;
Như cây bị chặt đốn…
Tích truyện pháp cú - Phẩm Tham ái - Con heo nái tơ
Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại tinh xá Trúc Lâm, liên quan đến chị heo nái tơ nọ sống lăn lóc trong đống phân.
Chuyện kể rằng, một hôm đức Thế Tôn vào thành Vương-xá khất thực, gặp một con heo nái tơ. Ngài mỉm cười, Trưởng lão A-nan trông thấy vầng hào quang chói sáng từ răng Ngài, liền hỏi lý do:
– Bạch Thế Tôn, tại sao Ngài cười?
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, hãy nhìn con heo nái tơ kia.
– Con có thấy nó, bạch Thế Tôn!
– Vào thời đức Phật Kakusandha, con heo tơ này là một chị gà ở gần Thiền đường nọ. Chị thường chăm chú nghe một thầy Tỳ-kheo niệm đề mục thiền tu chứng Tuệ giác.
Chỉ nghe những âm thanh thiêng liêng kia thôi, cũng khiến chị thoát kiếp được tái sinh vào cung vua, làm công chúa tên Ubbari.
Một hôm công chúa đi vào nhà xí, thấy đống dòi. Liền tại chỗ ấy, chăm chú quan sát đám dòi, tâm định tĩnh, cô nhập Sơ thiền. Sau khi mãn kiếp làm công chúa, cô được sanh vào dòng dõi Bà-la-môn. Từ giai cấp Bà-la-môn, do nghiệp tạo trong kiếp ấy, bây giờ cô lại tái sinh làm con heo nái tơ này. Ta biết những cảnh huống ấy nên cười.
Các Tỳ-kheo đi sau Trưởng lão A-nan lắng nghe đức Thế Tôn nói, rất xúc cảm. Sau khi tác động tâm tư họ, đức Phật liền giảng giải sự ngu si của tham ái, và vẫn đứng giữa đường đi, Ngài nói kệ tiếp:
(338) Như cây bị chặt đốn,
Gốc chưa hại vẫn bền,
Ái tùy miên chưa nhổ,
Khổ này vẫn sanh hoài.
(339) Ba mươi sáu dòng ái,
Trôi người đến khả ái,
Các tư tưởng tham ái,
Cuốn trôi người tà kiến.
(340) Dòng ái dục chảy khắp,
Như dây leo mọc tràn,
Thấy dây leo vừa sanh,
Với tuệ, hãy đoạn gốc.
(341) Người đời nhớ ái dục,
Ưa thích các hỷ lạc,
Tuy mong cầu an lạc,
Họ vẫn phải sanh, già.
(342) Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới,
Chúng sanh ái trói buộc,
Chịu khổ đau dài dài.
(343) Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới,
Do vậy vị Tỳ-kheo,
Mong cầu mình ly tham,
Nên nhiếp phục ái dục.
Sau kiếp ấy, chị heo nái tơ tái sinh vào cung vua ở Suvannabhùmi. Hết kiếp, cô tái sanh ở Ba-la-nại, kiếp sau cô tái sanh ở cảng Supàraka trong nhà một người lái ngựa, rồi sanh vào nhà một thủy thủ cảng Kavìra. Kế tiếp, cô sanh vào nhà một gia đình quý tộc cao sang ở Anuràdhapura.
Cuối cùng, cô tái sanh làm con gái ông Sumanà làng Bhokkkanta thuộc vùng phía Nam, được đặt tên theo cha là Sumanà.
Khi dân chúng bỏ làng đi hết, cha cô đến vương quốc Diighavaapi, lập nghiệp tại làng Mahàmuni. Lakuntaka Atimbara, Tể tướng vua Dutthagàmanì, có việc đến đấy gặp cô, liền cưới làm vợ, đưa về sống tại làng Mahàpunna. Một hôm, Trưởng lão Anula trú tại tinh xá Kotipabbata đi khất thực ngang qua nhà trông thấy cô bèn bảo các thầy Tỳ-kheo:
– Này chư huynh, con heo nái tơ đã trở thành phu nhân ngài Lakuntaka Atimbara, Tể tướng của đức vua, thật lý thú biết bao!
Nghe những lời này cô bỗng nhớ hết các tiền kiếp của mình và chứng Túc mạng thông. Xúc dộng sâu xa, cô xin phép chồng từ bỏ đời thế tục xuất gia theo Tăng đoàn Tỳ-kheo ni Pancabalaca. Sau khi nghe giảng bài pháp Mahà satipatthàna tại tinh xá Tissa, cô đắc qủa Dự lưu.
Rồi khi người Damilas bị tiêu diệt, cô trở về làng Bhokkanta sống với cha mẹ. Tiếp đó, nghe bài pháp Asìvisopama tại tinh xá Kallaka, cô đắc qủa A-la-hán. Ngày cô nhập Niết-bàn, đáp lời hỏi của các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni, cô kể hết câu chuyện cho các Tỳ-kheo Ni nghe.
Giữa một buổi nhóm chúng của các thầy Tỳ-kheo, với sự giúp đỡ của Trưởng lão Maha Tissa, vị Tỳ-kheo thường giảng nói Pháp Cú đang trú tại Mandalàràma, cô kể như sau;
– Vào thời xa xưa, con đánh mất thân người, sanh làm gà mái. Bị diều hâu xớt, và tái sanh ở thành Vương xá, từ bỏ cuộc đời thế tục, làm một Tỳ- kheo ni hành khước đây đó và tu đạt đến Sơ thiền. Hết kiếp ấy, con tái sanh vào nhà một trưởng giả.
Nhưng chỉ sống ít lâu, con đã bị đọa làm heo nái. Hết kiếp, con tái sanh ở Suvannabhùmi, rồi ở Ba-la-nại, ở cảng Suppàraka, ở cảng Kavìra, ở Anuràdhapura và sau cùng tại làng Bhokkanta.
Sau khi trải qua mười ba kiếp thăng trầm như vậy, kiếp này con cảm nhận được sự bất như ý của cuộc sống nên từ bỏ thế tục, xuất gia, và chứng quả A-la-hán. Xin chư vị mỗi người hãy tự mình chánh niệm tinh tấn tiến đến giải thoát.
Lời cô làm tứ chúng vô cùng xúc động.
Sau đó cô nhập Niết-bàn.
Phật giáo Theravada