;
Chuyện tiền thân số 422 của Tiểu Bộ Kinh kể rằng trong thời tối sơ, con người sống thọ đến một A tăng kỳ. Tương truyền đó là thời mọi người trên thế gian đều nói thật, người ta không biết từ "nói dối" nghĩa là gì cả. Một hôm, Vua ban chiếu chỉ cho các thần dân tập trung trước sân chầu để nghe Vua nói dối.Mọi người đều ngơ ngác và hỏi, “Nói dối là gì? Nói dối là vật gì? Có màu gì? Màu xanh, hay màu đỏ”. Thời đó, con người có sắc thân rất tuyệt mỹ, toát ra mùi thơm của hoa chiên đàn, miệng có mùi thơm của hoa sen, là nhờ quả hành nghiệp chân thật, nói lời chân thật trong tiền kiếp.
Sống chân thật, nói lời chân thật là những đặc tính cao đẹp được các bậc hiền trí, đạo sư trong các tôn giáo chính thống ngày nay tán thán, ca ngợi, và được xã hội tôn vinh. Cho nên, người chân thật được nhiều người kính mến, tin tưởng và tôn trọng.
Trong truyền thống Phật giáo Nam tông, một vị Bồ Tát tu hành viên mãn 10 ba-la-mật, mới có thể thành tựu quả Phật toàn giác. Chân thật ba-la-mật là một trong 10 ba-la-mật. Chân thật ba-la-mật này kết hợp với nguyện cầu chân lý sẽ tạo thành sức mạch siêu nhiên mà những ai có lòng tin ‘kim cang’ mới có thể tín thọ và pháp thọ được. Khi tín thọ và pháp thọ có được, thì tâm hân hoan đến pháp (này). Khi hân hoan đến pháp, thì hỷ sanh. Người có hỷ sanh, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, người ấy có cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tỉnh. Như thế pháp giả sẽ chảy dòng pháp ‘chân thật’ khi tín thọ pháp chân thật ba-la-mật này.
Để có thể cảm được những câu chuyện về sức mạnh siêu nhiên của nguyện lực chân lý, Tâm Tịnh xin trích một đoạn đối thoại trong Mi-Tiên Vấn đáp giữa Vua Milanda và Tỷ Kheo A La Hán Na Tiên về sức mạnh vô song này.
- Thưa đại đức! Trẫm nghe Đức Thế Tôn có thuyết rằng, đức vua Sìvi do móc hai mắt của mình bố thí cho người đến xin nên có được thiên nhãn! Điều này trẫm nghi ngờ lắm! Móc đi hai mắt, nghĩa là không còn tròng mắt, chẳng có con ngươi, thì không rõ thiên nhãn phát sanh chỗ nào?
- Đại vương! Đây là loại câu hỏi vượt ngoài tầm mức của lý trí, ở ngoài các định luật tự nhiên, không rõ đại vương có đầy đủ đức tin để lãnh hội chăng?
- Đại đức cứ nói.
- Vâng, có hai ba-la-mật là chân thật (sacca) và nguyện lực (adthitthàna) ở trong mười ba-la-mật, đại vương có biết chăng?
- Thưa, có biết.
- Nếu hai ba-la-mật này được kết hợp thành một khối nhất như, gọi là "nguyện lực chân thật" thì bất cứ chuyện gì trên thế gian này cũng đều được thành tựu như ý muốn, thưa đại vương!
- Xin đại đức nói cụ thể hơn một chút.
- Khi trời không có mưa thì với "nguyện lực chân thật" này, cầu cho trời có mưa, tức khắc mưa rơi xuống. Như lửa đang cháy, với “nguyện lực chân thật" cầu cho lửa tắt thì lửa sẽ tắt. Thậm chí bị chất độc họa hại sinh mạng, với “nguyện lực chân thật" thì chất độc cũng không còn. Nếu một dòng sông chảy xuôi, với "nguyện lực chân thật", nước có thể chảy ngược dòng! Điều ấy quả là khó tin phải không đại vương?
