;
Người niệm Phật chủ yếu dễ phát sinh sai lệch, thì cần ngăn chặn.
Tinh thần phân tán: Lúc niệm Phật tư tưởng không tập trung, đưa tinh
thần lên không được. Tâm tình rơi rớt, ý chí thì chìm mất, không tinh
ròng khơi dậy, tạp niệm thì vô cùng, chẳng hôn trầm cũng trạo cử, đây là
vấn đề tối kỵ. Còn vấn đề kiêng kỵ là câu chữ mơ hồ.
Câu chữ mơ hồ: Một câu hiệu Phật nầy, thanh âm phát ra thì lờ lờ mờ mờ,
người khác nghe không rõ ngay cả chính mình nghe cũng không rõ. Cho nên
có câu rằng: “Mình còn chưa nghe thì Phật làm sao nghe”.
Ðã không âm tiết: Âm tiết điều hòa thích ứng thì niệm Phật dễ nhiếp tâm,
phương pháp hữu ích thì lực mới to lớn; Ngược lại, sáu chữ trong một
câu Phật hiệu, bất kể nhịp gõ chữ nào, lúc thì một nhịp, nửa nhịp, một
phần tư nhịp, một phần tám nhịp, thế thì làm cho mỗi câu hiệu Phật bị
biến đổi, niệm loạn thành một mảng, còn bàn luận nhiếp tâm thế nào.
Không những thời gian từng chữ sắp đặt được tốt, mà sự cao thấp nhẹ nặng
của thanh âm cũng phải hợp với tiết tấu. Bỡi vì niệm Phật có tiết tấu
thì giống nước chảy róc rách, tự nhiên hợp vận, niệm Phật dễ dàng rõ
ràng. Không âm tiết đã chẳng tốt, cọng thêm lại chẳng liên quan thì càng
sai.
Lại chẳng liền lạc: Là câu sau không tiếp câu trước. “Tịnh niệm tương
tục” rất là trọng yếu của sự niệm Phật, mà nếu không liên quan làm sao
kế tục với nhau.
Tâm chẳng ứng với niệm Phật: Là trong miệng thì niệm Nam Mô A Di Ðà
Phật, mà ở trong tâm tính toán riêng một việc ở bên ngoài như: mua chiếc
xe mới, hoặc muốn đến chỗ nào, vì tính toán những việc đó thì tâm và
miệng làm sao có thể ứng với nhau. Ðến nỗi ngoài ra có một tình huống
là: ngay lúc niệm Phật, tạp niệm lăng xăng không biết tạp niệm nhiều thế
nầy từ đâu đến, đây khởi kia mất, không cách nào trừ bỏ. Tuy vậy chẳng
nên buồn lo, vì đây là hiện tượng tất nhiên trong quá trình niệm Phật,
chẳng nên quan tâm nó (mặc cho vọng niệm lăng xăng, hãy nghe chính mình
và niệm Phật rõ ràng), đây là yếu quyết. Then chốt vẫn là khởi lên một
câu hiệu Phật nầy.
Tiếng không nhiếp niệm: Tiếng – chỉ cho lúc niệm Phật, tiếng niệm Phật
trong miệng phát ra, âm thinh nầy có tác dụng rất lớn, then chốt của
pháp môn tịnh độ, cũng có thể nói là “Mật quyết”, tức ở nơi tự niệm tự
nghe. Cái được niệm là Nam Mô A Di Ðà Phật, cái được nghe cũng là: Nam
Mô A Di Ðà Phật. Cho nên đều nhiếp sáu căn, trước tiên thì thiệt căn
(lưỡi) và nhĩ căn (tai) đều nhiếp. Lúc nầy niệm là danh hiệu Phật, mà
nghe cũng là danh hiệu Phật, tưởng cũng là danh hiệu Phật, nên ý căn (ý)
cũng được nhiếp, tay giữ chuỗi niệm (thân), (mắt) thì nhìn tượng Phật,
trong tỷ căn (mũi) được nghe là mùi hương đốt cúng Phật, cho nên ba căn
nầy cũng được nhiếp. Nhiếp sáu căn đều là then chốt ở nơi nghe. Thông
thường chúng ta tự tu, dùng cách “Kim cang trì” tốt nhất, tức là có một
tí âm thanh vừa vừa ở giữa miệng môi và chân răng, không phải to lắm.
