;
Từng bước thực hành thần Chú Đại Bi
Ý nghĩa và lợi ích hành giả trì chú Đại Bi
Lần đầu tiên bước chân vào chùa, một ngôi chùa uy nghiêm của làng với
Sư Cụ hiền lành và chú tiểu đẹp như tiên giáng, con đã ngẩn ngơ với
những pho tượng Phật và Bồ Tát. Đêm ấy, con nằm mơ thấy Đức Quan Âm Bồ
Tát tuyệt đẹp, từ trong bức tượng, mẹ hiền đã đến bên con, mỉm cười và
ôm con vào lòng; Lúc ấy, con cảm nhận tình thương bao la của Quan Âm Bồ
Tát và lòng từ bi không bờ bến của Ngài. Hình ảnh này đã nuôi lớn con
cho đến ngày con được thực sự thọ pháp xuất gia. Hình ảnh này là sợi dây
vô hình, kết nối tâm hồn con với Quan Âm Bồ Tát, để hôm nay đề tài được
chọn: “Khái quát tìm hiểu Mật Tông qua Chú Đại Bi” của Quan Âm Bồ Tát
là kết tinh của bao sự chắt chiu, tìm tòi ngay từ ngày còn là “Điệu” tập
sự tu học.
Mật Tông là một trong những tông phái của Phật Giáo. Như Thiên Thai Tông, Thiền tông, Tịnh Độ tông… Mật Tông cũng có nguồn gốc và có truyền thừa.
Mật Tông bắt nguồn từ đức Tỳ – Lô – Giá – Na Như Lai. Bồ Tát Kim Cang đích thân thọ lễ Quán đảnh, kế thừa dòng pháp kỳ diệu của Đức Tỳ – Lô - Giá - Na này.
Ngài Kim Cang truyền cho Ngài Long – Thọ, Ngài Long – Thọ truyền cho Ngài Long - Trí, Ngài Long – Trí truyền lại cho hai Ngài Thiện – Vô - Úy Tam Tạng và Ngài Kim – Cang – Trí Tam – Tạng.
Vào đầu đời nhà Đường, hai Ngài Vô – Úy và Kim - Cang - Trí sang Trung Hoa, rộng truyền bí pháp Mật Tông. Ngài Vô Úy truyền cho Ngài Nhất Hành Thiền Sư. Ngài Nhất Hành thích nghiên cứu Kinh Đại Nhật làm cho giáo nghĩa Mật Tông được phát triển rõ nét ở Trung Hoa.
Ở Việt Nam, đời nhà Lý, có các pháp sư nổi tiếng của Mật Tông như Từ – Đạo - Hạnh, Nguyễn Minh Không. Đời Trần, đời Lê sau này cũng có, nhưng không hiển rõ nét lắm trong tính cách môn phái.
Hiện nay, hầu hết các chùa ở Việt Nam đều hành trì cả Thiền – Mật - Tịnh.
Khi nói đến Mật, tức là nói đến những gì bí mật thầm kín, khó tin, khó hiểu. Mật Tông dùng những lời nói bí mật của Chư Phật để làm phương tiện tu tập, những lời nói ấy tức là chân ngôn, mật ngữ.
Tại sao gọi là “mật ngữ”?
Vì đó là những lời nói như những hằng số. Lời nói ấy không giải nghĩa được. Lời nói ấy chỉ có Chư Phật và Bồ Tát Thượng Căn Thượng Trí mới hiểu được trọn vẹn. Tùy trình độ căn cơ mà mỗi người hiểu một khác và đạt kết quả cũng khác.
Vì kết quả đạt được tùy tâm hành giả. Đó gọi là thần chú hay Đà La Ni.
Sự tu hành của Mật Tông gồm có hai phương diện: Sự và lý, nói theo danh từ của Mật Tông là giáo tướng và sự tướng.
“Sự Tướng: là tất cả những thực hành như tụng chú, kết ấn, cúng dường, lập đàn… Tất cả những thực hành ấy phải theo đúng khuôn phép nhất định, chứ không thể dùng tùy tiện được. Trong “Mật tông vấn đáp” dạy: “Người muốn “trì chú” và “ bắt ấn” thì người đó phải được truyền pháp một cách đúng đắn, qua các tu sĩ Mật tông hoặc những người tu học Mật tông, chứ không nên tự tu tập.
“Giáo tướng” là tất cả những nghĩa lý sâu xa mầu nhiệm mà chư Phật và Bồ Tát đã rút ra trong sự tướng để chỉ dạy chúng ta.
Hình thức tu tập của người Hành Mật là ngay trong cuộc sống hằng ngày, đó là “ đương tướng tức đạo”. Ngoài ra, người tu Mật quan niệm chính việc làm hằng ngày sẽ làm tròn “cái sự” và hiển “cái lý” để có “sự lý viên dung”
Chính nghĩa lý u huyền mầu nhiệm của Mật Tông đã cuốn hút con vượt qua những trở ngại, e dè, đắn đo khi chọn đề tài. Trong tâm trạng rất vui mừng khi được giáo sư hướng dẫn chấp thuận đề tài, lại hòa lẫn những tâm trạng bâng khuâng lo lắng, sợ rằng không biết mình có đủ khả năng để hoàn tất luận văn hay không? Nhưng với lòng chí thành, tha thiết mong muốn qua sự tìm tòi, nghiên cứu để thực hiện tiểu luận, tự thân và tâm của mình có được một tầm tri thức rộng mở hơn, hầu lấy đó làm bàn đạp cho chính mình để “Văn – Tư – Tu” và cũng qua tập tiểu luận đóng góp một vài lợi ích thiết thực cho những hành giả đang hành trì “Đại Bi Thần Chú”, nên con đã mạnh dạn, dũng mãnh tiến hành để thực hiện tiểu luận.
