;
Ngưỡng bạch Giác linh Hòa thượng !
Than ôi!
Một Long Tượng vừa ngã
Một đại thọ vừa nghiêng
Cuộc hóa duyên vừa mãn
Người trở về Tây Thiên.
Nhớ khi xưa :
Năm Canh Dần (1950), tại Xuân Hòa, Hòa Kiến
Ở ngoại ô bên thành phố Tuy Hòa
Nơi gia đình của cụ ông Trần Quyễn
Đủ phước duyên, Người được hạ sanh ra.
Người vốn là một người con hiếu thảo,
Kính song thân, luôn ngoan ngoãn vâng lời
Rộng lòng thương, thấm nhuần nơi nếp Đạo
Sớm dãi dầu, mới năm tuổi mất Cha.
Mẹ và em đã xuất gia cửa Phật
Chị kế Người vi đất nước hy sinh
Người anh cả đã yên bề gia thất
Sớm ưu tư, Người đối diện chính mình.
Tuy tại gia, chí xuất trần lộ rõ
Lo tịnh tâm, tinh tấn với chay trường
Sống vị tha, giúp người trong cảnh khó
Giữa hồng trần, tâm không loạn, không vương.
Năm Sáu Tám (1968) tại Ngọc Tòng Tịnh Xá
Ngài Giác An cho thế phát xuất gia
Hợp căn duyên, ban Pháp Danh Huệ Học
Kể từ đây, Người hành nguyện cao xa.
Thật hạnh phúc bên chân Thầy học Đạo
Ngày mỗi ngày lo tinh tiến hành trì
Năm Bảy Mươi (1970) tại Tịnh Xá Ngọc Bảo
Người đăng đàn thọ nhận Giới Sa Di.
Một năm sau (1971), Sư phụ Người vắng bóng
Ngọc Cát vương bao hương khói mịt mờ
Một mình Trò giữa dòng đời gió lộng
Biết làm sao, cảnh non yếu bơ vơ?!
Năm Bảy Tư (1974) tại Quy Nhơn, Nhơn Lý
Người đăng đàn Cụ Túc tại Ngọc Hòa
Nương Giác Dũng Ân Sư làm Y Chỉ
Với Bát – Y hoằng Pháp khắp gần xa.
Pháp âm Ngài như chuông ngân vang dội
Khắp miền Trung, duyên hải với Tây Nguyên
Bao tháng năm miệt mài, không mệt mỏi
Nơi nào cần có Ngài đến gieo duyên.
Năm Bảy Lăm (75) được xếp về Bình Định
Nơi Ngọc Duyên để giúp việc Trụ Trì
Ngài đóng góp nhiều vai trò trong Tỉnh
Trùng Tu nên một Phạm Vũ uy nghi.
Thân tứ đại theo tháng năm mòn mỏi
Trải bao lần Ngài ốm yếu suy hao
Biết bệnh duyên nhịp cầu không tránh khỏi
Ngài ung dung, không một chút nôn nao
Ngài sinh hoạt hàng ngày theo thời khóa
Vừa điều thân, vừa tinh tiến lợi sinh
Ngài giản dị, đơn sơ, gần gũi quá
Sống sẻ chia, bồi đắp biết bao tình.
Đông rét mướt, Ngài cho mì, cho áo
Gặp bệnh nhân, Ngài cho thuốc cho thang
Cơn đói khổ, Tịnh Xá san sớt gạo
Ngài chở che bao nhiêu cảnh lầm than.
Giác huyễn trần, Ngài dang tay tế độ
Ngộ chơn như, Thầy ứng xử từ nghiêm
Như Bồ Tát, Ngài hiện thân cứu khổ
Giữa sông mê, lèo lái một từ thuyền.
Gương cao cả, diễn bày sao cho xứng?
Như năm qua tại Bình Định giới đàn (2017)
Bệnh trở nặng, Ngài vẫn làm Tôn Chứng
Góp phần mình cho đàn giới nghiêm trang.
Tâm vô cùng nhưng lực Ngài đã kiệt
Đầu tháng Giêng năm Mậu Tuất thâu thần (2018)
Người thể nhập vào vô biên Tịch Diệt
Xả huyễn thân, Ngài chứng đắc Pháp Thân.
Sáu Chín (69) năm nơi Ta Bà hóa hiện
Ngài đã mang bao phước lợi trần gian
Hình ảnh Ngài vẫn còn đây bất biến
Người dấn thân cho Chánh Đạo huy hoàng.
Mỗi lời nói là khuôn vàng thước ngọc
Ánh mắt nhìn đều ban rải tâm từ
Thân giáo Ngài chứa bao nhiêu bài học
Cho hậu lai hằng quy ngưỡng Tôn Sư.
Đàn con dại còn chờ Ngài giáo hóa
Phật sự kia còn dang dở công trình
Ngài đã quyết xả ra đi sớm quá!