Cách nầy niệm đã có âm thanh lại vừa dưỡng khí, gọi là Kim cang trì. Mặc
nhiên cũng có thể nghe, song mặc niệm thì mệt một chút. Âm thanh lớn
nhỏ có thể linh hoạt, lúc tán loạn và lúc phiền não khởi có thể niệm
lớn, dùng âm thanh để nhiếp niệm. Nếu niệm được yên tịnh thì có thể niệm
nhỏ, niệm cách Kim cang trì hoặc nhỏ một chút đều có thể được. Cần có
tiếng, cần nghe được tiếng nầy. Âm thanh nầy thì có nhiếp được niệm; đây
là chỗ thù thắng của pháp môn niệm Phật, then chốt là ở nơi “Tự nghe”.
Khinh lờn thành quen: Nếu như lúc niệm tự tâm phiền tạp tán loạn, tiếng
được niệm tất nhiên lộn xộn khó nghe. Tâm không chuyên chú tai cũng mất
linh nghiệm, tác dụng của tiếng niệm tự nhiên không nhiếp niệm một chút
nào cả. Ở tình huống nầy đâu có tác dụng nhiếp đều sáu căn. Ngược lại
cái hay dẫn khởi là kết quả xấu có hại “Khinh lờn thành quen”, đây là
thành ngữ thường dùng ở trong đạo Phật. Niệm một cách khinh thường không
thể chuyển thức thành trí, mà là nuôi lớn cái thói quen (Thức). Chúng
ta niệm Phật tức là chuyển ý thức phân biệt thành “Diệu quán sát trí”.
Nên khiến nó chuyển. Nếu niệm như thế nầy: vừa không âm tiết, tán loạn,
tinh thần lăng xăng, lại vừa không liền suốt, tưởng trong tâm và niệm
trong miệng không giống nhau, âm thanh được niệm cũng nhiếp không được ở
nơi tâm, phép niệm nầy không phải là “chuyển” Thức mà là “nuôi dưỡng”
Thức, Thức được bồi dưỡng ở trong đó, đây chính là “nỗi buồn của cổ
đức”, tức là niệm cách nầy rất đáng tiếc! – Khó được thân người, khó
sinh ở quốc gia trung tâm, khó nghe được Phật pháp, khó tin tịnh độ; Dù
còn chịu niệm, nhưng lại niệm kiểu nầy cho nên Cổ đức rất là buồn tiếc.
Niệm cách nầy thì “vĩnh viễn khó thành từng loạt”, niệm Phật niệm đến
khi nhất tâm bất loạn rất khó, trước nhất phải đạt đến niệm Phật thành
thói quen. Chúng ta nên phải niệm cho được thành thói quen, ít thì mười
mấy câu, nhiều thì ba chục câu, nhiều nữa thì một tràng hai tràng, trong
lúc nầy tâm không được động chạy, từ đầu đến cuối đều là: Nam Mô A Di
Ðà Phật, đây gọi thành tràng, mức độ chính mình là thế nào, chính mình
hoàn toàn có thể biết. Cho nên pháp niệm nầy, kiểu như trên, tức là
“vĩnh viễn chẳng thành loạt”, đây là phép niệm không tốt, thì nên tránh
đi, nên tránh khỏi chỗ dễ sinh sai lệch, mà nên tập trung tinh thần sức
lực mặt hướng về ánh sáng.
Trước mắt chỉ nêu ra sự cấm kỵ của niệm Phật, cần gắng sức trừ bỏ, sau
đây chính là con đường vạch ra nên tuân thủ đối với việc trước mắt:
+ Âm thanh hài hòa vận tiết ổn định: Thanh hòa, chỉ cho tiếng và ý khi
niệm Phật nên hài hòa, hòa mỹ, yên hòa. Bỡi vì âm rất là quan hệ, nếu
niệm quá gắt gao hay khàn giọng thì âm thanh chẳng được hòa. Tiếng của
người đến chỗ mà âm thanh tốt đẹp vi diệu, thanh tịnh trang nghiêm, thì
tự nhiên tâm sẽ khoáng đạt tinh thần vui vẻ, thân tâm được an hòa. Ngược
lại thì khiến tâm người loạn, nóng nảy không an.
