;
Chuyện kể về thánh nữ Bà La Môn vì biết mẹ mình lúc còn sống tạo nghiệp sâu dày: Không tin nhân quả, chẳng kính Tam Bảo, vì thế khi chết bị đoạ lạc địa ngục Vô Gián. Vì thương mẹ nên Thánh nữ đã tìm mọi phương cách để cứu bà bằng việc bán nhà cửa, sắm nhiều hương hoa và những đồ lễ cúng đến cúng dường Tam Bảo tại một ngôi chùa thờ đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai.
Nhờ tâm chí thành, khẩn thiết nên đã cảm động tới đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Ngài đã khuyến Thánh nữ: Về nhà phải nhiếp tâm đoan chánh, nhớ nghĩ đến danh hiệu của Ta, tất sẽ biết được cảnh giới của mẹ mình đang ở nơi nào.
Thánh nữ nghe được bèn vội vàng trở về nhà, thân đoan, ý chánh, ngồi niệm hồng danh Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai một ngày, một đêm liền có cảm ứng, bèn thấy thân mình xuống tới địa ngục. Tại đây Thánh nữ đã gặp Vô Độc Quỷ Vương.
Thánh nữ bèn hỏi nguyên do về sự có mặt tại chốn này, Vô Độc Quỷ Vương cho biết: Một là do nghiệp lực, hai là do Phật lực gia trì. Ngoài hai điều này ra, quyết không thể đến địa ngục. Và sau khi nói nguyên do xuống địa ngục và tận mắt chứng kiến những cảnh giới thảm khốc nơi địa ngục, Thánh nữ đã được Vô Độc Quỷ Vương cho hay: Mẹ của Thánh nữ cùng rất nhiều tội nhân khác nơi Ngục Vô Gián ngày hôm trước đã được sanh lên cõi Thiên. Nhân do nhờ Thánh nữ đã tạo nhiều công đức cúng dường đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai...
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện ghi lại như sau:
„Lại không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp về trước, thuở đó trong đời có đức Phật hiệu là Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai; thọ mạng của Ðức Phật ấy là bốn trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp.
Trong thời Tượng Pháp, có một người con gái dòng Bà La Môn nhiều đời tích phước sâu dày, được mọi người kính nể, đi đứng nằm ngồi đều được chư Thiên theo hộ vệ; song bà mẹ lại tin theo tà đạo, thường khinh chê ngôi Tam Bảo.
Thuở ấy, Thánh Nữ lập nhiều phương tiện để khuyến dụ mẹ, hầu làm cho bà sanh chánh kiến, nhưng bà chưa tin hẳn; và chẳng bao lâu thì bà mệnh chung, thần hồn bị đọa vào địa ngục Vô Gián.
Lúc đó, Thánh Nữ Bà La Môn biết rằng bà mẹ khi còn sống không tin nhân quả, ắt phải theo nghiệp mà sanh vào đường ác, bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương, hoa, cùng những đồ lễ cúng, rồi đem đến chùa tháp thờ tiên Phật mà làm đại lễ cúng dường.
Trong một ngôi chùa kia, trông thấy hình tượng của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai đắp vẽ oai dung đủ cách tôn nghiêm, Thánh Nữ Bà La Môn chiêm lễ tôn dung, lòng càng bội phần kính ngưỡng, thầm nghĩ rằng: ‘Ðức Phật là đấng Ðại Giác đầy đủ mọi trí huệ. Nếu Ðức Phật còn tại thế, thì sau khi mẹ tôi mất, thảng như tôi đến bạch hỏi Phật, tất biết được nơi mẹ tôi thác sanh!’
Lúc ấy, Thánh Nữ Bà La Môn cúi đầu khóc rất lâu, rồi lại chiêm luyến tôn tượng của Như Lai, bỗng nghe trên không trung có tiếng bảo rằng: ‘Này Thánh Nữ đương khóc kia, thôi đừng có bi ai quá lắm! Nay Ta sẽ bảo cho ngươi biết chỗ thác sanh của mẹ ngươi!’
Thánh Nữ chắp tay hướng lên hư không mà bạch rằng: ‘Chẳng hay đức thần nào đã giải bớt lòng sầu lo của tôi như thế? Từ khi mẹ tôi mất đến nay, tôi ngày đêm thương nhớ, không biết đâu để hỏi cho rõ mẹ tôi thác sanh vào chốn nào.’
Bấy giờ, trên hư không lại có tiếng bảo Thánh Nữ rằng: ‘Ta là Ðức Phật quá khứ Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi đương chiêm lễ đó. Thấy ngươi thương nhớ mẹ trội hơn thường tình của chúng sanh, nên Ta đến chỉ bảo.’