Vậy từ nay khép lại kiếp nhân sinh.
Dòng nước chảy còn chờ ai soi bóng
Nơi Ngọc Duyên nay vắng tắt nụ cười
Bao đệ tử đang ngậm ngùi ngưỡng vọng
Hoa lá kia xào xạc gọi tên Người.
Hình ảnh Người vẫn còn in sâu đậm
Cuộc đời Ngài là tuyệt tác công trình
Nguyện Giác Linh đăng Tây Phương chín phẩm
Rồi trở về hóa độ hết chúng sinh
Nam mô Giác Linh cố Hòa Thượng Trụ Trì Ngọc Duyên Tịnh Xá, Tri Sự Trưởng Giáo Đoàn III Khất Sỹ, thượng Giác hạ Tần thùy từ chứng giám.
Ngày mồng 6 tháng Giêng, Mậu Tuất
Khể thủ
Hậu học: Thích Đồng Trí
**********************************************
1. Thân thế
Cố Hoà thượng Thích Giác Tần, thế danh Trần Văn Dần, sinh mùng 3 tháng 5 năm Canh Dần (1950), tại thôn Xuân Hoà, xã Hoà Kiến, ngoại ô thành phố Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên. Ngài là con trai thứ ba trong gia đình hai trai, hai gái. Thân phụ của Ngài là cụ ông Trần Quyễn, và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Dĩ.
Xuất thân trong gia đình đạo đức hiền lành nên từ nhỏ Ngài hiếu thảo, ngoan ngoãn, lễ phép, đặc biệt là lòng từ ái thương người mến vật vốn có sẵn nơi Ngài tự bao giờ. Năm lên năm tuổi, cha mất sớm, thân mẫu vất vả một nắng hai sương nuôi dạy anh em Ngài khôn lớn. Năm lên bảy tuổi, mẹ đưa Ngài đến trường học chữ. Ngài siêng năng học tập và học hết chương trình Tiểu học thời bấy giờ, song vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, Ngài thôi học, ở nhà phụ giúp gia đình.
Do nhân lành tu tập nhiều đời, năm 1965, Mẹ và em gái út (cô Trần Thị Dậu, nay là Ni sư Hiếu Liên) phát tâm xuất gia với Ni trưởng Tỉnh Liên tại Tịnh xá Ngọc Yên, trực thuộc Ni giới Hệ phái Khất sĩ do Ni trưởng Bạch Liên (Sư bà Nhị) lãnh đạo. Khi ấy người anh cả của Ngài là Trần Thìn, pháp danh Thiện Đền đã lập gia thất, kế thừa tông tộc họ Trần; người chị kế là Liệt sĩ Trần Thị Thọ đã hy sinh vì nghĩa lớn, Ngài một mình ở lại nhà.
Những ngày tháng ấy, tuy còn ở tuổi vị thành niên và nhân duyên xuất trần chưa đến, Hoà thượng vẫn lập hạnh tu tập tinh tấn. Ngài tập ăn chay trường, tụng kinh niệm Phật, tập sống hạnh quên mình, hàng ngày làm việc chăm chỉ, giúp đỡ bố thí cho bà con trong hoàn cảnh khó khăn. Trong tập nhật ký của Ngài để lại, cho thấy, túc duyên Phật pháp nơi Ngài thật sâu dày, Ngài viết:
Ngày ngày quen với muối dưa,
Mà lòng càng mến, càng ưa nâu sồng.
Quyết tâm lìa bỏ cõi hồng,
Nên trong cuộc sống không còn sắc thinh…
Ngài thường tụng Kinh Phổ Môn và đảnh lễ Bồ-tát Quán Thế Âm, có nhiều đêm trong giấc mơ, điềm lành xuất hiện; cũng có khi Ngài được chiêm ngưỡng dung nghi hiền hoà của Mẹ hiền Quán Âm, hoặc được nhắc nhở con đường xuất gia tu hành.
2. Phát tâm xuất gia, thọ giới
Thế rồi, nhân duyên với Tam Bảo nơi Ngài cũng đến lúc chín muồi:
Từ ngày thiên mộng báo điềm,
Lòng này đã quyết, đảo điên mặc đời.
Chắp hai tay lạy Phật Trời,
Cho con phát nguyện sống đời ly gia.
Ngày 29 tháng 3 năm 1968, tại Tịnh xá Ngọc Tòng, Lương Sơn, Nha Trang, Khánh Hoà, Ngài được Đức Thầy Giác An xuống tóc chính thức bước vào nhà đạo, có pháp danh Huệ Học.
tịnh xá ngọc duyên
phổ chiếu chơn như
ghpgvn tỉnh bình định
ht thích giác tần
hệ phái khất sĩ
TIN LIÊN QUAN