nguoiphattu.com Trong muôn vàn pháp tu của phật giáo, Tịnh độ là pháp môn có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh cũng như hòa mình vào mọi ngỏ nghách của cuộc sống nhằm mang lại lợi ích thiết thực nhất. Hơn nữa, pháp môn này rất dễ thực hành, nên nó vô cùng phù hợp với mọi tầng lớp trong xã hội và được giới phật giáo trên thế giới tiếp nhận một cách nồng nhiệt, có hiệu quả.
Lời giới thiệu
Có thể nói Tịnh độ là một pháp môn rất phổ biến và thích ứng với mọi tầng lớp từ bình dân cho đến tri thức trong xã hội dù trãi qua bất cứ thời đại nào. Tính ưu việt của pháp môn này chính là dễ thực hành và nếu nhiệt tâm niệm phật, thì chắc chắn ai cũng có thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Ở chùa tôi, cứ mỗi nữa tháng đều có tổ chức khóa tu niệm Phật dành cho cả tăng lẫn tục, và tôi nhận thấy càng ngày càng có tiến triển thực sự khi áp dụng pháp môn này. Ngay cả lúc đi đứng nằm ngồi trong sinh hoạt thường ngày, tôi cũng luôn tự áp dụng cho mình và khuyên bảo người khác cố gắng niệm Phật vì rất có hiệu nghiệm.
Trong thời mạt pháp, thiết nghỉ chỉ có pháp môn này mới phù hợp với quần sanh nhất, nên Pháp Sư Tịnh Không đã dày công tu tập và biên soạn tác phẩm này để nói lên tâm huyết của mình trong sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh cũng như thực hiện theo bản hoài của chư Phật. Tôi nhận thấy hiện nay, hầu như tất cả các tự viện trong nước như chùa Hoằng Pháp tại Hóc Môn, chùa Vạn Phật Quang Đại Tòng Lâm ở tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu v.v đều ứng dụng phương pháp này vào trong khóa tu thường ngày và rất có hiệu quả. Bở vậy, chúng ta nên tổ chức nhiều hơn những khóa tu niệm Phật cũng như thiết lập thêm nhiều niệm phật đường để khuyên bảo người niệm phật nhiều hơn nữa nhằm đem lại lợi ích vô biên cho quần sanh.
Hiện nay, trong nước có các bậc cao Tăng đã ứng dụng pháp môn này một cách triệt để và rất thành công đặc biệt là Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, một bậc mô phạm với đạo phong trác việt vô song. Trước đây, tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, có cố Hòa Thượng Thích Đồng Huy suốt đời chỉ gắn liền với danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật và đạt được lợi ích không nhỏ. Ngay cả khi sắp thị tịch, Hòa Thượng còn nhắc nhở chúng tôi phải cố gắng niệm Phật để tịnh hóa nhân gian.
Đại đức Thích Minh Chánh đã từng là học trò của tôi và hiện nay đang du học tại Ấn Độ. Tuy còn tre, nhưng thầy rất có tâm huyết trăn trở về việc đổi mới giáo dục phật giáo đương thời cũng như định hướng phát triển trong tương lai. Cách đây nữa tháng, thầy có gọi điện về nhờ tôi viết lời giới thiệu cho dịch phẩm này. Nhận thấy đây là một tác phẩm rất có giá trị phù hợp với mọi tầng lớp cũng như góp phần tích cực truyền bá phật pháp trong xã hội hiện nay, nên tôi tôi đồng ý chấp bút cẩn chí. Vậy, kính mong chư vị từ bình dân đến tri thức đón nhận ngỏ hầu đem lại lợi ích đích thực cho chính mình và tha nhân.
Vạn Hạnh ngày 2/5/2010
H.T THÍCH NGUYÊN TRỰC
Trưởng Ban Tăng Sự kiêm Phó Ban Trị Sự Phật Giáo Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Lời người dịch
Phật giáo, ngày nay, đã trở thành nền tảng căn bản của nhân loại và có mặt khắp trong mọi lãnh vực hoạt động của xã hội. Nhu cầu tất yếu của con người chính là hạnh phúc. Phật giáo đã đáp ứng được nhu cầu ấy của nhân loại dù trãi qua bất cứ thời đại nào và trong bất cứ hoàn cảnh nào nếu con người biết thực tập sống theo giáo lý mà đức Phật giảng thuyết.
