói lời hung ác, xúc phạm, làm tổn thương người khác), đánh mất tư cách đạo đức. Ảnh minh họa
19. Giết bừa súc vật không biết tội phước.
20. Đồ đạc trong nhà đập bể tan nát.
21. Vợ con coi như kẻ tù tội, say sưa nói bậy bạ không ra gì.
22. Thân cận ới bè đảng ác.
23. Xa lánh không chịu gần giũ với bậc hiền thiện.
24. Ngủ như chết, đến khi tỉnh dậy thân thể đau nhức như người bị bệnh.
25. Những thứ uống ăn đều nôn mửa ra trông thật ghê tởm, khiến vợ con đều phải chán ghét.
26. Khi đi đâu, nếu gặp voi, ngựa, chó sói, vì tâm ý tán loạn nên không biết sợ sệt, xa tránh.
27. Không kính kinh pháp, không tôn trọng bậc hiền thiện, không cung kính sa môn.
28. Hoang dâm vô độ không biết e sợ.
29. Hình thể như kẻ điên cuồng khiến ai nấy đều tránh xa.
30. Giống như người chết, không biết gì cả.
31. Mang bệnh nghiện rượu, thân thể màu vàng, ứa ứa giống như trái cây chín. Có khi mặt mày sanh ghẻ lác.
32. Thiên long, thiện thần đều tránh xa vì các ngài rất ghét uống rượu.
33. Thiện hữu tri thức ngày một tránh xa.
34. Khi say thì ngồi chồm hổm, gặp các quan cao cấp cứ lấy mắt nhòm ngó không biết sợ sệt, nếu bị đánh đập thì ngắm nghiền mắt lại.
35. Sau khi xả thân bị dọa vào địa ngục Thái Sơn, thường bị ngục tốt dùng nuớc đồng sôi rót vào miệng. Lục phủ, ngũ tạng đều bị cháy nát, cầu sống không được, cầu chết cũng khó. Thọ khổ như vậy trải qua ngày muôn năm.
36. Khi thọ tội ở địa ngục đã mãn, sinh lên làm nhân gian làm người tâm trí ám độn không biết gì.
Rõ ràng như vậy, cẩn thật chớ uống rượu. Việc uống rượu có ba mươi sáu lỗi lầm, nếu người uống rượu thì phạm vào ba mươi sáu lỗi ấy.
Trong kinh Trung A hàm có nói: “Phàm người uống rượu có 6 điều lỗi:
1. Mất của,
2. Sinh bệnh,
3. Gây gổ, đánh nhau, 4. Mang tiếng xấu,
5. Khởi tâm sân, si,
6. Trí tuệ ngày càng lu mờ.
Thời Phật tại thế có câu chuyện một vị tăng đã đắc quả vị Thánh, có thể hàng phục long độc quấy phá mùa màng và dân chúng, sau việc đó vị thánh Tăng này được một Phật tử cúng dường trai tăng kèm cả rượu trắng, vì sơ ý, vị thánh Tăng đã say mèm rồi nằn trước tịnh xá của Phật. Câu chuyện như sau:
Khi Phật còn tại thế, một hôm Ngài đi đến ấp Bạt Đà La Bà Đề của nước Chi Đề để giáo hóa. Nơi ấy, có một con độc long gọi là Am Ba La Đề Đà hung dữ, bạo ác phi thường. Con người không ai dám bén mảng đến chỗ ấy đã đành, ngay cả loài thú to như voi, trâu, bò, ngựa... cũng không dám léo hánh đến gần chỗ của nó. Thậm chí loài phi điểu bay trên không trung cũng không dám bay ngang chỗ nó ở. Hoa mầu, lúa thóc đã chín đều bị độc long phá hoại sạch.
Trưởng lão Sa Dà Đà là người thường cúng dường Phật, nên khi nghe Đức Phật Thế Tôn đến nơi này giáo hóa, trưởng lão cũng đi theo. Nghe nơi ấy có độc long, trưởng lão xin phép Đức Phật đến chỗ độc long để bắt nó hàng phục cho dân chúng và muôn thú được yên ổn. Khi trưởng lão vừa đến, độc long ngửi thấy khí vị y phục của Ngài liền sanh tâm sân hận, vì xưa nay không bao giờ có ai dám bén mảng đến chỗ của nó.
Lập tức từ trong thân của nó phóng ra những khói độc khiến không khí cả một vùng đều bị ô nhiễm. Thấy khói độc bay đến mình, trưởng lão bèn nhập tam muội, dùng thần thông từ trong thân phóng ra những luồng khói trắng ngăn cản khói độc của độc long, không cho nhập vào mình. Độc long thấy thất bại càng nổi sân hận, từ trên thân phóng ra lửa khiến toàn vùng ấy biến thành một biển lửa lớn.
Trưởng lão bèn nhập Hỏa Quang tam muội, từ trên thân phóng ra lửa ngăn chặn độc quanh mình. Thấy sự việc bất thành, độc long liền hóa trận mưa đá và sấm sét vang trời để giết trưởng lão. Nhưng trưởng lão không chút sợ sệt, ngài biến những hạt mưa đá thành những hoàn thuốc hoan hỷ hoặc những bánh rất thơm ngon. Cuối cùng độc long dùng tất cả sức lực, bản lãnh hóa ra một trận mưa tên và rắn độc.