Vận ổn: Vận là âm thanh hài hòa, lại chỉ cho khí độ của thần vận cao
nhã. Ổn là chỉ cho sự an định thỏa đáng, vận ổn là âm thanh an hòa trầm
tĩnh, khí vận thì cao nhã, tự nhiên có một sự điều hòa của âm vận.
+ Khẩn thiết chu đáo: Khẩn thiết, ta niệm Phật như đang ở trước Phật,
cách nầy mỗi niệm một tiếng, đều là từ trong tâm chí thành phát ra, khẩn
khẩn thiết thiết niệm: Nam Mô A Di Ðà Phật, cần phải từng câu từng câu,
đây tức là cách niệm chu đáo, cũng tức là tịnh niệm nối nhau. Ðối với
người đã có thời khóa ổn định, trước nhất yêu cầu là phải rất chu đáo ở
trong thời khóa, thời gian nầy không nên lệch lạc. Lại nói thêm rằng,
thế thì không chỉ vỏn vẹn trong định khóa mới chu đáo, mà nên phải xuyên
suốt được tùy lúc tùy chỗ, đều cần phải thường thường khởi lên một câu
Phật hiệu nầy. Nếu có thể được như vậy, thành tràng thành hạt cũng chẳng
khó. Pháp môn tịnh độ (niệm Phật) có cái hay ở trong đây, người đời có
thể làm được, không phải là cao không vói tới. Cần anh khai ngộ, thế thì
khó rồi, không phải là người người đều có thể, anh cũng có tánh khả
năng, chỉ cần làm được cho dù một hai người của ngàn vạn người khó, hiện
tại anh có thể kể ra mấy chục người khai ngộ không? Niệm Phật vãng sanh
cũng không phải là kiểu nầy, mà ai cũng đều có thể niệm. Cần chu đáo,
thường có một câu nầy, sự tình là có thể làm được, vấn đề là tự mình
không chịu niệm. Phiền não một khi khởi lên thì không chịu niệm. Giận dữ
gấp rút là phiền não, vui vẻ đắc ý cũng là phiền não; Kỳ thật xét kỹ
trong phiền não cũng có thể niệm, chỉ là chính mình không chịu niệm, nếu
hay tỉ mỉ chu đáo, trì niệm khẩn thiết, tự nhiên sẽ thành loạt thành
tràng, nhất tâm bất loạn. Cho nên việc niệm Phật vãng sinh thường xuyên
lúc nào cũng được quan tâm.
+ Trầm lắng an nhàn: Câu nói nầy chính là chỉ thẳng những chỗ bệnh trước
mắt rất nhiều của người tu hành. Có người dụng công chỉ có lòng muốn
gấp gáp, bực tức chẳng thể mau mau liền có chỗ thành tựu, do đó rất là
khẩn trương, rất là gấp rút. Ðây cũng là có tâm mong cầu. Nhưng sự thù
thắng của niệm Phật thì từ nơi “hữu niệm” mà thầm hợp với “vô niệm”, từ
“hữu cầu” mà khế hợp với “vô cầu”, từ “vãng sanh” mà chứng được “vô
sanh”. Nên “trầm lắng”, trầm lắng đến mức bình tĩnh, tâm tư không có một
chút lo nghĩ bồi hồi sợ được sợ mất nào, lo nghĩ bất an nào. Mà vả lại
nên “an nhàn”; Bỡi vì có người nổ lực, cũng bỡi ở tâm tư nôn nóng mà rơi
vào sự khẩn trương, bề bộn, rối loạn, lo lắng, gấp rút… Như vậy là đi
ngược lại lời dạy của bậc Thánh rồi!