Trong muôn vàn pháp tu của phật giáo, Tịnh độ là pháp môn có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh cũng như hòa mình vào mọi ngỏ nghách của cuộc sống nhằm mang lại lợi ích thiết thực nhất. Hơn nữa, pháp môn này rất dễ thực hành, nên nó vô cùng phù hợp với mọi tầng lớp trong xã hội và được giới phật giáo trên thế giới tiếp nhận một cách nồng nhiệt, có hiệu quả.
Tác phẩm này được Pháp Sư Tịnh Không biên soạn rất công phu chu đáo. Tuy không đò sồ như các tác phẩm khác, nhưng nó bao hàm đầy đủ ý nghĩa của pháp môn Tịnh độ cũng như cách thức tu trì biến dụng qua từng trạng thái tâm. Nó hiển bày rõ quá trình tu tập của hành giả một cách chắc chắn và hệ thống hóa cặn kẻ về Tịnh độ cho những ai muốn thực tập cũng như nghiên cứu pháp môn Tịnh độ. Phải nói đây là cẩm nang mà người dịch thiết nghỉ nếu ai muốn tìm hiểu và tu Tịnh độ, cần phải nên có.
Cẩn chí
Minh Chánh
PHẬT GIÁO NHÂN GIAN CỦA PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Chương I
ĐỀ XUẤT PHẬT GIÁO TẠI NHÂN GIAN
1.Nhơn sanh phật giáo.
Xưa nay, phật giáo là mấu chốt rất quan trọng của nhơn sanh (nhân loại), nhưng trong thời cận đại, một số người cho rằng phật giáo dường như chẳng liên hệ gì đến nhơn sanh, ngược lại còn đặt nặng vào hình thức siêu độ người chết và ma quỷ, do đó, thường khiến cho phần đông trong xã hội hiểu lầm và phỉ báng phật giáo. Đại sư Thái Hư đã nhận rõ điều này nên đề xuất chủ trương “nhơn sanh phật giáo”#để đối trị quan điểm “phật giáo của ma quỷ và người chết”, đồng thời kiến lập tư tưởng nhơn sanh của đạo đức một cách hợp lý, tức con người nương vào sự thực hành Bồ-tát hạnh nhằm tiến đến mục đích rốt ráo là phật quả. Đây chính là nhơn sanh phật giáo.
2.Nhơn gian phật giáo#.
Tư tưởng của nhơn sanh phật giáo luôn chấn chỉnh cái mới và bại trừ cái củ, do đó, thường xuyên nhận được sự đồng tình của nhân sĩ tri thức trong giới phật giáo, và đạt đến sự kế thừa, phát triển, hình thành nên tư trào “nhơn gian phật giáo” được toàn thể giới phật giáo cùng đề cử ngày nay.
“Nhơn sanh phật giáo” và “nhơn gian phật giáo”, tuy trên mặt tổng thể có phần rất giống nhau, nhưng phân tích chi ly hơn thì cũng có phần khác biệt. Tuy nhiên, cách đề xuất của nhơn gian phật giáo rất gần gủi với thời đại. “Nhơn gian” nghĩa là “nhân thế gian” , “nhân loại gian” hay là mối quan hệ giữa con người với con người, cũng có nghĩa tương tợ với “nhơn sanh”, nó không chỉ bao hàm quan điểm lấy con người làm đặc chất căn bản mà còn đặc biệt nhấn mạnh tính hài hòa cộng thông giữa con người với con người, cũng tức là nêu rõ sự lợi ích của quần thể, sự tiến bộ và phồn vinh của cộng đồng. Điều này đối với sự phát triển cao tốc mà nói thì giữa con người với con người, giữa quốc gia với dân tộc, giữa quốc gia này và quốc gia khác có sự giao lưu qua lại ngày càng mật thiết không thể tách rời; nhưng căn cứ vào sự phân tranh xung đột luôn khởi lên bốn phía trong xã hội hiện đại mà nói, thì đặc biệt nó có ý nghĩa rất hiện thực.
