;
Bồ Tát Di Lặc và ý nghĩa sáu đứa bé
Học theo hạnh hỉ xả của Bồ tát Di Lặc
Trong truyền thống Phật giáo Á Đông, hình tượng đức Di Lặc là một vị Bồ Tát ăn mặc xuề xoà, ngồi phệt dưới đất, mập mạp, bụng phệ, gương mặt phúc hậu, sống đời đơn giản, bằng những hình ảnh biểu trưng qua ý nghĩa tự tại, an lạc và giải thoát. Đặc biệt Bồ Tát Di Lặc có tấm lòng nhân ái, nên miệng cười thật rộng, cười hả hê, cười hết mình, nhìn thẳng người đối diện như muốn trao gửi hết niềm yêu thương trọn vẹn cho người ấy bằng tất cả trái tim hiểu biết.
Lỗ tai chúng ta thích nghe lời khen, lời nịnh hót, lời tâng bốc và không chịu bị ai chê bai, chỉ trích, nhất là trước mặt mọi người. Khi nghe lời khen, trong lòng chúng ta cảm thấy phấn khởi, vui mừng, bị dèm pha, chê bai thì mình sinh phiền muộn, khổ đau, đó là đứa giặc thứ hai. Khi ta vui mừng, thích thú là háo danh, khi phiền não là bệnh hoạn, nó cướp mất đi công đức lành của chúng ta.
Điểm này khác với vẻ mặt trang nghiêm, nụ cười nhẹ nhàng, thanh thoát và đôi mắt trầm tư của chư Phật hay các vị Bồ Tát khác. Lại nữa, có những hình tượng, chúng ta thấy sáu đứa trẻ đeo bám trên thân ngài, đứa móc mắt, đứa bóp mũi, đứa rờ miệng, đứa nhéo tai, đứa gãi rún, đứa leo lên đầu, mà ngài vẫn bình thản, an nhiên, tự tại, không hề có chút tâm tư buồn khổ nào.
Nhìn bằng tâm thanh tịnh, sáng suốt, chúng ta sẽ hiểu, tôn tượng Bồ Tát Di Lặc là biểu trưng cho những con người đã thật sự bình yên, hạnh phúc, dấn thân đi vào đời để hóa độ tất cả chúng sinh, vẫn thấy nghe, hay biết mà không bị dòng đời cuốn trôi làm ô nhiễm.
Sáu đứa trẻ nghịch ngợm trên thân Bồ Tát Di Lặc tượng trưng cho "sáu đứa giặc" chuyên hành hung, cướp phá, đánh mắng gây phiền lụy, khổ đau cho người không biết tu theo lời Phật dạy. Vì chúng ta một mặt muốn cầu giác ngộ, giải thoát, một mặt mình lại gây tạo phiền não, khổ đau. Ta thật mâu thuẫn và si mê, nên bị sáu tên giặc này làm ngăn chặn sự tiến tu đạt đến tự tại, giải thoát.
Hình tượng Đức Phật Di Lặc và sáu đứa bé.
Mỗi đứa bé soi lỗ tai, móc lỗ mũi của Ngài, mà Bồ Tát vẫn cười vui vẻ, không tỏ thái độ bực dọc, hờn dỗi, không cảm thấy buồn bã, hay dính mắc một điều gì. Hình ảnh đó luôn nhắc nhở hàng Phật tử chúng ta hãy ý thức việc tu hành của chính mình qua biểu tượng an lạc, tự tại của đức Phật Di Lặc trong cuộc đời, ngay nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, chớ có tìm cầu đâu xa.
Và cũng không một ai có quyền ban phước, giáng họa, mà chính ta là thượng đế tối cao, chính ta quyết định cuộc đời mình bằng những ý nghĩ, lời nói, rồi hành động qua sáu giác quan mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý mà được thành tựu an lạc, giải thoát ngay tại đây và bây giờ. Bồ Tát Di Lặc sẽ ra đời khi thế gian này không còn ai biết đến điều hay lẽ phải nữa, để hóa độ tất cả chúng sinh.