Từng bước đi, từng bước đi với bao duyên trợ lực, để hôm nay có thể nói là một sự trưởng thành với nội dung tập tiểu luận này. Mặc dù gọi là trưởng thành nhưng chỉ mới vừa trưởng thành, cho nên còn rất nhiều non nớt, không làm sao tránh khỏi những thiếu sót. Ngưỡng mong Chư Tôn Đức Cao Minh, chiếu rọi thêm cho, để với một pháp môn tu, con cùng chúng sanh ngày được thăng hoa trên nẻo đường về Phật.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC TÌM HIỂU VỀ CHÚ ĐẠI BI
Chú Đại Bi hay Đại Bi Chú là tên gọi tắt của một bài thần chú Đà La Ni có tên là : “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên mãn vô ngại đại bi tâm Đà La Ni kinh Đại Bi thần chú”, gồm có 84 câu do chính Đức Quán Thế Âm Bồ Tát trùng thuyết từ Đức Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai. Đức Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ vì thương nghĩ đến Đức Quán Thế Âm Bồ tát và tất cả chúng sanh nên nói ra kinh “Quảng Đại Viên Mãn vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni”. Ngài lại dùng tay sắc vàng xoa nơi đầu của Đức Quán Thế Âm và bảo rằng : “Thiện Nam Tử! Ông nên thọ trì thần chú nầy và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi trược ở đời vị lai, mà làm cho họ được sự lợi ích an vui lớn”.
Lúc đó, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát mới ở ngôi sơ địa, vừa nghe xong thần chú nầy liền chứng vượt lên đệ bát địa. Bấy giờ, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát rất vui mừng và phát lời thệ nguyện rằng : “Nếu trong đời vị lai, tôi có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú nầy, thì xin khiến cho thân tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt”.
Khi Đức Quán Thế Âm Bồ Tát phát lời thệ như thế rồi thì ngàn tay ngàn mắt liền hiện đủ nơi thân, cõi đất mười phương rung động sáu cách, ngàn Đức Phật trong mười phương đều phóng ánh quang – minh soi đến thân Ngài và chiếu sáng khắp mười phương vô biên thế giới.
Từ đó về sau, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát đã ở trong vô lượng pháp hội của vô lượng chư Phật, được nghe và thọ trì môn Đà La Ni nầy. Cũng chính lời thề nguyện như vậy mà bài chú có tên “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát”, trong Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, thần chú này còn có các tên gọi như sau :
1. Quảng Đại Viên Mãn Đà La Ni
2. Vô Ngại Đà La Ni
3. Cứu khổ Đà La Ni
4. Diên Thọ Đà La Ni
5. Diệt ác thú Đà La Ni
6. Phá ác nghiệp chướng Đà La Ni
7. Mãn nguyện Đà La Ni
8. Tùy tâm tự tại Đà La Ni
9. Tốc siêu thánh địa Đà La Ni
Đến thời kỳ hóa độ của Đức Phật Thích Ca tại cõi Ta Bà, Ngài đã khuyến phát Quán Thế Âm Bồ Tát như sau : “Này Quán Thế Âm Tự Tại ! Ông có tâm Đại Từ Bi , muốn nói thần chú để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh. Hôm nay chính là lúc hợp thời , vậy Ông nên mau nói ra, Như Lai tùy hỉ, Chư Phật cũng thế” .
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục trang nghiêm. Ngài chấp tay, hướng về Phật mà thưa rằng : “Bạch Đức Thế Tôn ! Tôi có chú Đại Bi Tâm Đà La Ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bệnh, được sống lâu, được giàu có, được tất cả công đức của pháp lành, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn Từ Bi doãn hứa.
Đại bi thần chú thật vô biên
Quán Âm Tự Tại vẫn hằng tuyên
Quá khứ Thiên – quang – Vương Tịnh – Trụ
Đến Phật Thích Ca ở kiếp hiền
Uùm Ma Ni dứt cơn lửa dữ
Pad mê Hum nở đóa kim liên
Một bước tốc đăng thành chánh giác
Chấp tay con thề nguyện trùng tuyên.