- Với mọi người thì khó tin, nhưng trẫm thì trẫm tin.
- Hay lắm! Đức vua Sìvì cũng như thế đó, tâu đại vương! Với “nguyện lực chân thật" nó tạo ra một năng lực siêu nhiên, năng lực siêu nhiên ấy làm cho đức vua phát sanh thiên nhãn. Chuyện khó tin nhưng có thật đấy, tâu đại vương!
Suy nghĩ một lát, đức vua lại hỏi:
- Những chuyện mà đại đức vừa nói, như mưa rơi xuống, lửa tắt, tiêu tan chất độc, dòng sông chảy ngược... Nói tóm lại là do nhân gì, duyên gì?
- Chính "nguyện lực chân thật" ấy là nhân, cũng chính "nguyện lực chân thật" ấy là duyên, tâu đại vương!
- Trong kinh có trường hợp nào cụ thể phát sanh năng lực siêu nhiên bởi nhân duyên "nguyện lực chân thật" ấy chăng, thưa đại đức?
- Thưa có! Đức vua danh hiệu là Cina, trị vì xứ Cina, có tâm mong muốn được dong xe ngựa ngao du trên biển cả, ngài bèn phát nguyện "nguyện lực chân thật" ròng rã bốn tháng trường như thế với tâm kiên trú bất thối. Hôm kia, bằng vào một niềm tin không lay động, đức vua dong ra biển trên một cổ xe có bốn ngựa kéo. Đức vua xứ Cina rất lấy làm thỏa thích, kể lại rằng, cỗ xe bốn ngựa ngao du trên biển xa chừng một do tuần, các làn sóng tạt lên gọng xe như nước tạt trên lá sen mà thôi. Đó là một chuyện, tâu đại vương.
- Trẫm muốn nghe thêm ví dụ cụ thể nữa.
- Đức vua Dhammasoka, hôm nọ, cùng với quân hầu ngự ra khỏi hoàng thành, thấy con sông nước chảy cuồn cuộn, chợt khởi lên ý nghĩ lạ thường rồi nói với quân hầu rằng:"Này các khanh, các khanh có thấy hoặc có biết ai trên thế gian này có khả năng làm cho con sông này nước chảy ngược lại chăng?"
Lúc ấy, ở bên sông có người kỹ nữ nghe được, cô ta bèn phát ngôn bằng "nguyện lực chân thật" như vầy: "Tôi đây làm nghề kỹ nữ, bốn mùa bán thân nuôi miệng, sở dĩ như vậy là vì tôi chỉ muốn duy trì mạng sống chứ không có lý do nào khác. Điều ấy là hoàn toàn chân thật. Nếu lời tôi nói đây là chân thật thì xin dòng sông này chảy ngược ngay bây giờ, ngay trước mặt cho đức vua Dhammasoka trông thấy!" Lời cô kỹ nữ vừa dứt, dòng sông tức khắc chảy ngược, đức vua kinh ngạc quá đổi, không rõ nguyên nhân tại sao!
Khi biết rõ dòng sông chảy ngược là bởi do cô kỹ nữ, đức vua kêu lại phán hỏi: "Cô là dạ xoa hay long vương mà có oai lực như thế?" Cô kỹ nữ kính cẩn thưa: "Đấy là do sức mạnh của sự nói thật, chứ không phải do oai lực của một phi nhân nào cả, tâu đại vương!" Đức vua không tin, bảo rằng: "Có gì ở nơi ngươi, mà ngươi bảo rằng "chơn ngôn" (lời nói chân thật)? Ngươi là người không có trí tuệ, bốn mùa chơi bời, dâm ô, không có nết hạnh! Ngươi chỉ biết cám dỗ tình dục mọi người, làm cho bao nhiêu đàn ông hư hỏng phải mê đắm, tan cửa nát nhà! Vậy có gì là đạo đức, hiền thiện ở nơi ngươi đâu mà dám bảo là "nguyện lực chân thật". Hãy nói cho trẫm nghe xem!" Cô kỹ nữ bèn đáp: "Tâu đại vương! Chính do tiện nữ nói thật nên "nguyện lực chân thật" kia mới tựu thành năng lực phi thường như thế!"
