;
Tiết lộ của Đại đức Thích Tâm Mẫn về nhân duyên xuất gia
Hòa Thượng Thích Giác Toàn và chuyện đời tu
HT Thích Bảo Nghiêm - 40 năm dấn thân vì sự nghiệp hoằng dương chánh pháp
Ông trưởng đoàn có ý muốn thay đổi chiều hướng chuyến đi về miệt núi ngàn sau những chuyến đi dài nơi các vùng được gọi là khu du lịch “hot” nhất. Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy ông ta mặc một bộ quần áo màu nâu và mang theo một cây gậy đầu rồng trên đó có chạm khắc hình một người nữ ngồi xếp bằng trong tư thế rất tự tại. Nghĩ mà thấy lạ, vốn dĩ những chuyến đi trước ông ấy ăn mặc rất bảnh bao, dày dép rất lịch sự. Nhưng chuyến đi này tôi thấy vô cùng đặc biệt, cảm giác có gì đó lạ lẫm vô cùng. Khi lên xe, tôi nghe các cô đi cùng nói chuyến này sẽ có thêm lịch trình đi chùa. Lúc ấy, trong lòng mình có ý muốn phản đối nhưng dường như cũng có một mãnh lực vô hình nào đó ngăn cản và tôi cứ lẳng lặng theo mà không nói một lời nào.
Chuyến xe dừng bánh, nơi ấy chính là huyện Tân Thành (Bà Rịa – Vũng Tàu). Trên con đường dẫn vào núi Dinh, xe đậu kín hết, chúng tôi đành phải đi bộ. Tôi cũng không hiểu vì sao mà người lại đông như thế. Tôi hỏi các cô đi chung và được các cô cho biết rằng ngày mai là ngày vía đức Bồ-tát Quan Âm nên người ta mới về dự lễ tại chùa Bồng Lai này đông như vậy. Vì trong tôi không có bất cứ khái niệm gì về ngày vía và cứ im lặng như một đứa trẻ ngây ngô không hiểu được việc của người lớn. Rồi chúng tôi đi tìm khách sạn để nghỉ cho cuộc leo núi ngày mai, đó cũng là mục đích chính của tôi trong chuyến đi núi lần này.
Khi chỗ ở đã ổn định, đúng 4 giờ chiều các cô rủ tôi vào chùa Bồng Lai thăm viếng. Lúc này các cô đã thay đổi bộ trang phục màu lam giống như nhau và cầm theo một chiếc áo dài cũng cùng màu như thế. Phía trước của ngôi chùa là bức tượng người nữ đứng trên con thuyền (lúc ấy tôi cũng chưa biết đó là tượng của ai). Vào bên trong, tôi thấy người đông quá không có chỗ chen chân. Các cô vào lạy và bỏ ít tiền vào thùng công đức. Tôi đứng lặng người mà không hề lạy như mọi người. Ôi chao! Bao năm dài tôi có hiểu tín ngưỡng là gì đâu, thậm chí tôi còn cho rằng đó chính là mê tín dị đoan, người ta đi chùa là vì mục đích cầu nguyện làm ăn phát tài phát lộc. Từng tư duy ấy đã ăn sâu vào tâm trí tôi từ lúc nhỏ, gần 20 tuổi vẫn không thay đổi. Chợt một ánh mắt nhìn tôi với vẻ thương cảm, đó là ánh mắt của một vị sư trẻ đang cầm dùi chuông đánh cho các cô lễ lạy, người mà sau này tôi quen gọi bằng hai tiếng sư Thông. Sư nhìn tôi và có lẽ sư đã biết tôi là người mới bước tới chùa lần đầu tiên, sư nhận ra tôi là người bướng bỉnh trước chư Phật và Bồ-tát. Khi các cô lạy xong, sư bước lại gần và hỏi thăm tôi, sư biết tôi là người xa lạ với Phật pháp. Sư khai thị cho tôi một hồi và chỉ dạy tôi rất nhiều. Và dường như tất cả mọi ý nghĩ cổ hủ xưa kia đã tan biến. Tôi lặng người đi không nói câu nào, tôi đi một vòng tản bộ ra nơi chân núi, chân tôi bước đi thật thảnh thơi nhẹ gót. Sau một hồi đi dạo, quay vào chùa, tôi đứng nhìn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm bằng tất cả lòng thành kính. Gương mặt ngài thật hiền từ, tôi càng nhìn càng thấy ấm áp. Tôi nhận ra mình đã có những tư tưởng sai lầm, 19 tuổi đời tôi mới biết trên đời này có một tín ngưỡng đem đến an vui mà mình lại cho là mê tín. Có lẽ trước đây tôi chưa đủ nhân duyên tốt để ngộ đạo. Tôi sụp đầu cúi lạy mẹ Quán Thế Âm một cách thành khẩn dưới bao ánh mắt của dòng người nô nức hướng về Ngài.