1.1 BẢN CHỮ PHẠN
1.1.a Bản chữ Phạn:
Đây là nguyên bản chữ Phạn trích từ Đại Tạng Kinh số 20 Mật Bộ N0.1062A, trang 113 thượng dòng 1 đến dòng 28, trung dòng 1 đến dòng 29, hạ dòng 1 đến dòng 4
1.1.b Bản phiên âm chữ Phạn:
Đây là bản phiên âm chữ La Tinh từ nguyên bản Phạn văn , do giáo sư Etienne Lamotte đã dầy công nghiên cứu tìm tòi sưu tầm, cùng với vốn nghiên cứu Sanskrit, và thổ ngữ Mãn – Châu, Mông Cổ, ông đã thanh lọc để có được bài chú Đại Bi bản Phạn Văn gần đúng với nguyên tác thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, được in trong cuốn “Đạo Phật ở Ấn Đo”ả, do nhà xuất bản Phật Giáo Winrdhorse, London xuất bản, và Phật tử Học giả Khoan Hồng cũng đã dầy công nghiên cứu và tìm được chính bản chữ Phạn của GS E. Lamotte về chú Đại Bi và Thủ Lăng Nghiêm đã in trong cuốn “Thần chú Thủ Lăng Nghiêm và Đại Bi” năm 1995 được Hòa thượng Đức Nhuận chứng minh. Sau đây là bài chú Đại Bi :
MAHA KARUNIKATSITTA DHARANI
1. Namo ratnatrayaya
2. Namo arya, avalokiteshvaraya,
3. Bodhisatvaya, maha satvaya, maha karunikaya,
4. Aom, sarva rabhaye, sudhanadasya,
5. Namo skrta imo arya, avalokiteshvara lamdhaba,
6. Namo narakintri, heri maha vadha same, sarva atha dusubhum ajeam, sarva sada nama pasattva
7. Nama vaga mava du du, tadyatha:
8. Aom, avaloka, lokate karate, ehre, maha bodhisatva, sarva sarva, mara mara, mahe mahe hrdayam
9. Kuru kuru karman, dhuru dhuru vajayate,
10. Maha vajayate, dhara dhara, dhirini svaraya, jara jara.
11. Mamavamara, muktele ihe ihe, tsinda tsinda, arsam pratsali vasa vasam, prasaya,
12. Huru Huru mara, huru huru heri, sara sara, siri siri, suru suru
13. Bodhiya bodhiya, bodhaya bodhaya, maitreiya, narakintri
14. Dhrisanina, pasamana svaha,
15. Siddhaya svaha, maha siddhaya svaha,
16. Siddhayoge, svakaraya, svaha,
17. Narakintri svaha, mara nara, svaha,
18. Sira simha mukhaya, svaha, sarva maha astaya, svaha,
19. Tsakra astaya, svaha,
20. Padma kastaya, svaha,
21. Narakintri vagaraya svaha,
22. Mavarisankraya svaha,
23. Namo ratnatrayaya, namo arya, avalokite shvaraya, svaha.
24. Aom siddhyantu mantra padaya svaha
1.2 BẢN CHỮ HÁN
1.2.a Bản chữ Hán:
Đây là nguyên bản chữ Hán trích từ Đại Tạng kinh số 20, Kinh Quán Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni. Trang 107 trung dòng 23 đến 29, hạ dòng 1 đến dòng 25. [ xem phụ lục 1]
1.2.b Bản phiên âm
Bản phiên âm Hán Việt được hầu hết các chùa Phật Giáo Bắc Tông thường xuyên trì tụng hằng ngày trong các thời khóa và đã được thống nhất cả 3 miền Nam – Trung – Bắc theo một bản trong các kinh Nhật Tụng hoặc Nghi Thức Tụng Niệm.
Nam mô hắc ra đác na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tất đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà . Nam mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đá sa mế . Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát điệt tha. Aùn a bà lô hê. Lô ca đế ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Cu lô cu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lợi phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê lỵ. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rỵ dạ. Na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha, tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha.Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất dà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ. Ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha. Aùn tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà dạ. Ta bà ha”.
1.3 Ý NGHĨA BÀI CHÚ ĐẠI BI
1.3.a Ý nghĩa
Toàn bộ bài chú Đại Bi này là một công phu chân thực để hoàn thành chánh đẳng chánh giác, không có một chút mảy may hư ngụy, mỗi chữ mỗi câu đều chứa đựng tâm đại từ bi, tâm bồ đề vô thượng của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, vì muốn phổ độ chúng sanh, nên ngài đã đọc ra lời khẩu quyết trọng yếu này.
Chú tức là lời nói bí mật được phát xuất khi Đức Phật hoặc Bồ Tát ngồi Thiền định, kinh Thủ Lăng nghiêm nói rằng : “Mật chú của Chư Phật là phép bí mật, chỉ có Phật với Phật tự biết với nhau, các vị thánh không thể thông đạt, chỉ tụng trì là diệt được đại lỗi, mau lên thánh vị”.