“An nhàn”, hai chữ này tiến đến một bực nữa mà nói, không những chỉ là
sự bình tĩnh (trấn định), mà còn là muôn duyên đều nhất loạt buông mất,
không giữ không cầu, cho nên là một người đại nhàn giữa trời đất. Trong
tâm chỉ nhớ câu niệm Phật, một câu danh hiệu Phật rõ ràng trước mặt, đã
không có điều ngăn ngại lại chẳng điên đảo, vắng lặng an tâm. Cho nên có
thể thấy rằng hai chữ AN NHÀN quan trọng cần yếu mười phần. Ngược lại,
nếu gấp rút ở trong lòng, muốn thấy Phật thấy hào quang, muốn thấy xuất
hiện điềm lành, niệm thế nầy thì sẽ sinh ra tâm bệnh; Vả lại không phải
là do niệm Phật mà sinh ra bệnh đâu, mà là do trong lòng, gấp rút như
thế nên sinh ra tâm bệnh. Chúng ta nên rất là an nhàn, vì sao có thể an
nhàn? – Vì tín tâm! Người có tín tâm thì rất an nhàn. Có người hỏi rằng:
Ta sao lại niệm chưa tốt, còn vọng tưởng tạp niệm? Ngài Ngẫu Ích đại sư
giảng rất rõ: “vãng sanh hay không, hoàn toàn do nơi chỗ có hay không
có tín nguyện”. Vậy thì anh có hay không có tín tâm sâu xa? Phải là phát
nguyện chân chánh hay không? Chân chánh đó là không muốn lưu luyến thế
giới Ta Bà nầy, mà ưa thích Cực Lạc nguyện cầu vãng sanh. Trên thực tế
rất nhiều người còn lưu luyến, chẳng thể lìa bỏ, tham luyến tài sản, sự
nghiệp, danh vọng, vợ con, vật chất, hưởng thụ, cuộc sống hiện tại tốt
đẹp v.v… nên cố sức ham muốn nhiều nhưng sống được mấy năm, rồi lại muốn
tốt nhất là trường sinh bất lão! Chính là lưu luyến thế giới nầy mà bỏ
lìa không được. Cho nên ưa thích Cực Lạc cần phải phát “đại nguyện”.
Nhiều kiếp trở lại đây tất cả chúng sinh đều là quyến thuộc của mình
đang ở trong biển khổ đợi chờ ta cứu độ, nhưng ta làm sao mới có thể độ
chúng sinh đây! Tự ta còn là người đang giãy giụa trong biển khổ, không
có một chút năng lực nào cứu độ người khác, chỉ sau khi vãng sanh, nương
sức gia trì của Phật, ta sẽ có được trí tuệ rồi cứu độ lập tức tất cả
những quyến thuộc nầy. Phải là tâm tình như thế nầy và nguyện lực như
thế nầy. Có tín và nguyện tự nhiên sẽ niệm, thì nhất định vãng sanh, cho
nên vãng sanh hay không, hoàn toàn nhờ ở sự có hay không có tín nguyện.
Mọi người nói muốn vãng sanh, thì trước nhất mọi người ở ngay nơi tín
nguyện mà dốc sức công phu. Nguyện nầy của ta có chơn chánh hay không?
Nếu tín nguyện thiết tha thì chắc chắn vãng sanh; Lại nữa vấn đề niệm
Phật, trong tâm không nên gấp rút nôn nóng mà phải tự nhiên an nhàn.
+ Tiếng hợp với tâm, tâm ứng với tiếng: Tiếng niệm Phật từ trong tâm
thành khẩn thanh tịnh phát ra tự nhiên hài hòa an ổn, âm thanh câu niệm
Phật nầy vi diệu, trải qua tai mình mà đạt đến bản tâm, được nghe chính
là được niệm, cho nên tự nhiên họp nhau, tiếng họp với tâm. Âm thanh nầy
là danh hiệu Phật muôn đức trang nghiêm, cũng tức là âm thanh muôn đức
trang nghiêm vậy. Âm thanh nầy vào từ nhĩ căn là tự tâm được niệm, tự
tâm niệm Phật, tự tâm là Phật. Cho nên tự tâm chắc chắn tương ứng với
tiếng được nghe. Tiếng hợp tâm, tâm hợp tiếng, cho nên nói rằng: “tâm và
tiếng nương nhau”. Nói một cách đơn giản: Ta niệm Phật, mà niệm Phật có
tiếng thì âm thanh trở lại trợ giúp cho ta. Do ta phát ra tiếng, tiếng
trở lại giúp ta, cho nên nói nương nhau. Niệm như thế nầy không cần dùng
cách bài trừ vọng niệm mà vọng niệm tự tiêu mất.