Nhơn sanh phật giáo hoặc cho rằng chỉ chú trọng đến người sống chứ không quan tâm đến người chết: chỉ quan tâm đến hiện sinh ngắn ngủi tạm thời, mà không thấy rõ tương lai vĩnh cữu. Do đó, tạo nên sự hiểu lầm mang tính bài xích trái với quan điểm căn bản của nhơn sanh phật giáo. Nay, nói về nhơn gian phật giáo chính là đề cập đến sự hàm dung. Nói đến “nhơn thế gian” là nói đến sự liên thông của ly hợp buồn vui, sanh già bệnh chết, khổ vui của tất cả cá nhân; sự hợp tác giao lưu và phân tranh xung đột giữa đoàn thể, dân tộc, khu vực, quốc gia; ỷ lại vào hạnh phúc chung trong sự tiến bộ, đối mặt với vấn đề chung trong quá trình phát triển của toàn thể nhân loại; tất cả vạn tượng giữa nhân thế, giữa nhân loại, giữa con người, giữa cá nhân đều là điều mà Phật giáo nhơn gian quan tâm đến, cũng chính là lập trường chỉ đạo của Phật giáo.
Nhân gian phật giáo là sự đáp ứng như thế nào của Phật giáo trong thời đại phat triển hiện tại, là cụ thể hóa thời đại với mệnh đề “khế lý khế cơ”#xưa nay của Phật giáo.
Nhân gian phật giáo, không những có ý nghĩa chỉ đạo đối với hiện đại, mà còn có ý nghĩa chỉ đạo đối với tương lai. Khi nói đến nhân gian chính là chỉ cho khái niệm của toàn thể thời gian biến động chứ không phải hạn cuộc ở bất cứ một thời đại nào, chỉ cần nhân loại còn tồn tại trên trái đất này thì đều gọi là nhân gian: nhân gian phật giáo tất nhiên cũng có nhu cầu tiến triển đồng bộ cùng với thời đại.
Chương II
HÀM NGHĨA CỦA NHÂN GIAN PHẬT GIÁO
1.Giải thích danh từ
Nhân gian phật giáo, nếu căn cứ theo chữ nghĩa mà nói, thì kết hợp hai đặc tính “nhân gian” và “phật giáo”. Đặc tính của nhân gian là lấy con người làm gốc, chứ không tách rời nhân gian: sinh tồn trong nhân gian, phát triển ở nhân gian, phục vụ nhân gian, hóa độ nhân gian, đem lại lợi ích cho nhân gian chứ hoàn toàn không phải thuyết hư ngụy của “thần dị quỷ quái”#. Đặc tính của phật giáo, tuy nói tồn tại trong nhân gian, nhưng hoàn toàn không ngừng lại ở nhân gian mà còn lấy sự giải thoát thành phật của phật giáo làm mục đích tối hậu. Điều này cũng có nghĩa tuy tồn tại trong nhân gian, nhưng vẫn duy trì bản chất đặc thù của phật giáo: hoàn toàn không đánh mất bản chất của phật giáo xuất thế giải thoát để trở thành học thuyết thế gian của thuận thế mị tục#
Hơn nữa, nhân gian phật giáo là chỉ cho phật giáo mà nhân loại có thể thực hành, mọi người có thể làm được, mọi người có thể đạt ngộ giải thoát, cũng là phật giáo mà mọi người có thể tu hành thành phật. Nếu phật giáo mà chỉ có Đại Bồ-tát có thể làm được, thì chỉ gọi là phật giáo của Bồ-tát; phật giáo chỉ có Đại A-la-hán mới thực hiện được, thì chỉ gọi là phật giáo của A-la-hán. Như hạnh nguyện suốt một ngàn hai trăm năm đốt thân để cúng dường Phật của Bồ-tát Dược Vương trong kinh Pháp Hoa, hoặc hành động “căn nhà mười mét dung chứa cả thái hư, tâm tịnh cõi nước tịnh” của cư sĩ Duy Ma Cật trong kinh Duy Ma. Những hình ảnh này đều là phật giáo, nhưng đây chỉ là phật giáo của chúng sanh trong nhân gian vọng hướng, chứ chẳng phải phật giáo mà mọi người trong nhân gian có thể thực hành, nên không thể gọi đó là nhân gian phật giáo. Phật giáo không chỉ là nhân gian, nhưng nay nói nhân gian phật giáo tức là đứng trên lập trường của nhân gian, dựa vào quan điểm của nhân gian để hình thành nên sự nghiên cứu thực tiễn rất sát cánh, gần gủi và thiết thực đối với phật giáo.
2.Quan hệ biện chứng.
Nhân gian là nhập thế#, phật giáo là xuất thế#, vậy, nhân gian phật giáo tức là biện chứng thống nhất của xuất thế và nhập thế. Lấy tinh thần xuất thế để tạo ra sự nghiệp nhập thế: không hề loại bỏ sự nghiệp của thế gian, nhưng đạt thành giải thoát xuất thế.