Tôi như đứa con lưu lạc từ phương xa hôm nay trở về bên Mẹ, quỳ dưới chân Mẹ trong niềm thương kính vô hạn. Ánh mắt thương cảm của Sư lúc chiều bây giờ được thay thế bằng ánh mắt hoan hỷ cộng thêm một nụ cười tinh khôi. Sư vui mừng vì tôi đã “trở về” mà không còn tiếp tục đi xa. Chính Sư là người thầy đầu tiên dẫn tôi vào đạo, sư đã đưa tôi đến chân trời của chính mình. Tôi quay sang nhìn Sư mỉm cười và sư đã hiểu rõ tôi.
Đêm 18 tháng 6 là đêm chuẩn bị cho buổi giao thời rước vía Đức Bồ-tát Quán Thế Âm, tôi vui mừng hớn hở có mặt trước tất cả mọi người ở nơi tôn tượng của ngài. Các cô đi cùng đều ngạc nhiên bảo: “Thằng nhỏ này kỳ vậy kìa!” Khi chuyến xe lăn bánh về lại thành phố, tôi dường như hoàn toàn thay đổi. Tôi cảm thấy nhẹ nhàng khôn xiết và bắt đầu dừng lại mọi cuộc chơi cùng chúng bạn. Tôi ăn chay trong sự phản đối kịch liệt của gia đình. Rồi một ngày (sau 90 ngày kể từ ngày ấy), tôi xin mẹ đi xuất gia. Tuy mẹ không đồng ý thế nhưng tôi vẫn nhất quyết đi. Mẹ tôi khóc hết nước mắt vì nghĩ tôi chán bỏ cuộc đời. Các anh chị thì ra sức ngăn cản thậm chí dùng lời nặng nề nhưng rốt cuộc vẫn không lay động ý định của tôi...
Và sư đã hướng dẫn để ngày hôm nay tôi được dự vào hàng Chúng trung tôn. Qua bao năm tháng, đến tận ngày nay sư vẫn thường quan tâm nhắc nhở tôi. Tuy xa xôi nhưng sư vẫn không quên gọi điện sách tấn tôi. Vì sư biết con đường tu đạo còn lắm gian nan, không phải một sớm một chiều mà có thể thành tựu được, sư sợ tôi vấp ngã nên phải nhắc nhở tôi. Tuy tuổi đời chênh lệch không bao nhiêu nhưng giữa tôi và sư có nhân duyên thù thắng nên sư vẫn xem tôi như một người học trò, người em hoặc người bạn và đặc biệt là người pháp lữ thân thương.
Dòng chảy của nhân duyên là thế, nếu không có chuyến du lịch làm sao tôi đến được một ngôi chùa? Nếu không đến ngôi chùa ấy làm sao tôi gặp được sư? Nếu không gặp được sư làm sao tôi biết đến Bồ-tát Quán Thế Âm và biết đến Phật pháp? Và cách nào để tôi được dự vào hàng ngũ xuất gia? Tất cả là nhân là duyên trùng trùng không kể xiết mà tôi luôn cho đó là sự mầu nhiệm, là con đường đưa tôi trở về nẻo chánh, dừng lại tất cả pháp bất thiện... Xin cảm ơn nhân duyên thù thắng đã cho tôi kết quả thù thắng. Cảm ơn sư – người mở đường cho cuộc đời tôi bằng tất cả lòng chân thành.
Cứ mỗi buổi chiều của ba ngày vía Bồ-tát trong năm tôi lại hồi tưởng lại bao ký ức của nhân duyên thù thắng ấy. Tôi đứng trước tôn tựng của Bồ-tát Quán Thế Âm để đảnh lễ ngài, đảnh lễ trong niềm tôn kính vô biên. Con nguyện sẽ ở mãi trong ngôi nhà của Phật pháp. Xin mẹ hãy trợ duyên cho con!
Thích An Quang