Nghe xong câu chuyện, đức vua Mi-lan-đà trầm ngâm:
- Qua các ví dụ của đại đức, bây giờ trẫm đã tin là đức vua Sìvi quả có phát sanh thiên nhãn do bố thí hai mắt bằng "nguyện lực chân thật" của mình. Thật là kỳ diệu vậy!
(Trích Mi_Tiên vấn đáp, số 94 bố thí mắt được thiên nhãn. https://www.budsas.org/uni/u-kinh-mitien/mitien-05.htm)
Để có thêm tư liệu về những sức mạnh siêu nhiên của nguyện cầu chân thật, Tâm Tịnh xin giới thiệu 10 câu chuyện về sức mạnh vô song của nguyện cầu chân lý, được trích dẫn từ các câu chuyện tiền thân trong Tiểu Bộ Kinh Nikàya.
Tập chuyện này chia thành năm chương.
Chương một - Sức mạnh vi diệu của công đức chân thật và nguyện cầu chân lý. Chương này mở đầu bằng một đoạn trích từ bài kinh số 86 Angulimàla (Vô Não) thuộc Trung Bộ Kinh kể về sức mạnh của nguyện cầu của Tỷ Kheo Angulimàla xin cho người phụ nữ đang chịu khổ vì cơn đau đẻ, được sinh con vẹn toàn liên hệ đến công đức chân thật về việc không sát sanh của ngài kể từ khi gia nhập Tăng đoàn của Thế Tôn. Tiếp theo đó là bốn câu chuyện về sức mạnh siêu nhiên của công đức chân thật và nguyện cầu chân lý.
Chuyện thứ nhất kể về sức mạnh chân thật của sự thủy chung của nàng Sambu, tiền thân của hoàng hậu Malli biến nước lạnh thành cam lồ, chữa lành căn bệnh phong cùi của phu quân nàng như được đúc kết bằng những vần kệ cảm tác sau:
Rằng xưa ở Thành Bra-tta
Có nàng tố nữ tên là Sambu
Dung nhan sáng rực tuyệt trần
Một lòng chung thủy Phó Vương So-thì
Lang quân lở loét phong cùi
Hôi tanh đau nhức ngự y lắc đầu
Vào rừng chờ chết cho xong
Sambu theo gót chăm non chân tình
Miếng ăn, giấc ngủ của chàng
Lâu khô máu mủ đắp thang thuốc rừng
Lo xong mới nghĩ đến mình
Sở hành như thế mà nàng thấy vui
Một hôm tắm gội suối vàng
Sau khi hái quả lượm hoa lá rừng
Dung nhan sáng rực cả vùng
Khiến cho thần quỹ say tình ngất ngay
Bắt nàng làm vợ liền ngay
Bốn trăm thần nữ Dạ Xoa theo hầu
Hống lên tiếng nói chung lòng
Lang quân đau ôm héo mòn chờ mong
Ngai vàng Đế Thích nóng rang
Vì công hạnh của Sambu chân hiền
Vua trời Đao Lợi đến liền
Vung dây thần bắt Dạ Xoa si tình
Phu quân ngóng đợi bên song
Thử nàng liền trách quá giờ đêm hôm
Phải chăng vấp phải tình lang
Nàng về quá muộn đêm khuya thế này?
Thiếp đây chung thủy một lòng
Nguyện cầu chân lý chứng cho lòng này
Sự thật chân lý nhiệm mầu
Nước đây chữa hết bệnh phong cho chàng
Nước nguyện vừa tưới lên chàng
Như cam lồ thủy hết ngay bệnh cùi.