Nhân gian là đối tượng (khế cơ) giáo hóa, phật giáo là chủ thể (khế lý) giáo hóa, vậy, nhân gian phật giáo tức là biện chứng thống nhất của chủ thể và đối tượng (khế lý và khế cơ). Tuy hợp với chân lý của phật giáo, nhưng không phù hợp với căn cơ của nhân gian; hoặc tuy thuận với phàm tình của con người, nhưng không phù hợp với chân lý của phật giáo, thì chẳng phải là nhân gian phật giáo.
Nhân gian là phàm tục, phật giáo là thần thánh, vậy, nhân gian phật giáo tức là biện chứng thống nhất của phàm và thánh.
Nhân gian là hình thức, phật giáo là nội dung, vậy, nhân gian phật giáo là biện chứng thống nhất của hình thức và nội dung.
Nhân gian là điểm xuất phát, phật giáo là mục đích đến, vậy, nhân gian phật giáo là biện chứng thống nhất của điểm xuất phát và mục đích đến.
3.Dùng ví dụ để nói rõ.
Ví như làm từ thiện để cứu tế, hoàn toàn không nghi ngờ nhân gian. Có người cho rằng đoàn thể phật giáo, tự viện (chùa chiền) phật giáo, cá nhân phật giáo lấy sự nghiệp từ thiện cứu tế xã hội để tiến hành nhân gian phật giáo. Điều này không nhất định như thế. Chỉ có dùng tâm Bồ-đề rộng lớn thực hiện các việc thiện ở đời rồi hồi hướng về quả vị Bô-đề Vô Thượng (quả vị Phật) để cầu mong dần dần tăng tiến, sau cùng viên thành quả Phật; hoặc dùng tâm tâm nguyện vãng sanh, hồi hướng về Tịnh Độ (cõi nước thanh tịnh của Phật Di Đà) để cầu vãng sanh vào cõi Phật nhanh chóng đạt được quả vị Bất Thối (quả vị không thối chuyển), đây mới có thể nói là tiến hành nhân gian phật giáo. Ngược lại, nếu không có đủ tâm Bồ-đề, tâm nguyện vãng sanh, mà chỉ hoàn toàn xuất phát từ tâm đồng tình, tâm thân hữu, thì dù trở thành tăng sĩ xuất gia bố thí ngàn vạn ức châu báu, tạo dựng sự nghiệp từ thiện rộng lớn, cũng hoàn toàn chỉ là làm việc thiện bình thường ở đời chứ không liên quan gì đến phật giáo giải thoát, và không thể nói đó là thực hiện nhân gian phật giáo. Kinh Hoa Nghiêm nói: “nếu đánh mất tâm Bô-đề mà tu dưỡng các pháp thiện, thỉ đó là công việc của ma quỷ”.
Chương III
ĐẶC CHẤT NHÂN GIAN PHẬT GIÁO CỦA PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
1.Đặc chất phật giáo của pháp môn tịnh độ.
Pháp môn “tịnh độ” được trình bày trong quyển sách này đặc biệt chỉ cho pháp môn tịnh độ của đức Phật A Di Đà, cũng chính là pháp môn nương tựa vào nguyện lực của Phật A Di Đà để được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc ở phương Tây.
Nói đến đặc chất của phật giáo tức là nói đến bản chất đặc hữu của phật giáo. Nếu có đủ đặc chất này tức là phật giáo. Ngược lại, nếu không có đủ đặc chất này thì không phải phật giáo. Căn cứ vào quan điểm thiển cận mà nói, thì đó là xuất thế giải thoát; còn đứng trên lập trường rốt ráo mà nhìn nhận, thì đó là viên mãn thành Phật.