Còn chúng ta thì sao? Nếu lỡ ai đó tự nhiên móc lỗ tai của mình thì chuyện gì sẽ xảy ra? Nếu ai móc lỗ tai của mình thì ta cũng nói nặng nhẹ hay chửi bới, nếu không đánh đá, đánh đập, thì cũng la làng lên để mọi người đều biết, có phải vậy không?
Tương tự như thế, cho đến các căn khác cũng bị dao động mạnh mẽ, tùy theo thói quen huân tập nhiều hay ít của mỗi người. Như vậy, đối với sáu căn của chúng ta, khi có ai động tới thì mình không chịu được, nên phải nổi tam bành lục tặc, làm ảnh hưởng lớn đến người khác. Chỗ không chịu nổi đó làm cho ta bị chướng ngại trên đường tu, nên không được an lạc, giải thoát.
Sáu đứa bé đó theo danh từ chuyên môn gọi là lục tặc, tức là sáu đứa cướp của, phá nhà. Nó phá phách ngang tàng, chẳng biết nể sợ một ai. Nhưng thật tế, nó có phá mình hay không? Nếu ta bị móc lỗ tai mà mình cảm thấy đã ngứa thêm thì không bị chướng ngại gì.
Hiện tại, chúng ta có thể nói gần như một 100% đều bị chướng ngại bởi những lời nói bên ngoài, bởi những lời khen, tiếng chê. Những lời nói chát chúa, hằn học, chửi mắng, dèm pha, nguyền rủa, tất cả những thứ đó tới lỗ tai mình mà ta coi như gió thổi mây bay thì có gì làm cho ta hư hại không?
Nếu ta thấy đó là lời nói oán giận, thù hằn, lời nói chất chứa thêm hận thù, mỉa mai, sâu độc, hiểm ác, thì lúc đó mình có bình tĩnh được không? Tùy theo sự tu tập của mình mà ta phát sinh bực bội, tức tối nhiều hay ít, vì những lời nói khó nghe như vậy.
Khi nghe những lời nói như thế, ta phải thương người đó nhiều hơn, vì tâm họ đã bị vô minh che lấp, họ đang bị những tâm niệm đen tối dằn xé trong lòng; còn khi nghe nó mà mình chỉ biết, tất cả mọi âm thanh đều thường sinh diệt theo thời gian, thì mình có thể an nhiên tự tại.
Vì vậy, người tu chúng ta cần phải biết rõ gốc rễ của bất hạnh, khổ đau là do dính mắc, chạy theo sáu trần là sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp. Tai ta nghe những tiếng khen chê, được mất, hơn thua, phải quấy, hoặc những lời ngọt ngào, êm ái, nhẹ nhàng, mình chỉ nghe như gió thoảng mây bay vì biết rằng lời nói không thật.
Chính bản thân mình do bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp nên chúng không thật có, huống chi là tiếng nói bên ngoài. Tâm ta không động, đó là mình đã thắng đứa bé móc lỗ tai của mình rồi.
Chúng ta thấy mọi người thờ Bồ Tát Di Lặc với vẻ mập mạp, cười toe toét, cười rạng rỡ, cười khoan thai, cười hả hê. Có chỗ khác cũng thờ hình tượng như vậy mà có sáu đứa nhỏ, đứa thì chọc ngón tay vô rún, đứa thì móc lỗ mũi, đứa thì móc miệng, đứa thì dùi lỗ tai, đứa thì móc con mắt, mà Ngài vẫn cứ cười hề hề, cười hả hê, cười khoan khoái, không phiền muộn một ai hoặc bị chướng ngại gì hết.