Chuyện thứ hai kể về sức mạnh vi diệu của sự nguyện cầu và công đức chân thật về giữ giới không sát sanh của vị thuyền trưởng đã cứu 700 lái buôn thoát nạn bị chết thê thảm trong vùng biển xoáy, như được cô đọng bằng những bài kệ cảm tác sau:
Bảy trăm thương gia xứ Bhar-ka
Đi tìm vàng bạc chốn khơi xa
Thuyền buôn sa lạc vùng hải chảo
Hố thẳm sâu hắm nhiều sóng Ma
Dâng lên cao ngút tựa Sơn La
Vang lên tiếng thét thật ghê rợn
Khiếp vía sầu lo cùng la khóc
Đồng thanh gào thét thật chẳng khác
Như bị lửa đốt ngục A Tỳ
Sa-ppà, thuyền trưởng chân hiền trí
Cứu mạng tất cả bằng chánh ngôn
Chân lý thần diệu công đức lành
Không sát một ai người nhớ rõ
Thân này trong sạch tựa lưu ly
Nguyện cầu chân lý xin bày tỏ
Thoát khỏi hiểm này thuyền trở lại
Bến cũ vạn an cho mọi nhà
Lập tức thuyền kia quay lại bến
Là nhờ chân lý nguyện cầu thiêng!
Chuyện thứ ba kể về sự nguyện cầu chân thật của những người thân trong hoàng tộc mong cho thái tử thoát nạn bị quỹ nhân ăn thịt trong rừng sâu, được trợ về đoàn tụ với hoàng gia.
Chuyện thứ tư kể về sức mạnh chân thật và nguyện cầu chân lý về công đức giữ giới không sát sanh của con cá lớn đã cứu nòi giống thoát cảnh diệt vong như được mô tả bằng những vần kệ sau:
Hạn hán lâu ngày ao cạn nước
Đàn cá phơi mình miếng mồi ngon
Bày quạ tụ lại xơi thịt sống
Đau buồn thấy cảnh thật xót thương
Cá vương hiền trí rơi giọt lệ
Thực hành nguyện cầu hạnh chân lý
Từ khi sinh ra ta là cá
Là loại ăn thịt nòi giống mình
Ta không hề sát một sinh linh
Dù nhỏ dù to hỡi Pa ju
Chân thật nguyện cầu xin thiên chủ
Cho mưa làm đầy ao cạn đáy
Để cứu giống nòi nạn duyệt vong
Sấm chớp mưa rơi khắp cả vùng
Là nhờ nguyện cầu hạnh thật chân
Đàn cả thoát nạn hết sầu bi.
Chương hai - Công đức lành của chân thật và quả báo xấu của hư dối.
Chương này gồm hai chuyện. Chuyện thứ nămkể về sự chân thật của người buôn ghè nước đã được quả báo lành, được hai bà cháu nghèo khó hoan hỷ đổi bát vàng trị giá trăm ngàn đồng vàng để lấy một bát chè. Ngược lại, vì gian dối lòng mà kẻ buôn ghè nước tham lam bị chết ức hận, như được vắn tắt bằng những vần kệ sau:
Bát vàng không xứng một xu
Với người hư dối tham tâm chất chồng
Bát kia lại đáng trăm ngàn
Với người chân chính hiền lương thân tình
Bát vàng con lấy cho Già
Là nhờ công đức thật thà của con
Người buôn ghè nước chân phương
Móc ra tất cả số tiền trong bao
Hết thảy hơn một ngàn vàng
Trao cho bà cháu nghèo nàn tình chân
Kẻ buôn ghè nước vô tâm
Tìm quay trở lại lừa mua bát vàng
Không may mới biết rõ rành
Bát vàng đã tặng cho người đồng buôn
Nỗi điên máu huyết tuôn trào
Lăn ra chết mất vì gian dối lòng.
Chuyện thứ sáu kể về vị một vị vua bảy lần nói dối về cùng một vấn đề. Mỗi lần nói dối, phước báu rơi rụng dần, và đến lần thứ bảy vẫn cứ nói dối, vua bị quả đất nuốt chửng. Tuy nhiên trong bảy lần nói dối này, chỉ một lần nói thật vua sẽ phục hồi tất cả phước báu như trước.