Pháp môn tịnh độ lấy sự vãng sanh về cõi nước của Phật A Di Đà làm mục đích. Một khi được vãng sanh, thì nghiệp ràng buộc trong ba cõi đều vĩnh viễn đoạn trừ và quả Phật Vô Thượng tự nhiên thành tựu viên mãn. Do vậy, đặc chất của phất giáo ấy không dễ gì bàn luận. Không chỉ như thế, mà trong “tất cả các pháp môn Phật thuyết”, hay trong các pháp môn của tám tông phái đại thừa ở Trung Quốc, khi luận bàn về đặc chất của phật giáo, thì chỉ có pháp môn tịnh độ đã biểu hiện một cách rất rõ ràng và bảo tồn đặc chất ấy một cách rất hoàn bị không thể miễn cưỡng hiểu lầm. Cách nói này hoàn toàn không quá đáng. Các pháp môn khác như “tự tánh thanh tịnh, xưa nay là Phật” của Thiền tông; hay “tâm Phật chúng sanh, cả ba không sai biệt” của kinh Hoa Nghiêm; hoặc “tâm tịnh cõi nước tịnh” của kinh Duy Ma Cật v.v thường xuyên bị người có tri thức nông cạn hiểu lầm rằng: không cần dụng công tu hành, không cần mong giải thoát, không cần cầu thành Phật, không cần cầu vãng sanh, đây thực sự là sai lầm rất lớn, hoàn toàn không phải ngữ khí của phật giáo.
2.Đặc chất nhân gian của pháp môn tịnh độ.
Ở đây, chúng ta lược phân ra ba khía cạnh để nói rõ: đặc chất thuộc nhu cầu của nhân gian, đặc chất mà nhân gian có thể thực hiện, đặc chất đem lại lợi ích viên mãn cho nhân gian.
a. Pháp môn tịnh độ là nhu cầu tất yếu của nhân gian
Nói đến nhu cầu của nhân gian tức nói đến bất cứ ai trong nhân loại đều có nhu cầu, chỉ cần bất cứ thời đại nào nhân loại còn tồn tại thì đều có nhu cầu.
Một đời người thấp thoáng qua mau: mỗi ngày trôi qua, bận rộn đủ thứ với hàng ngàn suy nghỉ và hàng vạn công việc. Vậy, ý nguyện căn bản người ấy là gì? Nhu cầu của người ấy là gì? Người ấy cầu mong gì? Nói một cách rất đơn gian là bỏ khổ tìm vui! Đây là bản năng truy tìm của con người, ai cũng như vậy, chứ không ai không đi tìm hạnh phúc khoái lạc, không ai muốn chuốc lấy bất hạnh thống khổ.
Pháp môn tịnh độ hướng dẫn mọi người cầu sanh về cõi nước thanh tịnh Cực Lạc. Liên quan đến tên gọi Cực Lạc và lý do cầu sanh về thế giới Cực Lạc, kinh Vô Lượng Thọ, một trong ba kinh của tông Tịnh Độ, nói: “không có tam đồ# và danh từ khổ nạn, chỉ có tự nhiên với âm thanh khoái lạc. Cho nên cõi nước ấy được gọi là Cực Lạc”. Lại nói: “hoàn toàn không có trên dưới, mênh mông không bờ bến, nên mỗi người đều nổ lực tinh tấn tự cầu sanh vể thế giới Cực Lạc. Khi được siêu tuyệt, vãng sanh về cõi nước An Lạc, nếu nghỉ về năm đường ác, thì khung cữa của năm đường ác tự nhiên đóng lại”.
Kinh A Di Đà nói: “chúng sanh trong cõi nước ấy hoàn toàn không nhận chịu các khổ não, mà chỉ thọ nhận các điều an vui, cho nên gọi là Cực Lạc”.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “nơi không có ưu não, ta nay vãng sanh. Không giống như cõi Diêm-phù-đề# đầy dẫy những điều xấu ác”.
Hơn nữa, Vãng Sanh Luận Chú nói: “ kinh nói: nếu có người nghe đến cõi nước thanh tịnh An Lạc kia, rồi khắc niệm nguyện sanh, thì cũng được vãng sanh, liền nhập vào chánh định. Đây là tên gọi của cõi nước ấy làm phật sự, thật khó nghĩ bàn!”.
Cực Lạc còn được gọi là An Lạc. Nếu nghe đến tên cõi nước này mà vui vẽ nguyện sanh, thì trong nhất niệm liền được vãng sanh. Do việc thiết lập tên gọi Cực Lạc, cho nên biết được pháp môn tịnh độ có mối liên hệ ân cần gần gủi như thế nào với ý nguyện rất căn bản của tính chất con người. Mối quan hệ này siêu việt cả chủng tộc, siêu việt quốc gia, siêu việt giai cấp, siêu việt tất cả hình thái ý thức, cho đến siêu việt tôn giáo, vì là nhu cầu rất cần thiết của của con người: quá khứ cũng thế, hiện tại cũng thế, tương lai cũng thế.
Nên biết, bản năng của con người vốn rất thích Cực Lạc. Đây là đặc chất thứ nhất về nhân gian của pháp môn tịnh độ.
b.Tịnh độ là pháp môn nhân gian có thể thực hiện.
