;
Tâm ta cứ theo thường phận mà đành làm, đành chịu tức nghiệp hay buộc tâm.
Cho nên hết thảy những cảnh giới hiện tiền và hết thảy những quả báo đương lai đều do nghiệp sở cảm và đều do tâm sở hiện. Cho nên cảnh trước báo sau đều không nhất định, ấy là vì tâm hay chuyển nghiệp.
Nếu người ở trong lúc tâm bị nghiệp buộc tâm vào cảnh làm cho báo đều nhất định, mà thoạt nhiên phát tâm rộng lớn tu hạnh chơn thiệt. Tâm hiệp với Phật, và hiệp với đạo, thì tâm có thể chuyển nghiệp mà cái nhất định của cảnh và báo kia lại hóa thành không định.
Còn như người ở trong lúc nghiệp bị tâm chuyển làm cho cảnh và báo không nhất định mà nếu đại tâm thụt lùi, thiệt là hạnh kém thiếu. Thì nghiệp trở lại buộc tâm, mà cái không định của cảnh và báo kia hóa thành nhất định.
Nhưng cái cơ phát tâm với chẳng phát tâm và cái quyền tạo nghiệp hay là chuyển nghiệp, thiệt ra đều ở nơi ta.
Nếu ngày nay ta phát tâm niệm Phật cầu sanh về cõi cực lạc, hoặc quán tưởng y báo chánh báo bên cảnh tây phương hoặc chuyên trì danh hiệu của Phật Di Đà niệm niệm nối luôn, không hề gián đoạn, tức tâm với Phật hiệp đến khi cái hiệp ấy cùng tột rồi, thì tâm ta có thể chuyển nghiệp được mà làm cho cái hiện cảnh ta bà trở thành cực lạc. Và cái lai báo thai ngục trở thành liên báo, mà ta tức là người tự tại bên cõi tây phương tịnh độ vậy.
Còn như trong lúc này mà oan tâm của ta hoặc có thai thất, hay là niệm niệm tâm của ta hoặc sanh thối thuyển, tức là chẳng hiệp với Phật. Thì nghiệp trở lại buộc tâm làm cho tiền cảnh và lai báo đều y nhiên như cũ mà ta cũng hườn (như xưa) làm chúng sanh thọ khổ ở cõi ta bà, không sao thoát khỏi.
...Vả lại trong môn tịnh độ lấy nguyện làm gốc, nên đã có nguyện thì sau chắc được viên mãn tất cả, coi như ông Uất Đầu Lam Phất thường thiền phi tưởng định ớ mé nước hay trong rừng , mổi khi định lực sắp thành, thì hay bị các thứ cá, chim làm cho kinh động, nhơn vậy ông bực giận mà đã phát lời ác nguyện rằng: "Ta một ngày kia sẽ làm con Phi Ly vào rừng ăn chim, xuống nước ăn cá cho được."
Quả nhiên sau khi định lực thành rồi thì ông được sanh lên cõi trời phi tưởng sống lâu đến tám vạn đại kiếp tới lúc thiên báo vừa hết thì ông lại bị đọa làm con Phi Ly vào rừng xuống nước mà ăn chim cá. Đó là cái ác nguyện nó vẫn trái hẳn với tự tánh, mà còn có lực dụng to lớn làm cho viên mãn được như thế, huống chi cái nguyện niệm Phật cầu sanh là cái thiện nguyện tương xứng tánh, mà lại không viên mãn được hay sao.
...ông Hoanh Pha là một người rượu thịt, mà đến sau ông xem truyện vãng sanh, cứ mổi lần đọc qua là một lần gật đầu cảm phục. Sau khi xem rồi, ông bèn phát tâm niệm Phật luôn bảy ngày không ăn.
Lúc ấy cơ cảm, Phật hiện thân an ủi ông rằng: thọ số của ngươi ở dương thế còn mười năm nữa mới hết, vậy ngươi cứ vui lòng niệm Phật cho hẳn, tới chừng đó ta sẽ tiếp ngươi.
Ông Hoanh Pha nói: Ta bà này là cõi trược ác, hay khiến người dễ mất chánh niệm, nên tôi muốn sanh về tịnh độ cho sớm đặng gần gủi để vâng thờ các thánh.
Phật nói: chí ngươi đã cương quyết như vậy, thì sau ba ngày ta sẽ đến tiếp ngươi.
Quả đúng ngày giờ, Phật đến tiếp dẫn ông Hoanh Pha được vãng sanh.
Lại ngài Hoài Ngọc thiền sư chuyên tu tịnh nghiệp, một lần nọ, ngài thấy Phật và Bồ Tát hiện đày giữa khoảng hư không lại có một người bưng cái đái bằng bạc mà đi vào chổ ngài thì lúc ấy trong tâm ngài nghĩ rằng: Ta một đời tu niệm tinh tấn là chí quyết ở nơi đài vàng mà sao nay lại trái với bản nguyện như thế.
Ngài vừa nghĩ như thế, thì cái đài bằng bạc tự nhiên ẩn mất. Từ ấy ngài tinh tấn bội phần trải qua hai mươi mốt ngày, ngài lại thấy Phật và Bồ Tát cũng hiện đầy giữa khoảng hư không mà người bưng đài bằng bạc trước kia bây giờ lại bưng cái đài bằng vàng đi đến, ngài thấy vậy bèn im lặng ngồi mà tịch.
...Xét vậy thì biết tâm Phật từ bi vốn không chọn lựa, nếu ta thiệt lòng phát nguyện, thì lẽ tất nhiên phải tin mà tin và nguyện đã thiệt là hạnh tu tất nhiên phải làm, cho nên trong ba món tư lương: tín , nguyện và hạnh ấy, chỉ có một cái nguyện là gồm hết cả.
...Nếu nói cho đúng, thì trước phải thấy đạo rồi sau mới tu đạo, có tu đạo rồi sau mới chứng đạo. Đó là một định luật của ngàn thánh đồng đi muôn xưa chẳng đổi vậy.
Nhưng sự thấy đạo có phải dễ đâu. Nếu y theo giáo thừa, thì tất phải mở rộng con đường việc giải thoát. còn như y theo tông môn thì cũng phải thấu suốt đến cửa trùng quan rồi sau mới được nói chuyện tu đạo.
...Duy có một môn tịnh độ thì chẳng phải thế đó, từ cõi ta bà này đi thẳng qua phương tây, cách mười vạn ức cõi Phật, có thế giới cực lạc. Cõi ấy có đức Phật hiệu là A Di Đà thị hiện tiếp dẩn thì sẽ được vãng sanh.
Đó là cái cảnh giới thấy biết của Phật tâm, Phật nhãn chớ không phải các bậc hiền thánh trong tam thừa thấy được biết được, cho nên ta phải tin sâu lời nói của Phật cứ y theo đó mà phát nguyện trì danh thì tức là lấy cái thấy biết của Phật làm cái thấy biết của mình chớ không cần phải lấy pháp tõ ngộ nào khác.
Thiền Sư Triệt Ngộ Khai Thị Niệm Phật -
(HT Thích Đạt Dương Dịch).