Chương ba - Sức mạnh chân thật của những điều kín nhiệm và nguyện cầu chân lý- Chuyện thứ bảy kể về những điều thấm kín của ba cá nhân: một vị tu khổ hạnh nhiều năm không đắc năm thắng trí và chứng tám thiền nản chí đi du phương; Một nam thương gia cúng dường và bố thí vì truyền thống gia đình chứ không hân hoan trong việc bố thí; và một người vợ sống chung với thương gia mà không thật lòng vì tình yêu. Song để cứu lấy đứa con trai bị nọc độc rắn đang xâm nhập vào cơ thể, cả ba đều thực hiện nguyện cầu chân lý về những điều kín nhiệm riêng tư. Kết quả nọc độc rắn ba lần được ói ra sau mỗi lần nguyện cầu chân lý từ người tu khổ hạnh, người chồng và người vợ (cha mẹ đứa bé). Nhờ vậy đứa bé thoát chết.
Chương bốn -Sức mạnh chân thật của tự tánh pháp hiện hữu nơi thân và công đức chân thật của chư Phật trong sự nguyện cầu chân lý – Chuyện thứ tám kể về con chim cun cút con dựa vào công đức chân thật của chư Phật quá khứ và tự tánh hiện hữu nơi thân để dập tắc ngọn lửa đang thiêu cháy khu rừng để cứu rất nhiều hữu tình như được mô tả trong đoạn trích sau đây
"Trong thế giới này, có công đức, thật sự có công đức. Có những vị trong quá khứ viên mãn thành tựu các hạnh Ba-la-mật, ngồi dưới gốc Bồ-đề, chứng Chánh Ðẳng Giác, đầy đủ giới định tuệ, giải thoát, giải thóat tri kiến, thành tựu chân lý, lân mẫn từ bi, nhẫn nhục tụ tập lòng thân ái, bình đẳng đối với tất cả chúng sanh, những vị Phật Nhất thiết trí. Có những công đức Pháp mà các vị ấy đã chứng đắc. Và ta có được một sự thật: Một tự tánh pháp hiện hữu. Do vậy, ta cần phải niệm các công đức đã được các đức Phật quá khứ chứng đắc, nắm giữ tự tánh pháp về sự thật hiện có nơi ta, làm một hạnh chân đẩy lui ngọn lửa, đem lại an toàn cho ta và cho các con chim còn lại".
Chương năm - Sức mạnh chân thật của nguyện cầu và sự kiên định/quyết định kiên cố gồm hai câu chuyện. Chuyện thứ chín kể về sự nguyện lực chân lý về hạnh bố thí đôi mắt của nhà vua, kết quả vua được thiên nhãn. Chuyện thứ mười kể về sức mạnh của sự kiên quyết của người tu khổ hạnh trong việc nói lên sự thật xấu xa cho vua hay về sự thông dâm của mình với hoành hậu. Kết quả vị tu khổ hạnh liền nhàm chán ái dục, năm thắng trí và tám thiền chứng liền được hoàn lại, và người tu khổ hạnh bay lên hư không trở về vùng tuyết sơn.
MỤC LỤC
Chương I Sức mạnh vi diệu của công đức chân thật và nguyện cầu chân lý 12
Chương II Công đức lành của Chân thật và Quả báo xấu của hư dối 45
Chương III Sức mạnh chân thật của những điều kín nhiệm và nguyện cầu chân lý 56
Chương IV Sức mạnh chân thật của tự tánh pháp về sự thật hiện có nơi thân và công đức chân thật của chư Phật trong sự nguyện cầu chân lý 65
Chương V Sức mạnh chân thật của nguyện cầu và sự kiên định/quyết định kiên cố 68
Nguồn Tham Khảo
https://www.tuhoa-cicg.com/stories
Trích từ Tiểu Bộ Kinh Nikàya
Tâm Tịnh cẩn tập