Nói đến việc nhân gian có thể thực hiện, nếu căn cứ vào đoàn thể mà nói, thì chỉ cần chúng sanh trong nhân gian là có thể thực hiện. Nếu y cứ vào thời đại mà nhìn nhận, thì chỉ cần nhân loại tồn tại là có thể thực hiện. Do vậy, tuy là nhu cầu của nhân gian, nhưng nếu rốt cuộc không phải pháp môn có thể thực hiện tại nhân gian, thì cũng không đầy đủ đặc chất của nhân gian. Ví như giao thông qua lại tự do là nhu cầu của nhân gian. Nếu thần tiên ở trên trời đi lại bằng lực thần thông, thì chẳng phải điều nhân gian có thể thực hiện, cho nên không có đủ đặc chất của nhân gian. Chúng ta ngồi trên phi cơ tức là phương thức giao thông tự do thuộc đặc chất của nhân gian.
Cách thức thực hành của pháp môn tịnh độ có vô lượng, nhưng đại khái phân làm hai loại là cộng pháp và bất cộng pháp.
Cộng pháp: thực hiện tất cả các thiện hạnh thông suốt thế gian và xuất thế gian, chỉ cần hồi hướng cầu sanh về Tịnh độ, thì liền trở thành pháp hành của Tịnh độ. Điều này được trình bày rất rõ ràng qua “tâm chí thành, tâm sâu sắc, tâm nguyện hồi hướng” trong kinh Quán Vô Lượng Thọ; và thực hành “định tán
nhị thiện”# tức thu nhiếp tất cả pháp thiện của thế gian và xuất thế gian khiến trở thành pháp hành của Tịnh độ.
Bất cộng pháp: Là pháp hành đặc biệt của pháp môn Tịnh độ, tức một lòng chuyên niệm danh hiệu: NamMô A Di Đà Phật. Như kinh Vô Lượng Thọ nói: “nhất tâm chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ”. Quán Kinh nói: “chuyên trì danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ”. Kinh A Di Đà nói: “nghe nói đến Phật A Di Đà liền thọ trì danh hiệu của Ngài”.
Tất cả quan điểm trên đây cũng chính là muốn nói chỉ cần có sự tồn tại của nhân gian và thiện pháp xuất thế của phật giáo như “phát tâm Bô-đề, đọc tụng đại thừa” v.v thì tịnh độ là pháp môn có thể thực hành, nhân vì hồi hướng thiện pháp xuất thế này tức là pháp hành của Tịnh độ. Nhẫn đến tuy trong nhân gian đã không còn tồn tại thiện pháp xuất thế của phật giáo, nhưng chỉ cần có sự tồn tại thiện pháp của thế gian như “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng” v.v, thì Tịnh độ vẫn là pháp môn có thể thực hiện, vì hồi hướng thiện pháp của thế gian chính là pháp hành của Tịnh độ. Thậm chí ngay cả khi hai loại thiện pháp của thế gian và phật pháp không còn tồn tại để mọi người thực hiện trên cõi đời này nữa, thì pháp môn Tịnh độ vẫn được thực hành, vì bất cứ thời gian nào, bất cứ địa điểm nào, bất cứ nhân duyên hoàn cảnh nào, bất cứ người nào cũng có thể thực hiện niệm một câu danh hiệu: A Di Đà Phật. Trong Quán Kinh nói: “người chuyên tạo tác năm tội ngỗ nghịch# và mười trọng tội#, đến khi sắp chết tướng địa ngục hiện ra, đối với tất cả thiện pháp của thế gian và xuất thế gian người ấy đều không thể thực hiện, nhưng nếu chỉ xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật từ một tiếng cho đến mười tiếng, thì người ấy trang nghiêm được vãng sanh Cực Lạc”. Trong Kinh Vô Lượng Thọ nói: “một vạn năm sau, đến thời của Bồ-tát Pháp Tạng, nhân dân trong nước đều chuyên làm ác, không làm thiện, tất cả thiện pháp của thế gian và xuất thế gian đều không còn tồn tại, nhưng nếu có người chỉ xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, thì tùy ý nguyện đều được vãng sanh”.