Cho nên việc tìm hiểu ý nghĩa của một bài chú là một việc nan giải, tuy nhiên trong nghi thức tụng niệm Đại Bi Chú giảng giải do Pháp Sư Thánh Ấn biên soạn như sau :
Nam mô (quy y) – Hắc ra Đát na đa ra dạ da (Tam Bảo, tức Phật, Pháp, Tăng) – Nam mô (quy mạng ) – A lị gia (Thánh) Bà lô kiết đế (Quán) – Thước bát ra da (tự tại) – Bồ đề Tát đỏa Bà da (giác hữu tình) – Ma ha tát đỏa bà da (Đại Giác hữu tình) – Ma ha ca lô ni ca da (hữu đại bi giả, người có lòng đại bi) – Án (quy mạng) – Tát bàn a phạt duệ (nhất thiết tôn) – số đát na đát tả (vị cứu tế hết thảy mọi sự khủng bố) – Nam Mô (quy mạng) – tất kiết lật đỏa (ư bỉ, ở kẻ kia)-Y mông a lị gia (ngã thánh, thánh của ta) – Bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà (Quán tự tại Hương Sơn) – nam mô (quy mạng) – na ra cẩn trì (đó là uy lực của Thánh Quán Tự Tại, tên là Thanh cảnh chi tâm chân ngôn) – Hê rị ma ha bàn đá sa mế (ta nay tuyên thuyết) – Tát bà a tha đậu du bằng (vị có hết thảy mọi hy vọng viên mãn, có ánh sáng rực rỡ) – A thệ dựng (không gì sánh được) – Tát bà tát đá (hết thảy mọi quỷ thần không thể đánh thắng được ) – Na ma bà dà (đồng chân) – Ma phạt đạt đậu (người có đạo thời khiến cho cõi mê tự nhiên thanh tịnh) – Đát điệt tha (có nghĩa là) – Án (quy mạng) – A Bà Lô Hê (bậc có trí tuệ sáng suốt) – Lô Ca Đế (Quán Tự Tại) – Ca ra đế (Đấng Siêu Việt thế gian) –Di Hê Lị (sư tử vương; Đại bi chú cú giải của HT Tuyên Hóa thì Di hê lị có nghĩa là “Thuận Giáo” ; y theo lời giáo chỉ của Bồ Tát Quán Thế Âm, cũng như quán thế âm của tự tâm để hành hóa ( trang 52) – Ma ha bồ đề tát đỏa (Đại Bồ Tát) – Tát bà tát bà (hết thảy hết thảy) – Ma ra ma ra (ghi nhớ, ghi nhớ) – Ma hê ma hê rị đà dựng (tâm chân ngôn) – Cu lô cu lô kiết mông (làm sự nghiệp) – Đồ lô đồ lô (bảo trì, bảo trì)- Phạt xà da đế (du không giả, người chơi ở trên không) – Ma ha phạt xà da đế (Đại du không giả) – Đà la đà la (bảo trì) - Địa rị ni (kẻ trì tụng) – Thất Phật ra da (Đế Vương Tự tại) – Dá ra dá ra (hành động) – Mạ mạ phạt ma ra (vô cấu giả, không buị bám) - Mục đế lệ (vô cấu thể, thể không dơ) – Y hê Y hê (giáo ngữ) – Thất na thất na (hoằng thệ, lời thề rộng rãi) – A ra sâm (vương, vua) – Phật ra xá lợi (giác kiên cố tử) – Phạt sa phạt sâm (hoan hỷ) – Phật ra xá da (trừ diệt mọi độc hại do tham sân si gây ra) – Hô lô hô lô ma ra (tác pháp vô cấu, làm phép không nhiễm bụi dơ) – Hô lô hô lô hê rị (mau chóng, mau chóng, tóc đã bạc rồi) – Ta ra ta ra (kiên cố giải) – tất rị tất rị (hoặc hoa sen) – tô rô tô rô (cọng hoa sen) – Bồ đề dạ bồ đề dạ (tỉnh ngộ tỉnh ngộ) – Bồ đà dạ bồ đà dạ (giáo ngộ giáo ngộ, dạy bảo và tỉnh ngộ) - Di đế rị dạ (kẻ có lòng từ ái) – Na ra cẩn trì (thanh cảnh, cổ xanh) – Địa rị sắt ni na (kiêm lợi, bền chắc, linh lợi) – Ba dạ ma na (danh văn, nghe tên) – Ta bà ha (lòng mong mỏi được gặp sẽ được ảnh hiện, sanh lòng hoan hỷ, viên mãn, tới Niết Bàn) - Tất đà dạ (nghĩa) – Ta bà ha (bậc đã được thành tựu) Ma ha Tất Đà Dạ (Đại Nghĩa) – Ta Bà Ha (bậc đã được đại thành tựu) – Tất đà du nghệ (vô vi) – Thất bàn ra dạ (bậc đại tự tại) – Ta bà ha (bậc tự tại bởi tất địa và du già) – Na ra cẩn trì (hiền ái) – Ta bà ha (vì thanh cảnh viên mãn nên thành tựu) – Ma ra na ra (có kẻ mặt heo) – ta bà ha (thành tựu) – Tất ra tăng a mục khư gia (ái ngữ đệ nhất nghĩa, nghĩa thứ nhất của tiếng yêu) – ta bà ha (tay cầm hoa sen); Ta bà ma ha (đại thành tựu) – A tất đà dạ (vô tỷ, không có gì sánh được) – Ta bà ha (thành tựu)-Giả kiết ra a tất đà dạ (không gì so sánh được) – ta bà ha (thành tựu) – Ba đà ma kiết tất đà dạ (đại nghĩa) – Ta bà ha (Đấng được khai ngộ vì nghe được tiếng pháp loa) – Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ (bậc hiền thủ thánh tôn) – ta bà ha (thành tựu) – Ma bà rị thắng kiết ra dạ (anh hùng uy đức sanh tính) – Ta bà ha (chinh phục con ma sắc đen ở vai bên trái) – Nam mô hắc ra đát ra đá ra dạ da (quy mệnh tam bảo: Phật, pháp, tăng) – Nam mô (quy mạng) – Alị gia (thánh) – Bà lô kiết đế (Quán) – Thước bàn ra dạ (tự tại) – Ta bà ha (thành tựu) – Án (quy mệnh) – tất điện đô (khiến cho tôi được thành tựu) – Mạn đà ra (chân ngôn)-Bạt đà giạ (câu) – ta bà ha (thành tựu)