Thánh Nữ Bà La Môn nghe nói xong liền nhảy chồm lên và bị té rớt xuống, các khớp tay chân đều bị tổn thương; những người ở cạnh bên liền đỡ dậy.
Một lát sau Thánh Nữ mới tỉnh lại, rồi bạch cùng trên hư không rằng: ‘Cúi xin Ðức Phật từ bi thương xót, bảo ngay cho con rõ chỗ thác sanh của mẹ con, nay thân tâm của con sắp chết mất!’
Lúc ấy, Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai bảo Thánh Nữ rằng: ‘Cúng dường xong, ngươi hãy mau trở về nhà, rồi ngồi ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta, thời sẽ biết được chỗ thác sanh của mẹ ngươi.’
Bấy giờ, lễ Phật xong Thánh Nữ Bà La Môn liền trở về nhà. Vì thương nhớ mẹ, nên Thánh Nữ ngồi ngay thẳng niệm danh hiệu của Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. Trải suốt một ngày một đêm, Thánh Nữ bỗng thấy thân mình đến một bờ biển kia, nước trong biển đó sôi sùng sục, có rất nhiều thú dữ thân thể toàn bằng sắt bay nhảy trên mặt biển, chạy rảo bên này, xua đuổi bên kia; và thấy những trai cùng gái, số nhiều đến trăm ngàn muôn, thoạt chìm thoạt nổi trong biển, bị các thú dữ giành nhau ăn thịt; lại thấy các Dạ Xoa hình thù khác nhau, hoặc nhiều tay, nhiều mắt, nhiều chân, nhiều đầu..., răng nanh chìa ra ngoài miệng, bén nhọn dường gươm đang lùa những người tội đến gần thú dữ. Rồi chúng lại tự chụp bắt, túm quắp đầu chân lại với nhau, hình trạng muôn thứ, chẳng dám nhìn lâu.
Khi ấy, Thánh Nữ Bà La Môn nhờ nương sức niệm Phật nên tự nhiên không kinh sợ. Có một Quỷ Vương tên là Vô Ðộc, đến cúi đầu nghênh tiếp, hỏi Thánh Nữ rằng: ‘Lành thay, Bồ Tát! Do duyên sự gì mà Ngài đến chốn này?’
Bấy giờ, Thánh Nữ Bà La Môn hỏi Quỷ Vương rằng: ‘Ðây là chốn nào?’
Vô Ðộc đáp rằng: ‘Ðây là tầng biển thứ nhất ở phía Tây núi Ðại Thiết Vi.’
Thánh Nữ hỏi rằng: ‘Tôi nghe trong núi Thiết Vi có địa ngục, việc ấy có thật chăng?’
Vô Ðộc đáp rằng: ‘Thật có địa ngục!’
Thánh Nữ hỏi rằng: ‘Nay tôi làm sao được đến chốn địa ngục?’
Vô Ðộc đáp rằng: ‘Nếu không phải sức oai thần, cần phải do nghiệp lực. Ngoài hai điều này ra, ắt không bao giờ có thể đến được.’
Thánh Nữ lại hỏi: ‘Do duyên cớ gì mà nước trong biển này sôi sùng sục và có những người tội cùng các thú dữ như thế?’
Vô Ðộc đáp rằng: ‘Ðây là những chúng sanh tạo ác ở cõi Diêm Phù Ðề mới chết, quá bốn mươi chín ngày không người kế tự để làm công đức hầu cứu vớt khổ nạn cho; lúc sống, họ lại không làm được nhân lành nào cả; vì thế nên cứ theo bổn nghiệp mà chiêu cảm lấy địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua biển này trước. Cách biển này mười vạn do-tuần về phía Ðông lại có một cái biển, những sự thống khổ ở đó còn gấp bội chốn này. Phía Ðông của biển đó lại có một cái biển nữa, sự thống khổ ở đó càng trội hơn. Do ác nhân của Tam Nghiệp cảm vời ra và gọi chung là biển nghiệp, chính là chốn này vậy.’
Thánh Nữ lại hỏi Quỷ Vương Vô Ðộc rằng: ‘Ðịa ngục ở đâu?’
Vô Ðộc đáp rằng: ‘Ở trong ba cái biển đó đều là đại địa ngục, nhiều đến số trăm ngàn, mỗi ngục đều khác nhau. Về địa ngục lớn thì có mươi tám chỗ; bực kế đó có năm trăm chỗ, đủ không lường sự khổ sở; bực kế nữa có đến ngàn trăm, cũng đầy không lường sự thống khổ.’
Thánh Nữ lại hỏi Ðại Quỷ Vương rằng: ‘Thân mẫu tôi mới mất gần đây, song không rõ thần hồn của người phải sa vào chốn nào?’