Tìm hiểu kỉ nguyên nhân ấy, chúng ta thấy đều bắt nguồn từ giáo chủ A Di Đà Phật, vì đến thời của Pháp Tạng đã thấu đạt tính chất của các pháp và chúng sanh “bỏ khó lấy dễ, bỏ thấp hèn lấy thù thắng” nên kiến lập thệ nguyện: lấy sáu chữ hồng danh (Nam Mô A Di Đà Phật) để tổng nhiếp vạn đức khiến phàm ngu trong đời xấu ác nếu có xưng niệm thì đều được vãng sanh.
Phật giáo có vô lượng pháp môn tu, nhưng chưa có pháp môn nào phổ biến, tồn tại vĩnh cửu trong nhân gian, giáo hóa nhân gian, đem lại lợi ích cho nhân gian như pháp môn Tịnh độ! Nếu có pháp môn khác chỉ có bậc thánh trí thực hiện, còn phàm ngu không thể thực hiện; xưa kia có thể thực hiện, thời nay không thể thực hiện, thì tính chất nhân gian của pháp môn ấy còn bị hạn chế. Tính nhân gian của pháp môn Tịnh độ thật vô hạn. Thệ nguyện của Phât Di Đà là để hướng dẫn tiếp độ kẻ phàm ngu. Đây chính là đặc chất thứ hai thuộc tính nhân gian của pháp môn Tịnh độ.
c.Pháp môn Tịnh độ đem lại lợi ích rốt ráo viên mãn cho nhân gian.
Do nhân loại bị khiếm khuyết về tự thân nên không thể bảo đảm hành động và nhu cầu cần thiết của họ một cách hợp lý và có lợi ích, ngược lại, họ chất chứa đầy dẫy những nhân tố có hại và phi lý. Nếu căn cứ vào ý nguyện “chán khổ tìm vui” vốn có của con người mà nói, thì văn minh của nhân loại càng tiến bộ chừng nào, những tội ác hắc ám cũng tiến theo chừng ấy. Điều này xảy ra là vì nhân loại không có nhận thức chính xác và thiếu phương pháp nhận biết hữu hiệu về niềm vui thế nào, nỗi khổ ra sao, hay lìa khổ được vui thế nào. Hoặc vì sự an vui của mình, của gia đình, của đất nước mình mà gây tổn hại đến sự an vui của người khác, của gia đình khác và quốc gia khác; hoặc vì sự an vui ngắn ngủi tạm thời trước mắt mà gây tổn hại đến sự an vui lâu dài ở tương lai. Quan sát rõ tất cả hiện tượng không bình đẳng, sự thực phạm tội và nguy cơ xung đột tồn tại hiện thực trong nhân gian nên chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo đã có nhiều nổ lực tất yếu để hướng dẫn nhận thức của chúng ta đi theo con đường đúng đắn và khiến hành vi của chúng ta trở thành mẫu mực. Pháp môn Tịnh độ của phật giáo chính là sớm mở ra một đường lối chân chính hết sức rõ ràng và cung cấp phương pháp căn bản nhất để nhân gian có thể thực hiện một cách dễ dàng.
Kinh Di Đà nói: “đức Phật kia có vô lượng ánh sáng (hào quang) chiếu khắp cả mười phương cõi nước không hề có chướng ngại cản trở, cho nên Ngài có danh hiệu là A Di Đà Phật. Tuổi thọ của đức Phật ấy và nhân dân trong nước của Ngài là vô lượng vô biên kiếp không thể tính toán, cho nên Ngài được gọi là A Di Đà Phật. Chúng sanh nghe như vậy, nên phát nguyện vãng sanh về cõi nước của Ngài. Nếu người nghe nói đến danh hiệu A Di Đà Phật liền thọ trì…., thì liền được vãng sanh về cảnh giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà”. Cảnh giới Cực Lạc rốt ráo triệt để và phương pháp để đạt được cảnh giới An Lạc này chính là sớm tối trong miệng chỉ chuyên cần xưng niệm một câu danh hiệu A Di Đà Phật thuộc pháp môn Tịnh độ.
Tất cả những bất hạnh thống khổ của nhân loại đều bắt nguồn từ vô minh sanh tử, và biểu hiện ra ngay trong lưu chuyển vô thường; hạnh phúc khoái lạc tột đỉnh của nhân loại tức là phá trừ vô minh—Vô Lượng Quang, vĩnh viễn siêu thoát sanh tử--Vô Lượng Thọ. Tuy nhiên, con đường dẫn đến đạt được cảnh giới này chính là quy mạng đức Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ), miệng thường xưng danh hiệu đức Phật ấy.