1.3.b Đại ý
Kính cẩn khấu đầu trước Tam Bảo Phật Pháp Tăng. Xin quy y theo đức Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, Quy mạng Đức Đại Bồ Tát đại từ đại bi, mà cầu xin thành tựu được sự giác ngộ, nhằm cứu tế những kẻ mê muội do mọi sự khủng bố trên thế gian này. Vì vậy, chúng con xin quy mạng nơi Đức Đại Bồ Tát có lòng đại từ bi. Nhất tâm thệ nguyện truyền bá rộng rãi lòng từ bi của Đức Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, lắng nghe tâm chân ngôn đại oai thần lực (tổng trì pháp môn tâm chân ngôn và Phật nội chứng), vâng theo mệnh của Bổn tôn là Đại Bi tâm Đà la ni này hết lòng xưng tụng công đức Quán Tự Tại Bồ Tát, tất cả mọi hy vọng đều được viên mãn, mà làm sáng tỏ tính chất đồng thể đại bi thanh tịnh viên minh và làm cho tất cả quỷ thần đều không thể đánh thắng được oai lực lớn của Ngài. Với những kẻ có tâm đạo, không bao giờ bị sự vô minh phiền não mê hoặc, không bao giờ bị đắm vào cõi mê, và được dẫn dắt tới thế giới quang minh của đức Đại Bồ Tát. Trí tuệ quang minh được biểu hiện siêu tuyệt nhất thế gian, là Đức Bồ Tát có công đức vô cùng vĩ đại. Có đấng quy mạng, giống như Đức Tự Tại Sư Tử Vương Đại Bồ Tát, ức niệm nói chung bản thể tâm chân ngôn, Bồ Tát cũng giống như đi ở trên không để mở cuộc đại diễn thuyết tự tại, hoặc là làm công việc tư duy về một sự nghiệp lớn. Cũng như các bậc đế vương, bất kể việc gì, đều được đức Bồ Tát làm một cách tự do tự tại. Được hành động bởi một thân thể thanh tịnh, không mảy may dơ bẩn, hoặc để trừ diệt mọi hành vi dơ bẩn của ba cái độc hại là tham, sân, si, cũng như trừ diệt mọi ác ma độc hại ở trên thế gian này. Như vậy sẽ nhanh chóng có mái tóc hoa đẹp đẽ, hoặc một bông hoa sen thanh tịnh, và cầm được bông hoa sen của đức Bồ Tát. Giáo hóa được nghiệp ngu si của ta và chứng ngộ được lòng đại bi ái. Nếu như muốn thấy được con chim cổ xanh, có thể khiến nó hiện hình trước mắt, khiến sinh lòng hoan hỷ của Quán tự tại Bồ Tát.
Muốn được tới cõi Niết Bàn (thành tựu viên mãn) sẽ được thấy cõi Niết Bàn, và cũng được tới tất địa (nơi ngộ đạo) với Du Già (tương ứng hiệp nhập) được tự do tự tại. Trong đó cũng có kẻ mặt heo cổ xanh, có kẻ mặt sư tử, còn từ bi thì biểu thị tay cầm hoa sen, để đeo ngọc hoàn mà đánh ma quỷ phiền não. Nghe tiếng pháp loa vi diệu mà được chuyển mê khai ngộ. Tay cầm bông sen lớn, mắt nhìn về phía tay trái nhắm vào các loại ma sắc đen, và hết thảy đều quy y chân thực tam bảo.
Nam mô Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, khiến cho con được tới cõi Niết Bàn, để trì tụng lời chân ngôn này ở nơi Niết Bàn u tịnh”.
Như vậy, chúng ta đã tìm hiểu sơ lược qua bài Chú Đại Bi bản chữ Phạn, chữ Hán, cùng các bản phiên âm và ý nghĩa của bài Chú Đại Bi. Mặc dù người viết đã cố gắng tìm hiểu thật nhiều, nhưng phần tài liệu hạn hẹp, cho nên chưa thể mở rộng ra được nhiều vấn đề cần tìm hiểu, rất mong sau này, với pháp môn tu trì – tụng niệm – Chú Đại Bi, sẽ càng ngày có nhiều hành giả hơn, hầu mong một pháp môn vi diệu được xiển dương.
CHƯƠNG 2:
SƠ LƯỢC TÌM HIỂU VỀ HÌNH ẢNH CỦA ĐỨC QUÁN THẾ ÂM
2.1 HÌNH ẢNH ĐỨC QUAN ÂM TARA QUA CÁC SẮC DIỆN
Nói đến hình ảnh Đức Quan Âm TARA hay là Thánh Cứu Độ Mẫu, đối với Phật tử Việt Nam gần như là mới lạ. Thượng Tọa Thích Viên Thành đã không quản ngại lao nhọc, gia tâm nghiên cứu, tra khảo qua Đại Tạng kinh phần Hán Tạng, cùng với sự tìm hiểu pháp tu của một vị Kim Cương Thượng Sư người Tây Tạng tên là Tây Khang NẶC NA HÔ ĐỒ KHẮC ĐỒ và Ngài đã tìm ra nội dung tu trì của Đức Quan Âm TARA trong Đại Tạng phần Mật Giáo, mục N0 1108A bằng Hán Văn với tên “Thánh cứu Độ Phật Mẫu nhị thập nhất chủng lễ tân kinh” của Hàn Lâm học sĩ Thừa Chí Trung phụng Đại Phu An Tạng dịch.