Ta bây giờ nhìn thấy hình ảnh đức Phật Di Lặc lúc nào cũng mập mạp, cũng vui tươi, nên mọi người gọi Ngài là biểu tượng cho con người hạnh phúc hiện tại và mai sau. Cái dáng vẻ mập mạp, vui tươi, lành mạnh đó là biểu trưng do điều gì? Chính nhờ trong lòng Bồ Tát không có những đám mây đen tham lam, sân giận, si mê che lấp nên mặt trời trí tuệ sáng soi, vì vậy mà sáu đứa bé dù có móc tai, móc mũi, móc mắt, nhưng Ngài vẫn thấy bình an, hạnh phúc.
Còn chúng ta khi thấy hình ảnh đẹp thì dính mắc vào đó, nếu không vừa ý thì trán mình nhăn lại, mặt mày cau có, mắt đỏ lên, trông chẳng khác nào bọn đầu trâu, mặt ngựa. Nếu lúc đó ta nhìn vào trong gương, sẽ thấy mày mặt thật của mình chẳng khác nào ma quỷ.
Thế cho nên, ta biết tu nơi sáu căn rồi thì tự nhiên mình cảm nhận được bình yên, hạnh phúc. Dù ta chưa thành Phật, nhưng hiện đời mình cũng cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng, càng tu mình càng lạc quan, yêu đời hơn.
Do đó, chúng ta tu phải làm sao để chính mình dứt hết luân hồi sanh tử, đạt được an lạc, giải thoát. Đó là gốc của sự tu hành đối với hàng xuất gia. Còn nếu chúng ta vẫn bị phiền não kéo lôi, vẫn đi trong luân hồi sanh tử, thì sự tu đó không có hiệu quả thiết thực. Như vậy là uổng cơm của đàn na thí chủ, uổng công gia đình, người thân mong mỏi, đợi chờ, uổng công đất nước bảo vệ, gìn giữ an ninh, để ta có thời gian an ổn tu hành.
Trong kinh Phật dạy, “này các thiện nam, tín nữ, có người thích thú đi nghe âm thanh, nhạc điệu, hoặc nghe pháp của các thầy tà, bạn ác, rồi vui vẻ bắt chước làm theo. Như lai cho rằng, đây không phải là những cái đáng nên nghe, vì sự nghe này mang tính phàm phu, không liên hệ đến mục đích xa lìa đắm nhiễm, không đạt được an lạc, giải thoát.
Người Phật tử chân chính biết tìm kiếm và thích nghe chánh pháp của Như Lai, qua sự chỉ dạy của chư Tăng với lòng tin sâu nhân quả. Ai học hỏi, tu tập sự nghe này mới thật sự có lợi ích và cần thiết. Vì nó có thể giúp mọi người từ phàm phu trở thành hiền Thánh mà biết cách vượt qua khổ đau của cuộc đời”.
Qua pháp thoại ngắn trên, Phật dạy ta không nên đi nghe những âm thanh nhạc điệu của thế gian, vì cái nghe này sẽ làm cho tai ta dính vào đó mà đắm say, mê muội. Cho nên, khi ta nghe những lời nói hằn học, lớn tiếng, hoặc những âm thanh không phù hợp sở thích của mình, thì sinh tâm hờn dỗi, tức tối, bực bội.
Người quen và đam mê các loại nhạc sẽ dễ dàng bị âm thanh không vừa lòng thích ý làm phiền muộn, khổ đau. Thậm chí, có những người say mê đến đỗi, nếu trong ngày ấy mà không nghe được tiếng hát của ca sĩ đó, thì cảm thấy trong người ray rức, khó chịu.
Chúng ta muốn tu cho có hiệu quả, lợi ích thiết thực trong cuộc đời, không uổng cơm của tất cả mọi người, thì mình phải biết rõ sáu căn là cội gốc của sinh tử luân hồi, ngay nơi tai đừng cho nó dính, đừng cho nó nhiễm, mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.
Vậy sáu căn từ đâu mà ra? Nó có sẵn nơi chúng ta, mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý ở ngay thân mình. Ta chỉ cần đừng để cho nó dính mắc với trần cảnh là đã khéo tu.