Trưởng lão dùng thần thông rất nhiệm mầu, biến tất cả các thứ ấy thành Ưu Bát La Hoa và thân thể của ngài hoàn toàn không bị tổn thương. Độc long đem hết sức thần thông mà không khuất phục được trưởng lão. Tự biết mình không phải là đối thủ của trưởng lão, độc long bèn đến trước trưởng lão tự nguyện quy y Tam Bảo, làm đệ tử Phật, không còn làm những việc hung ác như trước nữa.
Trưởng lão hàng phục được độc long, đem lại yên vui an ổn cho nhân dân và cầm thú chốn ấy. Từ đó, thanh danh của Ngài lan truyền khắp nơi, từ quốc vương chí đến nhân dân đua nhau đến cúng dường. Khi ấy, có một nữ Phật tử bần cùng nhưng vô cùng kính tin trưởng lão, nàng thành kính thỉnh trưởng lão đến nhà để cúng dường một bữa cháo, sữa và tô lạc, ngoài ra còn có thêm một thứ rượu màu trắng như nước. Trưởng lão vì không để ý nên uống thứ rượu đó.
Sau khi uống xong, trưởng lão vì nữ Phật tử thuyết pháp. Xong việc, nữ Phật tử lễ tạ và Ngài từ biệt trở về tịnh xá. Lúc về gần đến nơi, vì ảnh hưởng của men rượu tác động làm trưởng lão té nhào gần tịnh xá, thân nằm một nơi, tăng-già-lê, bình bát... văng tản mác. Trưởng lão bị say nhừ không hay biết gì.
Đức Phật thấy việc này liền bảo ngài A Nan tập hợp đại chúng lại và dạy về việc trưởng lão hàng phục được độc long. Ngài hỏi đại chúng: “Trong lúc hàng phục độc long oai lực biết bao, giờ đây ông Sa Dà Đà này có thể hàng phục được một con rắn nhỏ hay một con tôm hay không?”
Đại chúng đồng đáp lại rằng: “Không thể hàng phục được”.
Phật dạy: “Ông Sa Dà Đà là một vị thánh nhân mà sau khi uống rượu say còn như vậy, huống chi người thế tục thông thường. Thế nên từ đây về sau, nếu là đệ tử của Phật thì quyết định không được uống rượu. Không nói là uống nhiều, chỉ cần một chén nhỏ cho đến một giọt trên đầu ngọn cỏ, cũng không được uống. Nếu uống tức là phạm tội”.
Trong Tỳ Bà Sa Luận kể lại câu chuyện về một Ưu bà Tắc Ngũ giới như sau:
Vào thời quá khứ có một vị ưu bà tắc giữ ngũ giới cấm của Như Lai rất thanh tịnh. Một hôm, vị ấy có việc phải đi xa. Khi trở về nhà, nhằm lúc tất cả mọi người trong nhà đều đi vắng. Vì đường xa nhọc mệt lại thêm khát nước cực điểm, vị Phật tử ấy đi tìm nước uống. Lúc ấy có một chai rượu lớn giống như nước để trên bàn, đương cơn khát, Phật tử này tưởng là nước, liền uống một hơi. Uống xong, đầu óc choáng váng, tâm thần hôn mê bấn loạn.
Vừa lúc đó, một con gà hàng xóm chạy vào nhà, sẵn bụng đang đói, Phật tử liền nghĩ chi bằng bắt gà làm thịt để ăn một bữa cho ngon. Sau khi Phật tử này ăn xong, cô gái hàng xóm vào nhà tìm gà, hỏi Phật tử có thấy gà chạy vào nhà không. Phật tử trả lời: “Tôi không thấy gà của cô đến đây”. Chẳng những thế, lại còn làm hành vi phi lễ với cô gái ấy.
Qua hai câu chuyện nói trên chúng ta nhận ra điều gì?
1. Ngay cả một bậc đã đắc thánh quả, khi uống rượu vào cũng không làm chủ được bản thân.
2. Một Ưu Bà Tắc Ngũ giới vì sơ ý, uống phải rượu, ngay đó đã phạm liền 5 giới:
Như vậy 5 Giới của Phật chế ra cho Phật tử tại gia, đều có sự liên quan mật thiết tới nhau. Giữ trọn được một giới thanh tịnh đã khó; 5 giới thanh tịnh càng khó vô cùng. Nhưng đó là cái nhân để làm người trong kiếp sau. Nếu ngay cả cái nhân này chúng ta đều không muốn giữ, không thể giữ, kiếp sau chúng ta đi về đâu, hẳn mỗi người đều tự minh bạch.
Giới của Phật là phòng phi, chỉ ác: tức ngăn chặn và dừng các ác nghiệp. Muốn cuộc sống được an lạc chúng ta không thể rời xa con đường này, bởi đó là con đường Phật đã an bài cho chúng ta.
Khổ hay sướng? An vui hay bất hạnh đều do mỗi chúng ta định đoạt.
Nguyện chúc quý bạn Sen một năm mới tràn đầy tinh tấn - dũng mãnh - tỉnh giác và hỉ lạc.