Ở đây, chúng ta cùng tìm hiểu một vài sắc diện của Quan Âm TARA.
2.1.a Lục cứu độ Phật Mẫu
Nam mô thị hiện TARA Phật
Biêng biếc mắt xanh chiếu Ta Bà
Vì độ quần sanh làm thân nữ
Tam giới liên hoa ngọc lệ thành.
Bổn tôn thân toàn màu LỤC, dung mạo hiền từ , ngồi bán già trên Nhật Nguyệt Luân của hoa sen có tám cánh, màu trắng hơi hồng, chân phải để xiên, chân trái co lại, mỗi tay đều cầm một cánh hoa ba lạp, đầu đội mũ bán có năm đức Phật, thân trên áo bay lất phất như cờ hiệu, thân dưới quấn ngoài một tấm y rộng, bên trong quần hẹp, quanh cổ đeo ba vòng châu, vòng thứ nhất ở trên ngực, vòng thứ hai đến tim, vòng thứ ba đến rốn, vòng đeo tay, vòng cổ tay, vòng khủy tay, chuông nhỏ đeo cổ chân, các đồ trang sức đều trang nghiêm. Còn hai mươi tôn độ mẫu, tư thế ngồi trên tòa cùng y phục và trang sức cũng giống như Lục Độ Mẫu, chỉ khác màu sắc. Bổn Tôn xưa gọi là Đà La Quán Tự Tại Bồ Tát (Dhara Avalokiteshvara Bodhisaha) tức Nam Hải Phổ Đà Sơn Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nay lược thuật pháp tu trì Lục Độ mẫu như sau: “thân ngồi ngay thẳng, không sinh một niệm nào. Trong khoảng sát na quán tưởng tự thân hành lục Độ Mẫu, đầu đội mũ bán có năm Đức Phật (tức là Đức Phật A Di Đà – Amitabha Bouddha, Đức Đại Nhật Như Lai – Vairocana Bouddha, Đức PhậtA Súc Bệ – Asobhya Bouddha, Đức Phật Bảo Sanh – Ratna Sambhava Bouddha, Đức Bất Không Thành Tựu Như Lai – Amoghasiddhi Bouddha), trong đỉnh có Đức Phật A Di Đà. Lại quán nơi tâm mình có hoa sen, trên hoa có Nhật Nguyệt Luân, Nhật Luân màu hồng, Nguyệt Luân màu trắng. Chữ TÂM lập ngay chính giữa Nguyệt Luân, mặt chữ xoay về phía trái, bên ngoài từ phía trước theo hướng phải có Lục Độ Mẫu tự chú bao quanh thành hình tự luân. Chữ Chủng Tử và Chú Tự Luân đều phóng quang mầu lục, cúng dường Chư Phật khắp mười phương. Mười phương Chư Phật cũng phóng quang tương ứng. Công đức của Chư Phật khắp mười phương theo ánh sáng nầy hồi nhập vào tự thân hành giả. Thân, khẩu, ý của hành giả trở thành thân, khẩu, ý của Độ Mẫu. Lại do chữ TÂM phóng quang phổ chiếu khắp hết chúng sanh, tiêu diệt tất cả tội nghiệp của hết thảy, làm cho rời khổ được an vui, sự sự như ý đều thành độ mẫu, phóng quang tương ứng. Lại quán hào quang nầy hồi nhập vào trong chủng tử của tự thân. Rồi bắt đầu niệm chú càng nhiều càng tốt. Trong lúc niệm quán ngoài tự luân, có hào quang mầu lục từ phía trước, hướng về phía trái chuyển vòng lại. Niệm xong, dùng công đức ấy bố thí cho hết thảy chúng sanh, gọi là hồi hướng.
Lục cứu Độ Mẫu chú như sau : OĂM–A REN-DUDA REH–DUREH-SOHA- TA RE-TUTARE-TURE-SVAHA
Bổn Tôn là chủ tôn trong 21 Độ Mẫu, Lục Độ Mẫu chú cũng là chú căn bản trong 21 chú, thường chuyên niệm tụng có thể cắt đứt gốc rễ luân hồi, diệt trừ tất cả ma chướng, bệnh ôn dịch, tiêu trừ tất cả tai nạn, nước lửa, đao binh, trộm cướp, tăng tuổi thọ, tăng phúc tuệ, phàm cầu việc gì đều được như ý, mệnh chung vãng sinh cực lạc. Thành tâm phụng trì, linh ứng dội đến, liền như tiếng vang, công đức rất lớn, không thể nói hết. Như lúc triều lễ Nam Hải Phổ Đà Sơn, trì tụng chú nầy, cảm ứng đặc biệt.
2.1.b Bạch Cứu nạn Độ Mẫu hay là Cứu tai nạn Độ Mẫu
Khể thủ tướng hảo vạn trăng thu
Diệu vợi muôn sao phổ sáng ngời
Vằng vặc trên cao vô số ức
Từ quang rạng rỡ khắp muôn trời.