Còn nếu chúng ta ăn chay đơn giản, đạm bạc, sám hối, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền nhiều, mà ai động tới liền nổi giận, hờn mát trong lòng, cái gì đẹp thì ưa thích, bám víu vào đó, chúng ta tu như vậy có kết quả không?
Cũng vậy, mũi ngửi mùi hôi nhiều hơn mùi thơm, lưỡi nếm vị dở nhiều hơn vị ngon, mắt thấy sắc xấu nhiều hơn sắc tốt, thân xúc chạm vật bất như ý nhiều hơn như ý. Kiểm lại ta thấy cuộc sống của mình bất hạnh nhiều hơn hạnh phúc. Người đời cho rằng, hạnh phúc là do mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý tiếp xúc với trần cảnh, sinh ra cảm thọ vui, rồi bám víu vào đó mà thích thú, ngược lại thì giận hờn mà sinh ra đau khổ. Tất cả những cái mà mọi người cho rằng là hạnh phúc chỉ có giá trị tạm thời, không lâu dài, bền chắc.
Mắt thấy sắc đẹp, lòng luyến ái, mê thích, tai nghe tiếng chê dở, khen hay, rồi sinh bực bội, như vậy là ta chưa thật sự gỡ được tâm dính với các trần cảnh bên ngoài. Nếu tu mà chưa chuyển hóa những tâm tư tham đắm, phiền muộn, thì thử hỏi chúng ta làm sao có đủ khả năng giải thoát luân hồi sanh tử. Chính vì vậy, trên đường tu, chúng ta phải cố gắng nỗ lực, làm sao gặp cảnh vui buồn, được mất mà mình vẫn an nhiên, tự tại.
Như vậy, con đường để trở về giác ngộ, tự tại, giải thoát, và con đường sanh tử luân hồi cũng ngay nơi sáu căn này, không có khác. Nếu sáu căn chạy theo sáu trần, gọi là thuận lưu, đi theo chiều luân hồi. Nếu sáu căn không chạy theo sáu trần, không nhiễm, không dính, không mắc, đó là biết quay trở về Bồ Đề Niết bàn, chẳng phải tìm cầu đâu xa. Bồ Tát Di lặc là một vị Phật sẽ thành tựu trong tương lai nhờ tu pháp gì? Như chúng ta đã thấy, tu là biết quay lại chính mình, điều phục từ ngay nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, không cho nó dính mắc vào trần cảnh.
Hằng ngày, lỗ tai chúng ta thường được nghe những lời nói êm dịu, nhẹ nhàng, hay cũng có khi nghe lời nói chát chúa, hằn học, thô bỉ, cộc cằn ? Khi thì ta được khen, có lúc cũng lại bị chê. Song, ở đời chê nhiều hơn khen. Như vậy, chúng ta muốn được hưởng những âm thanh vừa với lỗ tai thì rất ít, mà trái với lỗ tai thì quá nhiều. Tối ngày ta chỉ chạy theo lời khen, tiếng chê, nên phiền não cứ dấy khởi hoài, khiến ta bất an.
Như Phật là bậc toàn giác mà có khi nào được khen hoàn toàn đâu? Có khi Ngài vẫn bị người ta chê hoặc chửi mắng. Như có ông Bà La Môn nọ, vì tâm ganh ghét, tật đố, nên cứ theo sau chửi Phật hoài. Phật vẫn bình tĩnh, an nhiên, không nói năng gì, hay tỏ thái độ bất bình, giận dỗi.
Ông Bà La Môn tức quá, chạy lên phía trước, chặn Phật lại hỏi, “này Cồ Đàm, ông có điếc không?” Phật bảo, “ta vẫn nghe rõ ràng tất cả mọi âm thanh xa gần, lớn nhỏ, nhưng ta nghe chỉ là nghe bằng tất cả tấm lòng từ ái và bao dung”.