Chưa có thể “nhất tâm” thì trước phải cầu “chuyên niệm”, chưa có thể được “bất loạn” thì trước phải học tập “thành từng loạt”.
Nhất tâm bất loạn là lúc niệm Phật tâm không tán loạn, dẫn tới tâm chí
thành, chuyên niệm danh hiệu Phật. Trong “Kinh Vô Lượng Thọ”, một điều
kiện căn bản được yêu cầu của “ba hạng vãng sanh” đó là: “một hướng
(lòng) chuyên niệm”. Thường xuyên chuyên niệm một câu A Di Ðà Phật nầy,
là thời gian niệm rất chuyên tâm, không có vọng tưởng tạp niệm. Chưa thể
đạt được nhất tâm thì trước phải chuyên niệm. Chuyên nhất chẳng biến
đổi, là đối với người thấy khác hay suy nghĩ dời đổi mà nói, đứng núi
nầy trông núi nọ, nói chung là chẳng thể yên được ở pháp môn mình tu, có
nghĩa là ngày nay muốn niệm Phật, ngày mai muốn tham thiền, ngày mốt
lại muốn tu mật, tóm lại muốn học nhiều bao nhiêu cách mới có thể nương
nhờ được?
+ Chưa có thể “bất loạn”, trước phải “học thành từng loạt”: Làm chưa đạt
được cái tâm “hoàn toàn đều không tán loạn”, thì trước nên khiến nó
thành từng loạt. Ta không thể suốt không tán loạn, nhưng ta có cách làm
mấy mươi câu thành một loạt, trong một loạt mấy mươi câu nầy không có
vọng tưởng tạp loạn; Nếu người không chân thật dụng công thì ngay cả lập
thành loạt niệm như thế nầy cũng khó mà làm được. Cho nên nói rằng:
“Chơn siêng chơn chuyên, công hiệu tự thấy, không cần hỏi người, xin tự
nghiệm lấy”. Như người uống nước, lạnh hay nóng tự biết.
Từng câu niệm mà chơn, chắc chắn ra khỏi Ta Bà. Thế nào gọi là CHƠN? –
Một câu giải thích rất bình thường, nếu muốn niệm được chơn, chỉ cần
niệm của chơn. Không phải là ngụy trang dối người, không phải là làm
trên hình thức, không phải là có mục đích khác, không phải là vọng cầu
điều quấy, không phải là cái vỏ bề ngoài. Phải nên khẩn cầu thiết tha,
thường thật tín nguyện trì danh, một câu danh hiệu Phật nầy tự mình niệm
rất rõ ràng, toàn bộ rất rõ ràng, tức là niệm chơn rồi vậy.
Niệm Phật chẳng thể cầu trước tiên là nhất tâm bất loạn, vì nhất tâm bất
loạn rất là khó, có thể được một loạt một tràng, tức là ba mươi, năm
mươi hoặc ba trăm, năm trăm câu… mà không loạn, lại có thể tùy lúc tùy
nơi mà có thể khởi tưởng niệm Phật.
Niệm Phật mà có thể “nhất tâm bất loạn” đương nhiên là điều tốt rồi,
nhưng có thể niệm được thành loạt thành tràng mà chẳng loạn đều không
phải là dễ đâu. Có thể niệm được thành loạt thành tràng không loạn, tùy
lúc tùy nơi khởi được tưởng niệm cũng là niệm Phật rồi. E rằng chỉ biết
niệm Phật trong thời khóa nhất định, ngoài ra lúc bình thường chẳng
tưởng được để niệm Phật!
Lúc niệm Phật nhất định nên niệm một cách “chánh tâm thành ý” và “cung
kính”, đây là bí quyết nhiệm mầu của niệm Phật trì danh, mà vả lại trong
lúc niệm Phật cần tâm không nên thêm việc, chuyên tâm chỉ Nam MôA Di Ðà
Phật, niệm được thuần thục, thì có thể nhất tâm bất loạn rồi.