Bạch Cứu Nạn Độ Mẫu bổn tôn thân sắc TRẮNG, tay phải thí vô úy ấn, tay trái cầm hoa
Bạch Cứu nạn Độ Mẫu chú như sau : OĂM, BAT – JA – DAREH – SARVA, BIGGANEN, SHINDUM, GOORU, SOHA.
Trì tụng bổn tôn chú trừ được hết thảy bệnh khổ, hết thảy tai nạn nguy hiểm về đất, nước , gió, lửa.
2.1.c Cứu địa tai Độ Mẫu
Khể thủ thân tướng tợ kim ngân
Sáu hạnh liên hoa vô nhiễm trần
Bố thí, trì giới đồng kham nhẫn
Tinh tấn ,thiền định, Huệ quang tâm
Bổn Tôn thân sắc màu LAM, tay phải : thí vô úy ấn, tay trái cầm hoa, trên hoa dựng đứng năm chày kim cang.
Cứu địa tai Độ Mẫu chú như sau : OĂM, DAREH, DUDAREH, DUREH, MAMA, SARVA, LUM LUM, BAYA, SHIN DUM, GOORU SOHA.
Trì tụng Bổn Tôn chú, trừ được địa chấn cùng núi lở, đất nứt, nhà cửa nghiêng sập.
2.1.d Cứu hỏa tai Độ Mẫu
Bổn tôn thân sắc VÀNG, tay phải : thí vô úy ấn, tay trái cầm hoa, trên hoa có ngọc Phalê, rớt ra nước cam lồ.
Cứu hỏa tai Độ Mẫu chú như sau : OĂM - DAREH DU DAREH, DUREH, MAMA, SARVA RUM RUM , NG – JO LA BA , YA, SHIN DUM, GOORU, SOHA.
Trì tụng bổn Tôn chú, trừ được hết thảy tai nạn về lửa.
2.1.e Cứu ma nạn Độ Mẫu
Nam mô tướng hảo quang cung Phật
Rực rỡ chính phương ngọc lửa thần
Biến ánh từ quang thành binh tướng
Thiêu hết hung đồ, diệt ma quân
Bổn tôn thân màu ĐEN, tay phải : Thí vô úy ấn, tay trái cầm hoa trên hoa có cắm chày hàng phục MA, chày có ba đầu .
Cứu ma nạn Độ Mẫu chú như sau : OĂM, DAREH, DUDAREH, DUREH, SARVA, DU JING, BIDGA, NEN BUM PEH, SOHA.
Trì tụng bổn tôn chú, trừ được các quái bệnh về cổ mị, linh tinh, cùng tất cả tai ương và thiên ma, địa ma, không ma, địa long .
2.1.f Tăng oai quyền Độ Mẫu :
Bổn tôn thân màu HỒNG, tướng mạo nhu hòa, tay phải cầm hoa đầu hướng lên trên, tay trái cầm dây tơ.
Tăng oai quyền Độ Mẫu chú như sau : OĂM BEH MA DARE, SENDA RA SHEN , SARVA, LOGA, VA SHUM GOORU HO.
Trì tụng bổn tôn chú được oai quyền lớn, khiến người khâm kính, như bộ thuộc không phục tùng thì làm cho phục. Lại như vợ chồng bất hòa, tu theo pháp này thì làm cho thân ái, kính yêu suốt đời.
2.1.g Cứu súc nạn Độ Mẫu :
Nam Mô uy dũng lôi chấn địa
Đại hùng Phật thủ lực nan tư
Cử túc âm thinh rền địa ngục
Chinh phục mười phương diệu âm HUM
Bổn tôn thân màu NÂU ĐẬM, tay phải : Thí vô úy ấn, tay trái cầm hoa, trên hoa có mâu.
Cứu súc nạn Độ Mẫu chú như sau : OĂM, DAREH, DU DAREH, DU REH, SAVRA, HUNK HUNK DU JING HA NA HA NA, JA SA YA PEH, SOHA.
Trì tụng bổn tôn chú, không bị các thú vật không ăn thịt như voi, ngựa, trâu …làm hại.
Có tất cả là 21 tôn Độ Mẫu, trong bài tiểu luận này, chúng ta sơ lược vài tôn Độ Mẫu để tìm hiểu về một vài sắc diện của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Trong “Nghi thức tu trì Lục Độ TARA” của Thượng Tọa Thích Viên Thành có kể câu chuyện về thánh cứu độ Phật Mẫu như sau :
Vô lượng kiếp về trước có thế giới tên là Tụ Quang. Lúc bấy giờ, ở thế giới này có Đức Phật ra đời, hiệu là Cổ Âm Như Lai .
Trong nước có một người con gái tên là Bát Nhã Nguyệt, sinh ra đã có sẵn trí tuệ, kính lễ Tam Bảo . Thời ấy, mạng sống của con người rất dài. Bát Nhã Nguyệt cung kính các đệ tử của Phật, tất cả mọi đồ dùng cần thiết đều trí tâm cúng dường đến một trăm vạn tám ngàn năm, lại dùng sáu trăm dặm trân châu anh lạc cúng dường chúng tăng, Chư Tỳ Kheo đồng thanh khen ngợi: “ Người đời này tất được chứng quả, nếu chí thành phát nguyện, tất như nguyện thành tựu”. Bát Nhã Nguyệt thưa : “Nay tôi trong ý thức không thấy là nam hay nữ, không ta không người, không biết không thấy, không có cả danh từ nam nữ. Phần nghiệp chướng ở thế gian đều do vọng chấp tâm này mà có. Xem lại những vị lấy thân nam Tu Đạo Bồ Đề thì rất nhiều, mà nữ thân Tu Đạo Bồ Đề thì rất ít. Tôi nguyện từ thế giới này cho đến thế giới tận, hư không giới tận, đều dùng thân nữ mà độ chúng sanh”. Bát Nhã Nguyệt phát nguyện như vậy, liền ngồi quán các căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, liền được tâm khai, chứng nhập vô sinh pháp nhẫn, thành Độ Nhất Thiết Hữu Tình Phật Mẫu. Sau khi thành đạo, mỗi sáng sớm phát Bồ Đề tâm độ trăm vạn chúng sanh, nếu không như vậy, không ăn sáng, sau giờ Ngọ cũng thế, nhờ đó nên thành Độ Mẫu, danh xưng rộng nghe khắp mười phương thế giới. Phật thọ ký : “Đại Độ Mẫu này quyết định không ngừng nghỉ khi chưa thành Phật”.
Lại ở trước Đức Phật Bất Không Thành Tựu phát nguyện rằng : “Nguyện hộ trì hết thảy các chúng sanh tội khổ trong mười phương thế giới”, liền hàng phục hết thảy ma, ngồi nhập định bình đẳng như vậy trong chín mươi lăm đại kiếp, mỗi ngày có vạn vạn chúng hữu tình được ban cho sự an vui thanh tịnh, nên gọi là Độ mẫu, lại gọi là Năng Mẫu, Tốc Mẫu, Dũng Tướng Mẫu.
Có rất nhiều câu chuyện linh ứng đối với việc trì niệm Độ Mẫu, như sau :
“Một vị trụ trì mắc bệnh rụng lông mày, có năm vị tăng cũng cùng bệnh, thịt rụng, mày bóc, không có phép trị, không ai dám lại gần, sợ lây. Trên đường khất thực thấy trên tảng đá lớn có khắc Độ Mẫu chú cùng tượng Độ Mẫu, đều quỳ xuống khóc, cầu. Trong tay tượng đá bỗng tuôn ra nước, màu như thuốc. Nhận lấy nước ấy mà rửa, bệnh đều khỏi và tướng mạo lại hóa tốt đẹp trang nghiêm, như người cõi trời”. [15, ]
“ Có một trăm vị tăng qua sông bị nước cuốn ra giữa dòng sông. Các vị niệm Độ Mẫu bỗng thấy tượng Độ Mẫu ở trên bờ, trong miếu, xuất hiện ra cứu. Tượng này về sau có tên là Phong Thủy Độ Mẫu”
“ Ở Ấn Độ có tháp Đại Bồ Đề, trên tháp có tượng Độ Mẫu, có vị tăng nói với tượng : “Nếu mặt hướng ra ngoài tháp cùng hướng vào trong tháp, không như thế được sao”. Nói xong bỗng nghe tượng đáp : “ Ông đã nghi ngờ, ta quay thân như thế nào”. Tượng bèn quay thân, mặt hướng vào trong. Trong lúc xuống thân, cửa tháp cùng gạch theo thân tượng mà quay ngược vào trong. Đến nay còn gọi là Phản Thân Độ Mẫu” [15, ]
Những câu chuyện như vậy đã chứng minh sự hành trì tu tập “Lục độ TARA” sẽ có kết quả. Người tu pháp này, hết thảy tội nghiệp đều tiêu diệt, tất cả ma chướng tiêu tan, cứu được tất cả tai nạn. Lại được thân thể sống lâu, đời sống đầy đủ, thành tựu cực kỳ mau chóng, công đức lợi ích vô cùng vô biên, nói không thể hết vậy.
Chúng ta đã tìm hiểu sơ lược một vài hình ảnh về Đức Quan Âm TARA qua các sắc diện.
2.2 Hình ảnh Đức Quán Thế Âm Bồ Tát qua các đức tính đại từ đại bi
“Viên thông giáo chủ, mãn nguyệt kim dung, thị Di Đà ư Cực Lạc quốc trung, trợ Thích Ca Ư Ta Bà giới nội. Cư Lưu Ly Chúng Bảo chi sơn, xử thiên diệp hồng liên chi tọa. Quá khứ Chánh Pháp Minh, hiện tiền Quán Tự Tại, tam thập nhị ứng, quảng độ quần sanh, thất nạn nhị cầu, đa phương ứng vật, thù thắng diệu lực, tán mạc năng cùng, ngưỡng khấu hồng từ, phủ chương đổng giám “. [10, 4 – 5]
Ngài vốn đã là một vị cổ Phật, nhưng vì lòng bi nguyện nên thị hiện làm Bồ Tát trong thế giới Ta Bà để hỗ trợ Đức Phật Thích Ca chuyển pháp luân, độ chúng sanh; Ngài có nhiều công đức và hạnh nguyện đặc biệt đối với chúng sanh ở cõi Ta Bà, kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương có đoạn như sau :
Qui mạng Liên Hoa Vương, Đại Bi Quán Tự Tại
Đại Tự Tại Cát Tường, hay thí nguyện hữu tình
Đủ sức đại oai thần, hàng phục cực bạo ác