Chúng ta thấy đó, trên thế gian này chưa có ai hoàn toàn được khen hay bị chê? Hễ có khen thì liền bị chê, khi khen thì vui tươi là hạnh phúc, lúc chê thì buồn khổ là bất hạnh. Phật nhờ biết cách nhiếp phục sáu căn, nên khi nghe ai chửi mắng Ngài vẫn an nhiên, tự tại, sống với cái hằng biết của mình, nương nơi tai gọi là tánh nghe.
Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ tu hạnh lắng nghe mà thông hết ba cõi, sáu đường, tùy duyên hóa độ chúng sinh không thể nghĩ bàn. Bồ Tát lắng nghe thật sâu tiếng nói của tha nhân, rồi tùy theo khả năng và sự hiểu biết của mọi người mà tìm cách chia vui sớt khổ bằng tình người trong cuộc sống.
Nói tóm lại, người Phật tử chân chính phải biết điều phục chính mình từ hai căn mắt và tai là chính yếu. Mắt và tai là hai căn ta phải tiếp xúc hằng ngày, khi ta thấy mọi hình ảnh, sự vật, cùng với âm thanh lớn nhỏ qua sự giao tế trong cuộc sống.
Thấy và nghe là hai chức năng quan trọng giúp cho ta an lạc, hạnh phúc hoặc phiền muộn, khổ đau. Thấy mà chạy theo, nghe mà phân biệt, so đo, tính toán, làm cho ta dính mắc vào đó, nên có thích thú và ưa ghét. Ta thấy, nghe mà không luyến ái, không chê trách, không ghét bỏ, thì ta vẫn là ta, nó vẫn là nó. Có lỗi lầm gì đâu? Lỗi lầm là chính lòng luyến ái bám víu của mình.
Âm thanh có tác động rất quan trọng đến tinh thần con người, thanh thiếu niên bây giờ đa số thích nghe những bài nhạc kích động, nghe nhạc trẻ, nhạc tình cảm, làm cho mình chạy theo âm thanh thích hợp. Ai nghe nhiều như thế sẽ dễ làm bản thân mất tự chủ về căn tai, nghe những bài nhạc như vậy thì tự nhiên con người cũng muốn phá phách, nổi loạn, hoặc bị ru ngủ bởi tình cảm ướt át.
Quí Phật tử thường xuyên đi chùa, nghe tiếng chuông mõ, tụng kinh thì thấy lòng mình an lạc, nhẹ nhàng, như trút hết gánh nặng mình đang quảy trên vai. Còn đối với những người không có niềm tin về nhân quả, họ chỉ thích bon chen, tranh đua, giành giựt, nên khi nghe tiếng mõ, lời kinh, chỉ thấy bồn chồn, khó chịu, vì tâm họ đang bị âm thanh, sắc tướng của pháp trần chi phối.
Ngày xưa, biết bao triều vua sụp đổ cũng vì nghe lời nịnh hót, tâu dối của bọn gian thần. Ngày nay, do sự phát triển của xã hội quá nhanh làm con người cũng bị ảnh hưởng rất lớn về mọi phương diện, nhất là những âm thanh ru ngủ bằng lời quảng cáo dối vì lợi nhuận kinh tế. Thanh thiếu niên ở trong môi trường nào sẽ bị tác động bởi lời nói của môi trường đó, nếu ở nhà cha mẹ hay tranh cãi, gây lộn, nói những lời cộc cằn, hở ra là chửi thề, thì con cái cũng sẽ bị nhiễm những lời ấy, do chúng chưa có ý thức làm chủ được căn tai của mình.
Làm chủ căn tai là biết chọn lọc, biết lựa chọn, biết nghe những điều hay lẽ phải, biết “bỏ ngoài tai” những lời gian dối, dua nịnh, những lời hằn học, ác độc, khích bác lẫn nhau. Cho nên, ta phải biết huân tập vào mình những âm thanh tốt đẹp và không chất chứa những âm thanh hỗn tạp thì tinh thần mới an ổn, nhẹ nhàng, mà nói và làm vì lợi ích cho mình và người.