Pháp môn Tịnh độ không chỉ là nhu cầu tất yếu của nhân gian và nhân gian có thể thực hành, mà còn bảo đảm nhu cầu và hành vi này phù hợp với chân lý, đem lại lợi ích viên mãn thiết thực cho mình và người, quốc gia và dân tộc trong hiện tại và tương lai, trong đời này và vĩnh kiếp về sau một cách rốt ráo. Do vậy, hoàn toàn không có sự xung đột lợi ích giữa mình và người, giữa hiện tại và tương lai.
Nay căn cứ vào ba phương diện: tự thân, người khác và quốc gia thế giới để nói sự lợi ích cho nhân gian của pháp môn Tịnh độ.
1. Pháp môn Tịnh độ đối với lợi ích của tự thân.
Nếu nói rộng ra, thì có vô lượng thứ lợi ích, nhưng nay chỉ gói gọn trong hai lãnh vực để trình bày, đó là: lợi ích trong hiện tại và lợi ích trong tương lai.
Lợi ích trong hiện tại bao gồm có mười một thứ: (1) Di Đà trụ đảnh#. (2) Phật quang hộ thân#. (3) Chư phật hộ niệm. (4) Bồ tất tương tùy#. (5) Minh chúng hộ trì#. (6) Tịnh trừ tội chướng. (7) Tăng trưởng phước tuệ. (8) Lìa các khổ nạn. (9) Tuổi thọ kéo dài. (10) Đầy đủ thiện nghiệp. (11). Nhập vào chánh định.
Lợi ích trong tương lai gồm có bốn thứ: (1) Doạn trừ luân hồi. (2) Vãng sanh Tịnh Độ. (3) Thành tựu Phật quả/ (4) Rộng độ chúng sanh.
Trên đây là nói về mười lăm thứ lợi ích trong hiện tại và tương lai đối với tự thân khi thực hành pháp môn Tịnh độ. Nên biết, lời nói chân thực của Phật tổ không bao giờ hư vọng: xưa nay đều đúng đắn và được thể nghiệm chứng minh một cách rõ ràng. Có người buông lời cho rằng pháp môn niệm phật của Tịnh độ không đem lại ích lợi trong hiện đời, điều này thật sự là vô cùng hiểu lầm.
2.Pháp môn Tịnh độ đối với lợi ích của người khác.
Khi bản thân mình đạt được lợi ích, nếu chí thành niệm Phật hồi hướng cho người khác, thì người khác cũng đạt được lợi ích. Lợi ích này thật vô lượng, nhưng ở đây chúng ta chỉ nêu ra một hai ví dụ để minh chứng. Như cha mẹ niệm Phật, thì con cái được miễn trừ khổ nạn; con cháu niệm Phật, thì tổ tiên được siêu thăng v.v
Hơn nữa, chỉ cần được vãng sanh thì có thể thành Phật, và thành Phật tức là rộng độ chúng sanh. Như vậy, tự lợi và lợi tha rốt ráo viên mãn.
3.Pháp môn Tịnh độ đối với sự lợi ích của gia đình, quốc gia, thế giới.
Nếu nói rộng về sự lợi ích này, thì có vô lượng. Tuy nhiên, nay chỉ nêu ra nhừng điều thiết yếu của lợi ích đó. Từ phạm vi nhỏ như sự phân tranh xung đột của gia đình, của đoàn thể cho đến phạm vi rộng lớn như sự phân tranh xung đột của xã hội, của quốc gia và tất cả sự phân tranh xung đột của thế gian đều bắt nguồn từ sự tranh dành lợi ích lẫn nhau, cũng bắt nguồn từ quan điểm nhân ngã# hạn cuộc trong địa cầu nhỏ bé này, và tư tưởng chỉ giới hạn trong một đời ngắn ngủi, nghĩa là “ánh lửa léo trong đá, liền phân tranh ngắn dài; sừng trên dầu ốc sên, nhất quyết tranh trống mái”#. Nếu có thể thực hành niệm phật theo pháp môn Tịnh độ, luyến mộ cõi nước huỳnh kim (Cực Lạc) cách đây mười vạn ức cõi, nguyện vô lượng kiếp thân tâm thường tự tại, thì năm dục như tài sắc v.v của thế gian chỉ sợ không kịp tránh xa, và các vấn đề rất nghiêm trọng như vũ khí hạt nhân, chiến tranh khu vực, nguy cơ nguyên tử, hoàn cảnh ô nhi