Quỷ Vương hỏi Thánh Nữ rằng: ‘Thân mẫu của Bồ Tát khi còn sống, quen làm những nghiệp gì?’
Thánh Nữ đáp rằng: ‘Thân mẫu tôi tà kiến, khinh chê ngôi Tam Bảo, hoặc có lúc tạm tin, nhưng rồi chẳng kính; dầu khuất không bao lâu, mà chưa rõ thác sanh về đâu.’
Vô Ðộc hỏi rằng: ‘Thân mẫu của Bồ Tát tên họ là gì?’
Thánh Nữ đáp rằng: ‘Thân phụ và thân mẫu của tôi đều dòng dõi Bà La Môn. Thân phụ tôi hiệu là Thi La Thiện Kiến, thân mẫu tôi tên là Duyệt Ðế Lợi.’
Vô Ðộc chắp tay thưa Bồ Tát rằng: ‘Xin Thánh Giả hãy trở về, và chớ thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa. Tội nữ Duyệt Ðế Lợi được sanh lên cõi trời đến nay đã ba ngày rồi. Nghe nói nhờ con trai của bà có lòng hiếu thuận, vì mẹ mà thiết cúng để tu phước, và bố thí chùa tháp thờ Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. Chẳng phải chỉ thân mẫu của Bồ Tát được thoát khỏi địa ngục, mà ngày đó, những tội nhân Vô Gián cũng đều được an lạc, đồng được thác sanh cả.’
Nói xong, Quỷ Vương chắp tay chào Thánh Nữ mà cáo lui."
Thánh Nữ Bà La Môn dường chiêm bao chợt tỉnh, rõ biết các việc rồi, bèn đối trước tháp tượng của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà lập hoằng thệ nguyện rằng: ‘Tôi nguyện từ nay cho đến tận vị lai kiếp, sẽ vì những chúng sanh mắc phải tội khổ mà rộng lập phương tiện, khiến cho họ đều được giải thoát.’
Ðức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: "Quỷ Vương Vô Ðộc ngày trước, nay chính là Tài Thủ Bồ Tát; còn Thánh Nữ Bà La Môn đó, nay là Bồ tát Ðịa Tạng vậy."
Qua đoạn kinh văn trên chúng ta thấy những gì Phật Thích Ca nói trong Kinh A Di Đà và Kinh Vô Lượng Thọ là hoàn toàn chính xác: „Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà“.
Đoạn này Phật đã chỉ cho chúng ta thấy: nếu có ai nghe nói tới danh hiệu Phật A Di Đà mà nhất tâm trì niệm danh hiệu của Ngài từ 1-7 ngày một lòng không tạp loạn, tất lúc lâm chung Phật A Di Đà sẽ hiện thân, giúp người đó tâm thần không điên đảo rồi tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc quốc.
Thánh nữ trong Kinh Địa Tạng đã làm theo đúng lời khuyên của đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương để niệm hồng danh Ngài, qua hơn một ngày thì đã thấy thân mình đang tham quan nơi địa ngục Vô Gián.
Đó chẳng phải do thánh nữ có biệt tài, trái lại là nhờ tâm chân thành, khẩn thiết niệm Phật tới nhất tâm bất loạn nên cảm ứng được với tâm của đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai và Ngài đã giúp cho Thánh nữ làm được những điều mà mình mong muốn.
Như vậy việc niệm Phật (cho dù là đức Phật nào chăng nữa) cũng đòi hỏi mỗi hành giả ở sự chí thành, chí thiết và chí kính, nói khác đi là tâm khẩn thiết niệm hồng danh Phật, nhờ tâm khẩn thiết đó: chỉ còn một niệm duy nhất là hồng danh Phật – lúc đó Phật-Phật tương thông, ngay lập tức chư Phật sẽ tới để hộ niệm, giúp người hành giả đi đến nơi mình mong nguyện.
Hàng ngày chúng ta phát tâm niệm hồng danh A Di Đà Phật, và nguyện sanh về cõi Ngài, rồi niệm niệm qua ngày chày tháng, vậy nhưng tại sao chúng ta vẫn không có một sự cảm ứng nào? Đơn giản, niềm tin chưa sâu, chí nguyện chưa vững, cũng vì thế tâm hạnh còn nghiêng ngả, đảo điên. Nếu chúng ta huân tập cái tâm nghiêng ngả, đảo điên này cho tới ngày xả báo thân, người đến đón chúng ta lúc đó chắc chắn là những oan gia trái chủ, thay vì Phật A Di Đà và Tây Phương Thánh chúng.
Câu chuyện Thánh nữ Bà La Môn trong Kinh Địa Tạng Phật nêu chính là một điển dụ để chứng minh cho chúng ta thấy lý -sự phải viên dung, tất cái đích sẽ hiện tiền.
Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật.