;
61. Tự mình cầu siêu cho mình như thế nào?
Hỏi: Kính bạch thầy, khi con còn đang mạnh khỏe, con nghe quý thầy dạy là hằng ngày mình phải tự cầu siêu cho chính mình, đó là cách chắc ăn nhất. Thú thật, con không biết phải tự cầu siêu cho mình như thế nào? Và lời dạy đó có ý nghĩa gì? Thường con chỉ thấy người ta cầu siêu cho người chết, đâu có ai cầu siêu cho người còn sống. Thế mà quý thầy dạy phải cầu siêu cho mình lúc còn sống là sao? Kính mong thầy giải đáp cho con hiểu. Con kính cám ơn thầy.
Đáp: Từ ngữ cầu siêu nguyên là chữ Hán. Cầu có nghĩa là xin giúp hay mong muốn một điều gì đó; còn siêu có nghĩa là vượt qua. Hai chữ cầu siêu có nghĩa là mong muốn cho (vong linh) chóng vượt qua khốn khổ thác sanh về cảnh giới an lành.
Thông thường, khi nói đến cầu siêu, người ta liền nghĩ ngay đến việc cầu siêu cho vong linh của người mới chết. Mục đích là nhờ sự tụng kinh niệm Phật mà hương linh chóng được siêu sanh thoát hóa. Nếu là Phật tử tu theo pháp môn Tịnh Độ, thì khi tụng kinh cầu siêu, người ta cầu nguyện cho hương linh của người chết sớm được vãng sanh về cõi Cực lạc của đức Phật A Di Đà. Vì vậy, nên không ai nói đến cầu siêu cho người còn sống bao giờ.
Tuy nhiên, ở đây Phật tử lại nghi ngờ. Vì Phật tử đã nghe một vị thầy nào đó nói, là chúng ta nên cầu siêu cho mình lúc còn sống hơn là đợi đến sau khi chết. Lời nói nầy mới nghe qua, chúng ta thấy dường như là hoàn toàn nghịch lý. Nhưng nếu bình tâm xét kỹ, thì chúng ta thấy cũng không hẳn là không có lý lẽ của nó. Lời nói nầy, theo tôi, người nói nhằm mục đích là để khuyến tấn thức nhắc người Phật tử chúng ta ráng lo tu niệm trong khi mình còn khỏe mạnh.
Phải thành thật mà nói, có đôi khi vì bon chen tranh đua hơn thua trong việc mưu sinh, mà người Phật tử chúng ta lại quên đi sự tu hành. Cứ dần dà ngày qua tháng lại, hẹn lần hẹn lữa, đến khi ngã bịnh hay quỷ vô thường sắp cướp mất mạng sống, chừng đó mới giật mình nghĩ đến hối tiếc ăn năn. Một việc hối tiếc ăn năn thật đã quá muộn màng lắm rồi!
Thế là, sau khi chết, bấy giờ trong thân quyến mới thỉnh chư Tăng, Ni và Phật tử đến tụng kinh hộ niệm. Việc làm nầy, không phải là không đúng. Nhưng xét kỹ ra, thì đà quá trễ. Lúc sống, thì mãi lo tranh danh đoạt lợi, tất tả ngược xuôi nổi trôi theo dòng đời lôi cuốn không lo tu niệm. Thậm chí, có người còn không có thời gian rảnh rỗi để đi chùa nghe pháp hay tụng niệm một thời kinh ở nhà.
Có người thì lại sống buông thả tha hóa trụy lạc, hút xách bạc bài, say sưa chè rượu, đàng điếm giao du. Có người thì lại đi sâu vào con đường tội lỗi, hành hung cướp của giết người. Có người thì mãi miết ham cạnh tranh làm giàu, không giây phút hồi tâm thức tỉnh v.v…
Nói rõ ra, cũng là Phật tử, nhưng mỗi người theo mỗi nghiệp duyên mà hành động tạo nghiệp khác nhau. Nhưng dù sinh hoạt tạo nghiệp ở dạng thức nào, đến khi chết, thì người thân cũng phải nghĩ đến lo việc cầu siêu vong độ.
Có những người giàu có, tiền rừng bạc bể, khi chết thì họ lại dùng tiền bạc để làm ma chay rình rang, trống kèn inh ỏi, dậy xóm dậy làng… Mục đích là để cho người đời trông thấy mà nể nang khen tặng. Đó chỉ là những việc phô trương hình thức bề ngoài, không ăn nhằm gì đến việc siêu độ vong linh. Thậm chí, có người còn mướn các nhà làm vàng mã, nhà kho v.v…
Đối với người Phật tử, Phật dạy nên tránh vấn đề nầy. Nói thế, chúng tôi không có ý kích bác hay chống đối việc làm nầy. Vì chúng tôi rất tôn trọng quyền tín ngưỡng tin tưởng của mọi người. Ở đây, chúng tôi chỉ xin được trao đổi góp ý trong phạm vi của người Phật tử mà thôi. Và nhất là qua câu hỏi thắc mắc của người đã hỏi nêu trên.
Trở lại vấn đề trên, theo tôi, thì lời nói của vị thầy nào đó, xét kỹ lời khuyến nhắc đó rất là thực tế. Thực tế ở chỗ, rằng, mình nên ý thức lo cầu siêu cho mình trước. Vì cầu siêu theo ý nghĩa trên, có nghĩa là mong muốn vượt qua nỗi khốn khổ để sanh ra cảnh giới an lành. Đây là cầu siêu theo ý nghĩa hiện thực qua lời nói, và việc làm lành hằng ngày của chúng ta.
Một lời nói hay việc làm tốt lành, tất nhiên nó sẽ đưa đến cho chúng ta một quả báo tốt lành. Ngược lại, thì quả báo rất tồi tệ xấu xa. Sâu hơn, thì ta nên cầu siêu cho mình trong từng tâm niệm. Một tâm niệm ác vừa sanh khởi, ta nên diệt trừ ngay. Một tâm niệm lành vừa dấy lên, ta nên nuôi dưỡng và phát triển nó.
Nói rõ hơn, giây phút trước niệm ác dấy lên làm cho ta đau khổ bất an, liền đó lập tức ta phải sử dụng chánh niệm nhận diện và chuyển hóa tâm niệm ác đó. Phút trước, ta đau khổ (địa ngục) ; phút sau, ta vượt qua và sanh ra cảnh giới an lành (Niết bàn).
Đây là ý nghĩa cầu siêu chiếu soi thật kỹ qua từng tâm niệm. Nếu áp dụng ý nghĩa cầu siêu liên tục như thế, thì chắc chắn đời sống của chúng ta, không lúc nào mà không ở trong cảnh giới an lành. Do đó, ta không còn ỷ lại, chờ mai sau khi ta chết đi, mới thỉnh Tăng Ni hay bạn đạo đến tụng niệm cầu siêu cho ta.
Vì hằng ngày, ta đã tự cầu siêu cho chính ta rồi. Sau khi ta chết, có cầu siêu hay không, cũng không thành vấn đề đối với ta nữa. Có cũng tốt mà không có cũng không sao. Ngược lại, cầu siêu theo kiểu trông chờ ỷ lại ở bên ngoài, chờ ngày mai sau khi ta chết, xét kỹ cũng không lấy gì làm bảo đảm chắc chắn lắm! Điều nầy, rất là thực tế. Đạo Phật rất chú trọng đến sự sống thực tế. Đạo Phật không muốn chúng ta có ước vọng xa xôi viễn vông. Theo luật nhân quả, nhân như thế nào thì quả sẽ như thế ấy.
Việc cầu siêu, chẳng qua đó chỉ là trợ duyên tốt giúp thêm cho chúng ta mà thôi. Nhưng điều quan trọng thực tế, vẫn chính là ở nơi ta. Theo đó, thì tốt hơn hết là mỗi người chúng ta nên tự nỗ lực cầu siêu cho chính mình trước đi. Cầu siêu bằng cách là nên nỗ lực huân tu làm lành lánh dữ. Đồng thời, chúng ta luôn giữ tâm ý mình cho được trong sạch.
Được thế, thì lo gì mình không được siêu thoát. Vì chúng ta đã thực sự siêu thoát ngay trong cõi đời uế trược nầy rồi. Đó là ý nghĩa cầu siêu cho mình một cách rất thực tiễn. Hiểu thế, thì Phật tử sẽ không còn gì phải nghi ngờ nữa cả. Kính mong Phật tử hãy tự cầu siêu cho chính mình ngay trong đời sống hiện thực nầy.
62. Làm sao cho đứa con tự nguyện đi chùa một cách vui vẻ?
Hỏi: Kính bạch thầy, xin cho con hỏi: con có đứa con, lúc trước nó có đi chùa vài lần. Nhưng sau, nó không muốn đi vì lười biếng. Bây giờ con làm cách nào để cho con của con nó tự nguyện đi chùa một cách vui vẻ?
Đáp: Việc đi chùa hay tu hành là do căn duyên của mỗi người. Chúng ta không nên bắt ép. Vì như thế, có đôi khi chẳng những không có lợi ích mà trái lại, nó còn phản tác dụng có hại nhiều hơn nữa không chừng! Đứa con của Phật tử, như Phật tử đã nói, em có đi chùa vài lần.
Nhưng sau đó em không còn đi nữa. Điều nầy, theo tôi, cứ hãy để cho em tự nhiên. Và Phật tử cũng không nên khuyến nhắc hay rầy la em. Tối kỵ nhất, là Phật tử không nên lấy quyền làm mẹ, mà bắt nạt nặng lời trách móc cho em là thứ hư thân làm biếng không chịu đi chùa. Bởi việc đi chùa, tùy theo quan niệm của mỗi người. Thiết nghĩ, là Phật tử chúng ta cũng cần nên biện biệt vấn đề nầy cho thật rõ ràng, để tránh sự hiểu lầm.
Thật ra, không phải ai đi chùa cũng đều là tu hết. Điều nầy chúng ta cần phải xét kỹ lại. Phật tử đi chùa có nhiều dạng thức và tâm niệm khác nhau:
- Có người đi chùa với mục đích là để phụ giúp làm công quả cho chùa. Trong khi hành sự, có ai nặng lời hay nghịch ý, chạm đến lòng tự ái của họ, thì lập tức tam bành lục tặc của họ nổi lên như sóng cồn. Họ la ó om sòm và bậm trợn dữ dội. Ai trông thấy họ cũng đều phát run sợ.
- Có người tới chùa với mục đích là để dòm ngó theo dõi xem tình hình sinh hoạt trong chùa ra sao. Với thâm ý là để tìm hiểu rồi phê bình chỉ trích nói xấu, một khi họ thấy những hành vi sai trái lỗi lầm của chư Tăng Ni và Phật tử.
- Có người đi chùa chỉ biết cúng bái hoặc thăm viếng vong linh, nơi mà ông bà cha mẹ hay người thân của họ thờ ở chùa. Xong rồi, là họ ra về. Họ chưa từng dự nghe một thời pháp hay tụng một thời kinh ở chùa.
- Có người đến chùa với mục đích là để nghe pháp học hỏi tu niệm v.v…
Nói tóm lại, người Phật tử đi chùa với nhiều hình thức và nhiều quan niệm khác nhau. Muốn biết đi chùa có tu hay không, trước hết, chúng ta cần hiểu nghĩa của chữ tu là gì. Chữ tu nguyên nghĩa là sửa đổi.
Sửa dở thành hay, sửa tà thành chánh, sửa xấu thành tốt v.v…Nghĩa là chúng ta phải sửa đổi ở nơi hành vi và tâm niệm của chính mình. Hiểu nghĩa chữ tu như thế, thì không nhứt thiết là phải đi chùa mới gọi là tu. Tuy nhiên, đi chùa nó có điều lợi, là vì nơi đó có môi trường tăng thượng duyên tốt hơn ở nhà. Bởi lẽ, chùa là nơi trang nghiêm thanh tịnh, là nơi hành đạo hoằng truyền chánh pháp, là nơi hun đúc rèn luyện chúng ta trở thành người có đạo đức lương thiện.
Cho nên, người Phật tử đi chùa với mục đích chính là để nghe pháp, học hỏi trau dồi thêm trí huệ và đạo đức. Đó là môi trường tốt tạo cho người Phật tử tăng thêm tín tâm và đạo lực. Nếu lệch ý nghĩa quỹ đạo nầy, thì sự đi chùa của người Phật tử sẽ không có kết quả tốt đẹp.
Do đó, nếu người Phật tử ở nhà, mà khéo biết sắp xếp thời gian và tạo nơi thờ Phật trang nghiêm, tạo môi truờng sinh hoạt tốt đẹp như vườn tượt cây cảnh v.v… Hằng ngày chuyên tâm tu niệm, phân chia thời khóa tụng niệm rõ ràng. Mỗi người tự tu tâm sửa tánh, tạo bầu không khí trong gia đình thật êm ấm an vui hạnh phúc.
Mọi người khéo biết tương kính nhường nhịn hòa thuận với nhau. Nên cởi mở thiết lập truyền thông trao đổi với nhau bằng những lời lẽ ôn hòa nhã nhặn đầy yêu thương ái ngữ chân tình.
Khi có chuyện gút mắc rắc rối không hay xảy ra trong gia đình, mọi người cùng nhau tìm cách tháo gỡ một cách êm xuôi trong tinh thần hòa ái cảm thông. Tuyệt đối, không nghi kỵ, giả dối, lường gạt, ngầm mưu hại lẫn nhau. Được thế, tuy thân Phật tử còn ở tại gia, nhưng tâm của Phật tử đã rất gần với đạo lý giải thoát rồi.
Ngược lại, đi chùa mà không chuyên tâm tu học như thế, cứ để cho con khỉ ý thức chuyền nhảy theo ngoại duyên lung tung, rồi thêm sanh tâm phiền não giận hờn bực tức, hết giận hờn người nầy rồi lại trách móc người kia. Lập thành phe nhóm bè phái, chống báng nói xấu, xầm xì to nhỏ chỉ trích bươi móc nói lỗi với nhau.
Hết nói xấu người nầy đến phê bình chỉ trích người khác. Lại thêm, ỷ mình có công lao, tài giỏi, rồi sanh tâm cống cao ngã mạn, hách dịch khinh người, lấn lướt miệt thị, coi ai cũng chẳng ra gì. Phật tử đi chùa với hành vi tâm niệm như thế, thì thử hỏi có được lợi ích phước đức gì không?!!! Hay chỉ gây tạo thêm nhiều tội lỗi. Làm mất đi bầu không khí trang nghiêm thanh tịnh ở trong chùa.
Trường hợp con của Phật tử, tôi thành thật khuyên Phật tử, cứ để cho em có sự quyết định chọn lựa một cách tự nhiên. Đó là chúng ta tôn trọng quyền tự do tin tưởng của em. Phật tử đừng quên hiện chúng ta đang sinh sống trong một đất nước tự do. Quyền quyết định là ở nơi mỗi cá thể.
Nếu em thấy, sự đi chùa có lợi ích thiết thực và thích hợp với đời sống tinh thần của em, dù Phật tử có ngăn cấm đến đâu, thì em cũng nhất quyết tìm mọi cách đi chùa cho kỳ được. Vì đó là tự em ý thức và phát tâm mạnh mẽ. Bằng ngược lại, nếu em không thích đi, dù Phật tử có khuyên bảo hay bắt ép đến đâu, thì cũng vô ích mà thôi. Chi bằng, tốt hơn hết là Phật tử cứ thản nhiên để cho tự em quyết định lấy.
Phật tử nên biết, tuổi trẻ ở xứ nầy, các em không đi vào con đường xấu xa tội lỗi, thì đó là phước đức lắm rồi. Còn việc đi chùa đối với các em, chúng ta không nên ép buộc.
Làm cha mẹ, chúng ta chỉ nên khuyến khích gây ý thức cho các em, khuyên các em nên gia nhập vào đoàn thể sinh hoạt, như đoàn thể Gia Đình Phật Tử chẳng hạn. Có thế, thì may ra các em mới đến chùa thường xuyên sinh hoạt mà thôi. Vì các em ham vui mà đến.
Đó còn là môi trường sinh hoạt thích hợp với tuổi trẻ năng động của các em. Không phải các em đến chùa, vì lý do tu học hay làm công quả cho chùa như người lớn. Như đã nói, điều nầy còn tùy theo căn duyên nghiệp lực nặng nhẹ của mỗi người.
Qua những điều trình bày góp ý chân thành trên, tôi mong rằng, Phật tử cũng nên cảm thông với đứa con của Phật tử nói riêng và tuổi trẻ ở xứ nầy nói chung. Điều quan trọng là ở nơi Phật tử. Phật tử làm sao chứng minh cho con của Phật tử thấy, việc đi chùa của Phật tử thực sự có tu hành và có cải đổi tâm tánh tiến bộ thực tế.
Tiến bộ từ lời nói đến việc làm. Việc hành xử hòa dịu êm ái đạo đức thật sự của Phật tử, đó chính là tấm gương phản chiếu mạnh vào tâm thức của em. Từ đó, nó sẽ có tác động ảnh hưởng đến con của Phật tử. Vì nó thấy lời nói, thái độ, hành động của Phật tử là người thực sự có tu hành đàng hoàng.
Như vậy, dù Phật tử không khuyên bảo nó, nó vẫn tìm hiểu và biết đâu nó sẽ trở thành người Phật tử chơn chánh sau nầy. Kính chúc Phật tử cố gắng hành thiện vững tiến trên bước đường tu niệm, gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp trong khung trời an lạc hạnh phúc.
63. Treo hình tượng Phật và Bồ tát trên bàn thờ tổ tiên có được không?
Hỏi: Kính bạch thầy, nhà con đã có bàn thờ Phật và cũng có bàn thờ tổ tiên riêng. Nay con muốn treo thêm hình tượng đức Phật và đức Địa Tạng trên tường, tức trên bàn thờ tổ tiên, không biết treo như thế có được không?
Đáp: Cách thiết trí thờ phụng của Phật tử như thế kể ra cũng khá ngăn nắp. Phật tử thiết trí bàn thờ Phật và bàn thờ tổ tiên riêng biệt, điều đó rất tốt. Việc thờ phụng phải cho thành kính trang nghiêm. Điều nầy, còn tùy thuộc vào hoàn cảnh, vị trí không gian của mỗi gia đình mà có sự thiết trí thờ phụng khác nhau.
Trường hợp của Phật tử, tuy đã có bàn thờ Phật rồi, nhưng nay Phật tử lại muốn treo thêm tượng Phật và tượng Bồ tát Địa Tạng trên tường, tức trên bàn thờ tổ tiên. Thật ra, việc làm nầy cũng không có gì là sai trái. Tuy nhiên, theo tôi, nếu ở trong nhà mà Phật tử treo nhiều hình tượng Phật, Bồ tát như thế, thì e rằng sẽ mất đi vẻ thẩm mỹ trang nghiêm. Phật tử đã có thiết lập bàn thờ Phật rồi, như thế cũng là quá đủ. Trong nhà, khung cảnh không gian chật chội nhỏ hẹp, ta chỉ thờ Phật hay Bồ tát ở một nơi trang nghiêm là được rồi.
Như Phật tử đã thấy, hiện nay ở trong các chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc Tông (Phát Triển hay Đại Thừa), phần nhiều người ta cũng chỉ tôn thờ có một tượng đấng Trung Tôn, tức đức Phật Thích Ca ở chính giữa bàn thờ chánh điện. Thờ càng đơn giản càng tốt. Việc tôn thờ như thế, ngoài việc thẩm mỹ trang nhã ra, nó còn tạo cho người ta có điểm lợi là dễ tập trung tư tưởng hơn. Vì khi hành lễ, mình dễ tập trung tinh thần vào một tụ điểm. Phật tử nên biết rằng, Phật Phật đại đồng. Giống như trong nhà của Phật tử tuy có nhiều bóng đèn điện khác nhau, nhưng dòng điện thì chỉ có một.
Xét trên hình thức hay hiện tượng tuy có khác, nhưng thực chất hay bản thể thì không có khác. Vì thế, Phật tử thờ một vị Phật là thờ tất cả chư Phật. Cũng như Phật tử lạy một vị Phật là lạy tất cả mười phương chư Phật. Do đó, thờ một tượng Phật hay Bồ tát có tướng hảo quang minh, khi chúng ta nhìn vào sẽ gây cho chúng ta có một ấn tượng sâu xa và thật dễ chịu an lạc thanh thoát hơn. Còn thờ nhiều tượng mà các tượng không mấy tướng hảo quang minh, thì sẽ gây cho người ta một ấn tượng không mấy tốt đẹp trong sự tôn kính.
Thật ra, tâm lý thông thường của Phật tử chúng ta, cứ nghĩ rằng, thờ nhiều vị Phật, Bồ tát thì sẽ được các Ngài gia hộ độ trì cho chúng ta nhiều hơn. Thờ một vị thì ít quá, e rằng Ngài không đủ sức gia hộ cho gia đình mình. Nên thờ nhiều chừng nào thì tốt cho mình chừng nấy.
Có nhiều Phật tử còn nghĩ rằng, thờ Phật, Bồ tát trong nhà nhiều thì các tà ma quỷ quái yêu tinh, chúng nó không dám xâm nhập vào nhà. Thế nên, trong gia đình sẽ không bị ma quỷ xâm nhập phá phách. Bởi có các Ngài gia hộ che chở trừ tà đuổi quỷ hết rồi. Do đó, nên trong gia đình mọi người lớn nhỏ sẽ được bình yên.
Quả đây là một quan niệm tin tưởng hết sức sai lầm. Thờ Phật, Bồ tát trong nhà, họ xem giống như thờ một vị thần linh. Bắt các Ngài phải có nhiệm vụ bảo hộ che chở cho mọi người trong gia đình. Nếu trong gia đình không may có việc gì xảy ra, thì họ lại trách cứ các Ngài, cho các Ngài là không linh thiêng.
Thử hỏi thờ Phật, Bồ tát với quan niệm tin tưởng như thế, thì có còn xứng danh là Phật tử nữa hay không? Hay chỉ là một người đang tin tưởng theo lối tà đạo thần quyền, dù mệnh danh mình là Phật tử. Nếu ai có quan niệm tin tưởng như thế, thì hãy mau điều chỉnh hoán cải lại niềm tin của mình. Vì tin như thế, thật là quá mê tín. Ai có tâm niệm như thế, thì hãy mau dứt khoát trừ bỏ ngay. Nếu không, thì sẽ mang trọng tội với các Ngài.
Thờ Phật, Bồ tát trong nhà, cốt để cho chúng ta noi theo tấm gương trong sáng cao cả qua những công hạnh tu hành giải thoát của các Ngài. Hằng ngày chúng ta ra vô trông thấy hình tượng của các Ngài, như thầm nhắc nhở chúng ta phải nên cố gắng siêng năng tu hành.
Chúng ta nên bắt chước tập tành làm theo, những gì mà chư Phật, Bồ tát đã chỉ dạy. Thờ Phật, Bồ tát như thế thì mới đúng ý nghĩa và mới thật sự có lợi ích thiết thực trong đời sống thực tế hằng ngày.
Tóm lại, những điều trình bày khái yếu trên đây, chúng tôi chỉ xin được nêu ra góp chút thành ý trong việc thờ phụng cho đúng cách theo tinh thần Phật Tổ chỉ dạy. Nhất là đối với người Phật tử, nếu không thờ thì thôi, khi đã tôn thờ thì chúng ta phải học hỏi và phải có quan niệm thực tiễn thờ cho đúng pháp. Có thế, thì việc thờ Phật hay Bồ tát của chúng ta, mới không sai lầm và mới thật sự có lợi ích thiết thực vậy.
64. Cha mẹ còn sống con có nên thờ Cửu huyền Thất tổ hay không?
Hỏi: Kính bạch thầy, nhà con có thờ Phật. Hiện nay, cha mẹ con vẫn còn sống và ông bà có thiết lập bàn thờ bên nội, bên ngoại. Nhưng có người bảo con phải thờ thêm Cửu huyền Thất tổ nữa mới đúng. Như vậy, con có nên thờ thêm hay không?
Đáp: Việc thờ phụng tổ tiên ông bà là một phong tục tập quán cổ truyền của người Việt Nam chúng ta. Đây cũng còn là một truyền thống văn hóa hiếu đạo rất cao đẹp tuyệt vời của dân tộc ta. Vì dân tộc ta rất chú trọng đến việc lễ nghi thờ phụng, nhất là đối với vấn đề tri ân và báo ân. “Uống nước nhớ nguồn, hay ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây”.
Đó là những lời khuyến nhắc răn dạy của tổ tiên. Đạo làm con bao giờ chúng ta cũng phải nhớ đến cội nguồn. Cội nguồn đó là tổ tiên, ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ là những người đã dầy công giáo dưỡng chúng ta khôn lớn nên người.
Thế nên, bổn phận làm con chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ công ơn sanh thành giáo dưỡng của ông bà cha mẹ hầu để lo báo đáp thâm ân trong muôn một. Bởi đó là một công lao to lớn mà ở thế gian nầy không gì có thể so sánh được.
Theo nguồn gốc hiếu đạo, có tổ tiên mới sanh ra ông bà và có ông bà mới sanh ra cha mẹ. Vì thế, đối với con cái phải lo phụng dưỡng ông bà cha mẹ khi còn sống và phải tôn thờ cúng kỵ khi người đã khuất bóng. Đó là bổn phận của đạo làm con. Trong trường hợp của Phật tử, hiện cha mẹ còn sanh tiền, vả lại ông bà cũng có thờ phụng tổ tiên ông bà nội ngoại hai bên, như vậy, theo tôi, nếu như Phật tử muốn thờ thì cần phải hỏi ý kiến của cha mẹ trước.
Đừng vì nghe người ta nói mà mình vội làm theo. Người xưa nói: “áo mặc sao qua khỏi đầu”. Đối với việc thờ cúng tổ tiên ông bà, Phật tử không nên tự động làm theo ý mình, khi mà cha mẹ còn sống. Trước khi muốn thờ, Phật tử cần phải thưa qua cho cha mẹ biết và phải được sự đồng ý cho phép của ông bà. Thế mới phải đạo làm con.
Còn người nào đó bày vẽ cho Phật tử, có thể là vì họ chưa biết Phật tử còn cha mẹ. Hoặc giả như họ có biết đi chăng nữa, nhưng thiết nghĩ, họ cũng chưa rành mấy về việc lễ nghi, nhất là về cách thức thờ phụng tổ tiên. Tại sao lại phải thờ cửu huyền, trong khi cha mẹ mình vẫn còn sống? Thông thường, người ta hay nói thờ Cửu huyền Thất tổ.
Có đôi khi người ta cũng chưa hiểu rõ bốn chữ nầy như thế nào. Riêng hai chữ cửu huyền, thú thật, từ trước tới nay, chúng tôi đã tra cứu trong các quyển tự điển Phật học và Hán tự, nhưng không thấy chỗ nào có nêu ra hai chữ nầy cả. Chỉ thấy trong quyển Từ Điển Hán Việt Từ Nguyên của ông Bửu Kế và quyển Hán Việt Từ Điển của ông Đào Duy Anh, cả hai chỉ có nêu ra hai chữ cửu tộc và giải thích mà thôi. Tuyệt nhiên, không thấy có nêu ra hai chữ cửu huyền.
Theo trong Từ Điển Hán Việt Từ Nguyên của ông Bửu Kế, Nhà xuất bản Thuận Hóa, ở trang 328 giải thích, thì cửu tộc có nghĩa là chín lớp người trong một họ. 1. bản thân. 2. Cha. 3. Con. 4. Ông nội. 5. Cháu nội. 6. Ông cố. 7. Cháu tằng tôn. 8. Ông sơ. 9. Cháu huyền tôn.
Ông còn nói thêm, có thuyết cho rằng: Cửu tộc gồm có: Họ nội 4, họ ngoại 3 và họ vợ 2. Căn cứ theo sự giải thích trên, thì tính từ bản thân mình trở lên gồm có 4 đời hay nói đúng hơn là trải qua 4 thế hệ: Cha, Ông nội, Ông cố, Ông sơ. Trở xuống 4 đời: Con, Cháu, Chắt, Chít. Tính luôn mình chung lại là 9 đời hay 9 thế hệ. Chữ huyền có nghĩa là sợi dây nối kết trải qua nhiều đời (chữ huyền có nhiều chỗ giải thích khác nhau).
Nếu phiên âm bằng chữ Hán thì được viết như sau: Cao, Tằng, Tổ, Khảo, Kỷ, Tử, Tôn, Tằng, Huyền. Còn nói Thất tổ gồm có: Cao, tằng, tổ, cao cao, tằng tằng, tổ tổ, cao tổ. Song có điều, riêng tôi vẫn còn thắc mắc thật sự chưa hiểu rõ: nếu chúng ta thờ cửu huyền trải qua chín đời như thế, thì thờ 4 đời trở lên không có gì phải nói. Nhưng nếu tính từ đời mình trở xuống mà thờ, thì thú thật tôi không thể hiểu được.
Ở đây, tôi không dám cho việc thờ nầy là phi lý, vì tôi vẫn luôn tôn trọng ý tưởng đặt định của người xưa. Nhưng tôi rất thắc mắc về việc thờ phụng nầy. Vì chả lẽ mình lại thờ mình và thờ con cháu mình. Thậm chí, mình chưa có chắt, chít, thì lấy đâu mà thờ?
Thông thường, ở trong các gia đình người Việt chúng ta, chúng tôi chỉ thấy phần nhiều người ta chỉ thiết lập bàn thờ tổ tiên, ông bà, chớ ít có ai viết chữ để là thờ Cửu huyền Thất tổ. Bốn chữ nầy, chúng tôi thấy trong quyển sách: “Sự Lý Dung Thông” bằng chữ Hán của Thiền sư Hương Hải và được Tiến sĩ Lê Mạnh Thát đã dầy công biên khảo và dịch lại, cho in chung trong Toàn Tập Minh Châu Hương Hải (Nhà Xuất bản TP. HCM, 2000) . Trong đó có hai câu thơ:
Thích độ nhân miễn tam đồ khổ
Thoát cửu huyền thất tổ siêu phương.
Ý nói giáo lý của đức Phật Thích Ca nhằm hóa độ chúng sanh thoát khỏi ba đường khổ: địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh, đồng thời, cũng có khả năng cứu thoát cửu huyền thất tổ được siêu thăng. Ngoài ra, chúng tôi không còn thấy ở chỗ nào khác.
Có thể là do sự tra cứu học hỏi của chúng tôi còn nông cạn hạn hẹp. Vấn đề nầy, xin được miễn bàn thêm, vì không phải lý do nghiên cứu ở đây. Chúng tôi chỉ xin nêu ra giải thích đôi điều để cho Phật tử biết sơ qua về cửu huyền thất tổ có liên quan đến việc thờ phụng mà Phật tử đã hỏi, thế thôi.
Tóm lại, tôi xin góp ý đề nghị với Phật tử, nếu như Phật tử muốn thờ, thì nên hỏi qua ý kiến cha mẹ của Phật tử trước. Thử xem ông bà nói sao. Sau đó, Phật tử mới có quyết định. Như thế, thiết nghĩ cũng không phải là muộn và như thế sẽ được thuận thảo tốt đẹp cả hai. Phật tử không nên nghe người ta bày ra rồi mình tự động làm theo. Một việc làm mà mình không hiểu rõ ý nghĩa của việc mình làm, chỉ thấy xưa bày nay bắt chước, thì điều đó cũng không đúng lắm. Kính chúc Phật tử chóng đạt thành sở nguyện.
65. Làm sao cho đứa con hướng về Tam bảo và sự cầu nguyện hồi hướng có tác dụng lợi ích hay không?
Hỏi: Kính bạch thầy, con có hai câu hỏi kính mong thầy giải đáp:
1. Mấy đứa con của con đều có tâm từ biết làm phước, bố thí, nhưng chúng nó chưa có hướng tâm về Tam bảo. Điều mà con mong muốn cho chúng nó nên hướng lòng về Tam bảo để lo tu niệm, nhưng không có đứa nào làm theo như ý muốn của con. Có phải đó là do căn duyên của chúng nó không? Và con phải làm sao?
2. Con có đứa con bị mang tật bẩm sinh và một đứa ham mê cờ bạc, con nghĩ đây cũng là do nghiệp duyên của nó, nên mỗi khi tụng kinh, niệm Phật, thì con đều hồi hướng công đức về cho chúng nó. Xin hỏi, như vậy có lợi lạc gì cho chúng nó không?
Đáp: Tôi rất cảm thông nỗi lòng đau khổ của Phật tử và hơn thế nữa, với tâm tư sầu muộn lo âu trong trách nhiệm bổn phận của một người mẹ. Tôi xin được chia sẻ góp chút thành ý với Phật tử qua hai câu hỏi đã nêu trên.
1. Việc bố thí làm phước của các đứa con của Phật tử, thật đó là điều đáng khen ngợi vui mừng. Nếu các em không có thiện căn biết thương yêu người, thì làm gì các em có thể biết hành thiện như thế. Đó cũng là do nhiều đời các em đã có huân tập hạt giống lành vào trong tâm điền, nên nay các em mới có được phát tâm như thế. Phật tử chỉ nên khuyến khích các em cố gắng tu tạo thêm phước đức để được lợi mình và lợi người.
Đó là điều cần khích lệ cho các em. Khích lệ chớ không phải là bắt buộc. Có nhiều người vì muốn cho con mình có phước, nên thường bảo các em phải cúng dường, bố thí v.v… Điều nầy, tất nhiên là có ý tốt, nhưng việc làm từ thiện không nên ép buộc. Có đôi khi, Phật tử sẽ bị phản tác dụng, gây nên tình trạng không mấy tốt đẹp giữa tình mẹ con với nhau. Tốt hơn hết, là hãy để cho các em tự ý thức và phát tâm lấy.
Còn việc Phật tử nói, các em chưa hướng tâm về Tam bảo, theo ý của Phật tử mong muốn các em phải hướng về Tam bảo như thế nào? Có phải là các em nên đến chùa quy y thọ giới hay phải đi chùa thường xuyên hoặc là hằng đêm phải lễ bái tụng niệm v.v…
Điều nầy, theo tôi, Phật tử không nên mong muốn những gì ngoài khả năng tầm tay của mình. Việc hướng lòng về Tam bảo tu hành còn tùy thuộc vào căn duyên chủng tánh của mỗi người. Không phải ai cũng có thể làm được. Nếu người đó thiếu căn lành với Phật pháp, thì dù mình có muốn cho họ thọ giới quy y hay đi chùa nghe kinh, tụng niệm, lễ bái… đâu phải là chuyện dễ làm.
Thật ra, làm cha mẹ ai cũng mong muốn cho con mình đi theo con đường chánh giáo đạo đức tốt đẹp, chớ không ai muốn cho con mình phải hư hỏng lầm đường lạc lối, đi vào con đường tà giáo tội lỗi. Nhưng xin thưa với Phật tử, không phải cái gì mình muốn là được hết đâu. Muốn là một chuyện còn được hay không lại là chuyện khác. Nếu muốn cái gì cũng toại nguyện theo ý mình hết, thì cõi đời nầy chắc không còn một ai phải chịu nhiều đau khổ nữa.
Vì mọi việc đều theo ý mình muốn hết rồi. Muốn trúng số độc đắc bạc triệu để mau làm giàu, mua vé số là trúng liền. Như thế, thì trần gian nầy sẽ trở thành cõi huỳnh kim thiên đường hạnh phúc. Người ta sở dĩ đau khổ thất vọng nhiều, chính là do những điều mong muốn mà không được toại ý. Đây là một trong tám nỗi khổ lớn của con người, đó là “cầu bất đắc khổ”.
Tại sao Phật tử lại bắt chúng nó phải theo ý của Phật tử? Nếu thế, thì chúng nó sẽ cho Phật tử là một người độc tài độc đoán. Nhứt nhứt cái gì cũng phải theo ý của Phật tử hết. Như thế, thì không nên. Vả lại, ở cái xứ sở văn minh vật chất máy móc khoa học kỹ thuật tân tiến nầy làm gì có chuyện đó. Còn lâu chúng nó mới nghe theo ý mình hết. Chính cái ý niệm mong muốn đó là nguyên nhân đưa đến cho Phật tử phải đau khổ.
Hẳn Phật tử còn nhớ câu người xưa nói: “Sanh tử bất sanh tâm, sanh ngưu bất sanh giác”. Phật tử chỉ có thể sanh được cái hình hài thể xác của chúng nó thôi, chớ làm sao sanh được cái lòng dạ của chúng nó. Nghĩa là chúng nó muốn cái gì, suy tính nghĩ ngợi điều gì, thử hỏi làm sao Phật tử có thể hiểu biết hết được? Phật tử nên nhớ, tư tưởng và quan niệm sống của mỗi người mỗi khác, không ai giống ai.
Mình không nên bắt buộc người khác phải làm theo ý mình. Nếu thế, thì còn gì là tinh thần tự do, độc lập và làm sao phát triển tư tưởng theo chiều hướng tiến bộ được? Chả lẽ Phật tử muốn cho con của Phật tử có những tư tưởng thoái hóa lạc hậu hay sao?
Xưa kia, đức Phật khi thuyết pháp độ sanh, Ngài không bao giờ bắt buộc ai phải theo đạo của Ngài. Chủ trương của đạo Phật từ xưa tới nay và có thể nói mãi mãi về sau cũng thế. Đạo Phật không bao giờ khuyến dụ hay bắt buộc một ai theo đạo Phật cả. Vì đạo Phật lúc nào và bao giờ cũng tôn trọng quyền tự do tin tưởng chọn lựa quyết định của con người.
Đức Phật chỉ đóng vai trò của một vị Đạo Sư chỉ đường vạch bày hướng đi mà thôi. Phật chỉ rõ con đường nào đau khổ và con đường nào dẫn đến hoàn toàn an lạc hạnh phúc, rồi từ đó để cho mỗi người tự do quyết định chọn lựa lấy. Đi hay không là phần trách nhiệm của mỗi cá nhân, tuyệt đối, không bắt buộc ai cả.
Tôi thành thật khuyên Phật tử hãy để cho chúng nó tự quyết định chọn lấy con đường mà chúng nó thấy thích hợp. Chúng ta hãy tôn trọng quyền tự do tư tưởng của mỗi người. Vì điều nầy nó có tác dụng ảnh hưởng cả cuộc đời tinh thần của chúng nó sau nầy.
Bổn phận làm mẹ mình chỉ có nhiệm vụ phân tích cân nhắc việc lợi và hại của những vấn đề tốt xấu, thiện ác, hay dở v.v… theo luật nhân quả và nghiệp báo. Từ đó, để tự chúng nó ý thức quyết định chọn lấy. Mình không nên xen vào việc quyết định của chúng nó. Điều tối kỵ, là mình không nên bắt chúng nó phải làm rập khuôn giống hệt theo ý mình.
Nói về việc tu hành như ở những câu trả lời của một vài câu hỏi trên, chúng tôi cũng đã có nói sơ qua. Nếu luận về sự tu hành, thì không nhứt thiết là chúng ta phải đi chùa mới gọi là tu. Tu nghĩa là sửa đổi. Sửa những điều xấu xa, hư tệ, hung dữ v.v… trở thành những điều tốt đẹp, hiền lương, thiện mỹ cả thân lẫn tâm. Hiểu thế, thì ở bất cứ nơi đâu hay trong hoàn cảnh thuận nghịch nào mình cũng có thể tu hành được cả. Điều quan trọng là mình có ý chí cương quyết thực sự tu hay không mà thôi.
Ở đời, càng mong muốn thì lại càng đau khổ. Nhất là những điều mong muốn đó ngoài khả năng tầm tay của mình. Mong Phật tử không nên mong muốn những gì ngoài ý lực khả năng của mình.
2. Việc Phật tử tụng kinh niệm Phật cầu nguyện cho đứa con hư hỏng hiện đam mê trụy lạc vào con đường bài bạc, thật ra, việc cầu nguyện hồi hướng đó, tuy không phải là hoàn toàn không có ảnh hưởng, nhưng chỉ có được chút ít nhỏ nhoi phần nào thôi. Điều quan trọng là phải chính ở nơi đứa con đó. Làm sao cho nó phải tự thức tỉnh, cai nghiện bài bạc, thì nó mới hết khổ được.
Nếu cầu nguyện được hết, thì thế gian nầy, chắc không còn ai đau khổ nữa cả. Nghĩa là không còn một ai phải chịu đau khổ vì những vấn nạn nghiện ngập bài bạc, rượu chè say sưa, hút chích xì ke ma túy. Nói tóm lại, là xã hội sẽ không còn những tội phạm gây nên những thảm họa và bị tù đày đau khổ như hiện nay. Và thế giới loài người sẽ trở thành một thế giới Cực lạc hết rồi.
Thiết nghĩ, là người Phật tử tu học chơn chánh, chúng ta cần phải tu tập hiện thực, không nên cái gì cũng tin tưởng hoàn toàn ỷ lại vào chư Phật, Bồ tát hết. Vì chư Phật, Bồ tát các Ngài cũng phải nỗ lực quán chiếu tự tu hành không ngừng, nên các Ngài mới thành tựu được đạo quả. Tuyệt đối, không ai tu thế cho ai, vì không thể người nầy ăn mà người khác no bụng được.
Ai tu nấy thành ai hành nấy đắc. Nguyên tắc xưa nay là như thế. Còn việc cầu nguyện mong các Ngài gia hộ, đó là điều trợ duyên giúp sức phần nào thôi, chớ không phải đó là nguyên nhân chánh yếu. Mà việc chánh yếu là mỗi người phải tự tỉnh ngộ lo tu hành chuyển hóa hết vô minh phiền não, những tập khí xấu ác đầy dẫy trong tâm thức, có thế thì mới mong được hoàn toàn giải thoát vậy.
Sự có mặt của chúng ta ở đời, là do báo nghiệp mà chúng ta đã gây tạo từ trước. Do đó, nên mỗi người có mỗi báo thân tốt xấu và hoàn cảnh sống khác nhau. Trường hợp đứa con bị khuyết tật bẩm sinh của Phật tử cũng thế. Đó là do nghiệp quả của em. Theo luật nhân quả, tất cả khổ vui đều do mình tạo lấy. Làm lành làm dữ cuối cùng rồi cũng phải trả. Hiểu thế, thì chúng ta nên an vui mà trả nghiệp. Trong truyện Kiều có câu:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa..”
Tóm lại, việc thành tâm cầu nguyện của Phật tử chỉ giúp được một phần nhỏ nhoi nào đó thôi, điều quan trọng là đương sự phải ý thức tự từ bỏ cái thói hư tật xấu nghiện ngập của chính mình. Không ai cứu thoát mình, mà chính mình phải tự cứu thoát lấy mình. Có thế, thì mới mong tiêu nghiệp hết khổ được. Bằng trái lại, không có một bàn tay thần thánh nào cứu thoát mình được cả.
Đạo Phật hướng dẫn chỉ dạy cho con người rất ích lợi thực tế trong đời sống. Nếu con người y theo đó mà thật hành. Phải dựa trên nền tảng của triết lý duyên sinh, nhân quả, nghiệp báo, luân hồi, mà Phật Tổ đã chỉ dạy. Đó là những triết lý đạo đức căn bản nhằm xây dựng đời sống hướng thượng tròn phẩm cách của một con người. Nếu người Phật tử chịu khó áp dụng hành trì theo nguyên lý đạo đức căn bản qua 5 giới cấm của đạo Phật, thì chắc chắn người Phật tử sẽ không còn đau khổ nữa.
Phật tử một mặt nên thành tâm cầu nguyện, mặt khác và thực tế cụ thể hơn, là nên tìm mọi phương cách để giúp đỡ cho đứa con của mình sớm được cai nghiện cờ bạc. Xin nhắc lại, nếu mọi việc cầu nguyện đều theo như ý mình muốn hết, thì trần gian nầy chắc không ai dại khờ gì mà tu hành chi cho nó khổ sở mệt xác.
Vì tất cả đều có chư Phật, Bồ tát lo hộ độ cho mình hết rồi. Nghĩa là ta muốn cái gì được cái nấy. Hiểu đạo Phật theo kiểu đó, tức vô tình ta mắc phải cái tội là dìm đạo Phật vào con đường mê tín. Kính mong Phật tử lưu ý điều nầy. Kính chúc Phật tử thân tâm thường lạc, trí huệ sáng suốt, nghị lực dồi dào để vượt qua mọi chướng duyên thử thách trên bước đường tu học Phật pháp.
66. Tụng kinh cầu siêu có ảnh hưởng đến người mất đã lâu không?
Hỏi: Thưa thầy, con có người anh và một người em, người anh chết vì chiến tranh, còn người em thì chết khi tuổi còn nhỏ. Đối với người em vì tuổi quá nhỏ, nên trong gia đình không có cầu siêu cúng kiến chi hết. Nay hiểu ra, nên con tụng kinh cầu siêu cho họ. Không biết việc tụng niệm cầu siêu của con có ảnh hưởng gì đến người chết hay không? Kính mong thầy giải đáp cho con rõ. Cám ơn thầy.
Đáp: Như trên chúng tôi đã có nói, việc cầu nguyện đương nhiên là có ảnh hưởng. Dù người mất đã lâu, nếu chúng ta thành tâm tụng niệm hồi hướng công đức về cho các hương linh đó, thì chắc chắn lời cầu nguyện của chúng ta sẽ có tác dụng ảnh hưởng đến họ.
Tuy nhiên, sự ảnh hưởng nầy là một trợ duyên có thể giúp phần nào cho họ sớm hồi tâm chuyển ý hướng về con đường tu niệm. Nhưng với điều kiện là người cầu nguyện phải hết sức thành tâm tha thiết trong khi hành thiện. Như niệm Phật, tụng kinh hay làm mọi việc lành khác. Điều nầy sẽ có ảnh hưởng là đánh động được tâm thức của họ. Chớ không phải do những lời cầu nguyện hồi hướng nầy mà họ được siêu thoát.
Việc nầy, có lần chúng tôi cũng có đề cập đến trường hợp của bà Mục Liên Thanh Đề ở trong 100 câu hỏi Phật pháp tập một. Muốn biết rõ thêm, xin Phật tử hãy tìm đọc lại 100 câu hỏi tập một ở trang 68 mục 27 nói về việc cầu nguyện có siêu độ hay không.
Tôi thành thật khuyên Phật tử cứ tiếp tục tụng kinh, niệm Phật và hành thiện để hồi hướng công đức về cho các hương linh quá cố, dù mới hay cũ, dù lớn hay nhỏ gì cũng đều được dự phần lợi ích cả. Ngoài việc cầu nguyện cho những vong linh trong thân thuộc của mình, Phật tử cũng nên cầu nguyện cho các vong hồn yểu tử trong pháp giới chúng sanh chóng được siêu sanh thoát hóa. Việc làm nầy, trước tiên là lợi lạc cho Phật tử rất nhiều và cũng đem lại sự lợi lạc phần nào cho các vong linh nữa. Đó là một việc làm đúng theo tinh thần tự lợi, lợi tha của người Phật tử. Cầu nguyện cho Phật tử được dồi dào sức khỏe và luôn tinh tấn tu hành để được an lạc giải thoát.
67. Khuyên thân nhân tu học, bị phản ứng phải làm sao?
Hỏi: Kính bạch thầy, khi biết tu học rồi, con thấy cuộc đời con bớt khổ hơn. Do đó, nên con muốn khuyến khích thân nhân của con biết tu học và được lợi ích như con. Nhưng con lại gặp phản ứng dữ dội và họ cho rằng con bị mù quáng, mê tín, đôi khi họ còn phỉ báng nhiều điều khó nói.
Họ còn dẫn chứng những sự việc tiêu cực trong nhà chùa. Vì con sợ họ sẽ bị tội nên con dừng lại, không dám đề cập đến việc khuyên họ nữa. Trường hợp như thế, kính xin thầy cho con lời khuyên dạy để cho con được hiểu rõ hơn và phải làm sao?
Đáp: Trước hết, tôi xin thành thật chúc mừng cho Phật tử đã có chút ít tiến bộ trong việc tu hành. Vì đã có phần nào an lạc bớt khổ hơn trước khi chưa tu. Không tu thì thôi, mà hễ tu thì đương nhiên là chúng ta sẽ có ít nhiều kết quả lợi lạc. Và đời ta dĩ nhiên sẽ bớt khổ đau nhiều hơn.
Đó là một sự thật. Nếu tu hành mà không được lợi lạc tiến bộ, thì chắc không ai bỏ công sức để tu hành làm gì. Theo luật nhân quả, hễ gây nhân tốt thì chúng ta sẽ gặt hái quả tốt. Ngược lại cũng thế. Vì vậy, chúng ta nên cố gắng gia công nỗ lực tu hành làm lành lánh dữ nhiều hơn nữa.
Phật tử tuy có tấm lòng vị tha nhân ái rất tốt, nhưng rất tiếc, Phật tử hơi vội nóng lòng muốn cho người khác, nhất là trong thân nhân ruột thịt của mình, cũng nên tu học để được lợi ích như mình. Do đó, nên Phật tử mới bị phản ứng dữ dội. Muốn tu tập theo hạnh Bồ tát thì Phật tử phải nên cố gắng gìn lòng an nhẫn.
Có gặp chướng duyên thử thách như thế, thì mới đánh giá được sức tu tập nhẫn nại của mình. Song có điều, Phật tử nên nhớ rằng, căn duyên nghiệp quả của mỗi người mỗi khác nhau. Dù đó là thân nhân ruột thịt của mình cũng không ai giống ai. Vì mỗi người có những huân tập nghiệp tánh khác nhau. Sở dĩ có sự khác biệt nầy, phần lớn là do những tập khí đã được huân tập trong nhiều đời, nay trở thành thói quen sâu nặng và hiện hành trong hiện tại.
Đồng thời, cũng do sự hấp thụ huân tập bởi những môi trường sống chung quanh, tùy theo mỗi thời đại mà sự huân tập có khác nhau. Từ đó, mỗi người có những quan niệm, kiến thức, nhận định cách nhìn qua những vấn đề khác nhau.
Khi khuyên bảo ai tu hành hay làm những việc từ thiện, Phật tử nên dè dặt cẩn thận. Vì Phật tử chưa phải là người có đầy đủ khả năng kinh nghiệm trong lãnh vực của đời sống tâm linh. Cũng như chưa thật sự nắm vững những hệ thống giáo lý Phật pháp mà mình đang hướng lòng tu học. Chẳng qua Phật tử cũng chỉ là người đang tập sự trên bước đường tu học mà thôi.
Do đó, muốn khuyên bảo chuyển hóa người khác theo hướng tu học của mình, ít ra, mình cũng phải có khả năng thông hiểu phần nào trong lãnh vực nầy. Nhất là phần đạo hạnh chân thật ở nơi chính mình. Hiện tướng của phần đạo đức nầy, được thể hiện qua những phong cách như: lời nói, giao tiếp, xử sự, hành động v.v… Phải chứng minh thật sự mình là người có đạo đức chân thật.
Được thế, thì dù Phật tử không khuyên, người ta cũng sẽ tự tìm hiểu tu hành như Phật tử. Hãy để cho người ta tự tìm hiểu là tốt hơn. Phật tử nên nhớ rằng, giáo pháp Phật dạy có vô lượng pháp môn tu. Không phải vì người ta không đi chùa, hay ăn chay, tụng kinh, lễ bái giống như mình, mà mình vội cho họ là người không biết tu hành. Chúng ta không nên vội kết luận như thế.
Tuy người ta không tu áp dụng giống như pháp môn của mình, nhưng biết đâu người ta đang hành trì ứng dụng một pháp môn tu khác. Thậm chí, người ta không theo một pháp môn nào hết, nhưng hằng ngày người ta vẫn tu tỉnh tự sửa lấy mình, như thế cũng là tốt lắm rồi. Vả lại, người mình khuyên, có chắc là họ đã quy y trở thành người Phật tử giống như mình hay không?
Đừng bao giờ thấy người ta tu không giống mình, rồi mình vội vã cho rằng người đó không biết tu. Như những câu hỏi trên trong tập sách nầy, chúng tôi cũng đã có nói sơ qua về chữ tu. Tu có nghĩa là sửa đổi. Chúng ta thấy, có người tuy họ không đi chùa ngày nào, nhưng mà ở nhà họ vẫn tu tâm sửa tánh rất kỹ lưỡng.
Thế thì, mình cho họ là người không biết tu hành hay sao? Kết luận vội vã như thế, e rằng không khéo chúng ta sẽ mắc phải cái lỗi là quá nông cạn hàm hồ. Ngược lại, có người khuyên người khác tu hành, nhưng nhìn lại bản thân của họ, thực sự họ chưa chứng minh được điều đó. Vì vậy, nên người ta khó có thể cảm thông và tin theo lời khuyên bảo của họ.
Đó không phải là lỗi của người mình khuyên mà chính là lỗi ở nơi người khuyên. Người xưa nói: “Con đường thành công nhứt trên đường đời là bạn hãy thật hành những gì mà bạn thường khuyên bảo kẻ khác”. Khuyên người ta ăn chay, mà bản thân mình chưa từng ăn một bữa nào. Khuyên người ta tụng kinh niệm Phật mà bản thân mình chưa thật hành tụng một thời kinh niệm Phật nào. Như vậy, lời khuyên đó thật là hư rỗng chẳng có mang lại bổ ích gì!
Trường hợp khác, cũng có người vì nghĩ tình thân thuộc trong gia đình, nên khi khuyên bảo người thân, họ không cẩn thận ở nơi lời nói, thốt ra những lời lẽ kém nhã nhặn ôn hòa, từ đó gây nên tình trạng bất hòa tranh cãi với nhau. Biến lời khuyên trở thành một cuộc tranh chấp cãi vả hơn thua với nhau kịch liệt. Rốt cuộc, cả hai đều chuốc lấy phiền muộn nặng nề và rồi mất đi tình thương yêu tương kính với nhau.
Đây quả là một tai hại vô cùng. Tuy cái nhân ban đầu là tốt, nhưng vì thiếu chánh niệm chăm sóc cẩn thận ở nơi lời nói hay thái độ, nên hậu quả trở thành tồi tệ xấu xa như thế. Cho nên lòng tốt của mình khi thể hiện cũng phải đặt định cho đúng chỗ, đúng nơi. Và khi khuyên ai tu hành, ta phải hết sức cẩn trọng và phải biết dừng lại khi cần thiết. Những điều trình bày trên, chúng tôi chỉ muốn đóng góp chút ít thành ý chung, trong vấn đề khuyên bảo người khác tu học như mình.
Trở lại trường hợp của Phật tử, như Phật tử đã nói, khuyên những người thân tu hành để cho họ được lợi ích. Chẳng những họ không nghe theo, mà họ còn chống đối kích bác. Quả thật lời khuyên của Phật tử thật không có tác dụng lợi ích chi cả. Thậm chí, họ còn cho Phật tử là mê tín mù quáng. Ngoài ra, họ còn dùng những lời lẽ công kích mạt sát thậm tệ mà Phật tử không thể nói ra hết được.
Đối với những người nầy, theo tôi, thì chúng ta chẳng những không nên trách móc họ, mà trái lại ta còn phải thông cảm và thương họ nhiều hơn. Bởi vì chủng tánh, nghiệp thức vô minh của họ còn quá sâu dầy. Vì thế, nên họ chưa có cơ hội tiếp xúc để học hỏi Phật pháp. Do đó, nên họ mới có những lời lẽ thiếu nhã nhặn và chống đối Phật tử. Đó là vì họ chưa học hỏi biết cách sử dụng hai phương pháp: “Lắng nghe và ái ngữ” của Phật giáo đó thôi.
Phật tử nên nhớ, khi khuyên ai, chúng ta cũng nên tìm hiểu sơ qua về nếp sống, cá tánh, khuynh hướng, tôn giáo, của đối tượng mà ta khuyên. Lời khuyên tuy hợp lý, nhưng không phù hợp căn cơ, thì lời khuyên đó sẽ trở nên thất bại vô hiệu quả. Đôi khi còn bị phản tác dụng và gây nên sự tranh luận hơn thua với nhau, như Phật tử đã nói.
Hạt giống tuy rất tốt, nhưng gieo không đúng đất thích hợp, thì hạt giống kia tất sẽ bị thui chột đi. Muốn gieo hạt giống tốt, ta cần phải chọn lựa môi trường thích hợp. Không nên đụng đâu gieo đó, chẳng những không kết quả, mà còn bị thiệt hại nữa. Việc nầy, Phật tử muốn khuyên ai tu hành như mình, phải nên hết sức thận trọng.
Tuy nhiên, biết đâu lời khuyên của Phật tử tuy không có hiệu quả hiện thực, nhưng chính đó lại là hạt giống tốt gieo vào tâm điền của họ. Mong rằng, một lúc nào đó, khi họ gặp những điều bất trắc xảy ra không may, bấy giờ, họ mới trực nhớ lại lời khuyên bảo chí tình hợp lý của Phật tử.
Và chừng đó, biết đâu họ sẽ làm theo những điều mà Phật tử đã hết lòng khuyên bảo họ. Như thế, thì sự khuyên bảo của Phật tử, thiết nghĩ cũng không bị thiệt thòi lỗ lã chi cả. Xin Phật tử chớ nên buồn phiền mà có ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe và cho sự tu hành của mình.
Kính chúc Phật tử luôn an nhẫn mãi mãi tiến bộ và gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp trên bước đường tu học Phật pháp.
68. Đã lỡ phạm tội sát hại sinh vật nhiều quá giờ phải làm sao?
Hỏi: Thưa thầy, hồi còn nhỏ, mỗi lần Tết đến con có luộc hột vịt lộn để bán. Vì còn nhỏ và không biết đạo nên con đã lỡ phạm giới sát sanh nhiều quá. Nay già rồi và biết đạo nên con rất sợ nghiệp sát, và hiện nay con đã bị đủ thứ chứng bịnh. Thưa thầy, lúc nào con cũng cố gắng bố thí, làm phước, phóng sanh.
Con vừa chứng kiến người bạn bị vô thường tới quá bất ngờ, nên con như người tỉnh mộng, có ý định xuất gia, nhưng con không có sức khỏe nên sợ tu không được. Xin thầy từ bi chỉ dạy cho con phải làm thế nào? Con thành kính tri ân thầy mãi mãi.
Đáp: Phật tử đã có lòng cải hối ăn năn những lỗi lầm đã phạm phải trong quá khứ, như thế, thì thật là quá tốt và rất hiếm có. Tuy rằng, theo luật nhân quả đã có gây nhân, tất nhiên là phải có trả quả. Thế nhưng, luật nhân quả không phải cứng nhắc như thế. Mà nhân quả luôn luôn linh động và uyển chuyển. Vì từ nhân tới quả, còn phải tùy duyên.
Nghĩa là, nó còn phải tùy thuộc vào những điều kiện phụ thuộc tốt hay xấu. Đó gọi là những yếu tố trợ duyên giúp cho cái chánh nhân được hình thành. Nếu là những trợ duyên tốt, thì cái chánh nhân kia sẽ dẫn đến cái quả báo tốt đẹp. Ngược lại, thì phải lãnh lấy cái quả báo xấu xa. Do đó, nên nói tu hành là chuyển nghiệp. Nếu nghiệp không chuyển được, thì thử hỏi chúng ta gia công nỗ lực tu hành để làm gì? Nhờ có chuyển được nghiệp, nên chúng ta mới tu và mới được giải thoát.
Trường hợp của Phật tử, thiết nghĩ, Phật tử cũng không đến nỗi phải ưu tư lo lắng lắm. Vì sự sát hại sinh vật của Phật tử tuy rằng cũng khá nhiều, nhưng việc đó ít có mấy ai tránh khỏi. Thật ra, chủ yếu của giới thứ nhứt, Phật dạy người Phật tử không được tự ý sát hại sinh vật. Nhưng chủ ý chính là Phật muốn ngăn cấm chúng ta không được giết hại sinh mạng con người.
Vì sinh mạng của con người rất lớn và rất quan trọng, so với những loài sinh vật khác. Từ không được giết người rồi hạ thấp lần xuống, đến những loài sinh vật nhỏ nhít khác, Phật tử giữ được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu. Vì sự sinh tồn bảo vệ mạng sống của mình, tất nhiên, mình không thể nào tránh khỏi sự sát hại những loài sinh vật nhỏ nhít khác.
Đó là nói trong phạm vi của người Phật tử, đã quy y và phát nguyện giữ giới. Tuy nhiên, thử hỏi có bao nhiêu người Phật tử đã thật sự giữ trọn vẹn giới thứ nhứt không sát sanh hại vật nầy?
Phật tử thấy, ngay như gìn giữ không giết hại sinh mạng con người, mà người ta còn giữ không được thay, hà tất gì đến những loài sinh mạng nhỏ nhít khác. Thậm chí nhỏ nhít như hột vịt lộn mà Phật tử đã nói. Nếu cả nhơn loại chỉ cần giữ được giới thứ nhứt không giết người thôi, thì thế giới loài người sẽ không còn có khổ cảnh loạn lạc thảm họa vì chiến tranh cấu xé bắn giết tàn sát lẫn nhau.
Nhưng trải qua mấy ngàn năm nay, thử hỏi trong thiên hạ có bao nhiêu người giữ được không sát hại mạng sống con người? Cùng là loài người với nhau mà họ còn nỡ ra tay tàn sát đẩm máu lẫn nhau, nói chi đến những loài sinh vật khác! Tuy nhiên, đối với người Phật tử, thì chúng ta cố gắng giữ gìn không sát hại sinh vật được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu.Vì sao? Vì có nhiều điều lợi ích cho bản thân của chúng ta trong hiện tại cũng như mai sau.
Thứ nhứt, là chúng ta biết tôn trọng lẽ sống công bằng. Thứ hai, là chúng ta nuôi lớn được lòng từ bi thương người thương vật. Thứ ba, là chúng ta tránh được quả báo oán thù dây dưa truyền kiếp về sau. Đó là những lợi ích thực tế trong đời sống mà Phật đã dạy người Phật tử không nên sát hại sinh vật.
Trở lại trường hợp của Phật tử, theo như Phật tử đã nói, vì hồi còn nhỏ chưa hiểu đạo, nên Phật tử mới sát sanh hại vật nhiều như thế. Do đó, nên bị quả báo bịnh hoạn đau yếu hoài. Nay hiểu được chút ít đạo lý, nên Phật tử cố gắng gia công tu hành, bố thí, phóng sanh và làm nhiều điều phước thiện khác. Đồng thời, chứng kiến cảnh vô thường nhanh chóng qua cái chết bất ngờ của người bạn, nên Phật tử có ý định bỏ tục xuất gia. Nhưng vì tuổi già hay đau yếu bịnh hoạn, nên không biết có nên xuất gia vào chùa ở hay không.
Qua những điều trình bày của Phật tử, tôi xin mạo muội góp chút thành ý và thành thật khuyên Phật tử một vài điều như sau:
Thứ nhứt, Phật tử nên yên tâm vui lòng mà trả nghiệp. Nhờ Phật tử khéo biết tu hành, làm lành lánh dữ, nên thay vì trả nghiệp báo nặng, nay chuyển thành trả quả báo nhẹ. Đó là Phật tử thường hay đau yếu bịnh hoạn. Như vậy, Phật tử nên vui chớ không nên buồn. Vì trả nghiệp sớm chừng nào là Phật tử sẽ được nhẹ nhàng thảnh thơi sớm chừng ấy.
Thứ hai, tình trạng già yếu bịnh hoạn của Phật tử hiện nay, theo tôi, thì Phật tử cứ tiếp tục tu hành ở tại gia. Phật tử nên cố gắng hành trì chuyên tâm niệm Phật. Lấy việc niệm Phật làm phần chánh yếu trong việc tu hành. Ngoài ra, Phật tử cũng nên cố gắng tu tạo nhiều điều phước thiện khác, như từ trước tới nay Phật tử đã làm. Phải hết lòng niệm Phật cầu nguyện vãng sanh về Cực lạc. Được vậy là quý lắm rồi.
Còn việc xuất gia vào chùa, không phải là chuyện dễ dàng. Bởi hạnh nguyện của người xuất gia thật là cao cả, không phải là chuyện tầm thường như có một số người lầm tưởng. Đó là hạnh tu của người xuất thế, phải có ý chí cao thượng và khả năng siêu trần đạt đạo.
Phật tử già cả hay bịnh hoạn đau yếu, mà xuất gia vào chùa, đó chỉ là thêm gánh nặng cho nhà chùa mà thôi. Vả lại, tuổi tác của Phật tử hiện nay, làm sao có thể theo nổi những thời khóa tụng niệm cũng như quy chế của thiền môn. Chi bằng tốt hơn hết là Phật tử cứ hành trì tu tập ở nhà. Như vậy, có lẽ tiện lợi và không làm phiền đến ai. Đó là lời khuyên chí tình thành thật của chúng tôi. Kính chúc Phật tử an vui mạnh khỏe, vững tâm tu hành, chóng đạt thành sở nguyện.
69. Nuôi cá kiểng trong nhà có mang tội hay không?
Hỏi: Kính bạch thầy, con gái của con có nuôi cá kiểng ở trong nhà để giải trí, mỗi khi đầu óc của cháu bị căng thẳng vì học thi. Nuôi như vậy con không biết cháu có bị mang tội hay không? Khi xưa, con chưa hiểu đạo thì không nói chi, bây giờ hiểu rồi con rất sợ tội.Kính mong thầy hoan hỷ cho con lời khuyên giải.
Đáp: Tội phát xuất từ nơi tâm. Tùy chỗ dụng tâm mà có ra thành tội hay không thành tội. Nếu dụng tâm ác rồi thúc đẩy thân hành động ác, miệng nói lời thô ác, thì đó là mang trọng tội. Ngược lại, nếu dụng tâm lành, thân làm điều lành, miệng nói điều lành, kết quả, tất nhiên sẽ hưởng quả báo lành. Do đó, luận về tội hay không tội, là gốc ở nơi tâm. Một hành động, được kết hợp chặt chẽ bởi ba nghiệp: thân, ngữ, ý, thì mới kết thành tội được.
Dựa theo luận cứ căn bản nầy, thì việc con gái của Phật tử nuôi cá kiểng chưa hẳn đánh giá kết luận là tội được. Tại sao? Bởi vì chỗ dụng tâm của em không mang tính độc ác.
Vì em chỉ nghĩ đến việc nuôi cá như là một niềm vui giải trí, khi cho cá ăn hoặc khi nhìn thấy sự bơi lội đùa giỡn tung tăng của cá. Hơn thế nữa, mục đích là để cho đầu óc của em được thư giãn thoải mái thanh thản, khi bị căng thẳng, vì việc học hành thi cử. Thay vì, không nuôi cá, thì các em lại nuôi những con vật khác, như chó, mèo, chim chóc v.v…
Như vậy, chả lẽ nuôi mấy con vật đó đều mang tội hết hay sao? Nếu như mang tội, thì tại sao ở trong chùa lại có những chùa nuôi những con vật nầy? Có nhiều chùa vẫn có xây hồ để nuôi cá, hoặc là nuôi chó, mèo v.v…
Theo tôi, có tội hay không là khi chúng ta nuôi mà bỏ bê chúng nó. Chúng ta không chăm sóc chúng nó kỹ lưỡng và thường bỏ đói chúng nó. Nếu nuôi như thế, thì mới là có tội. Tội là vì bỏ đói chúng nó. Thay vì, nếu chúng ta không nuôi chúng nó, thì chúng nó cũng vẫn biết tự đi tìm kiếm thức ăn. Đằng nầy, nuôi mà bỏ đói chúng nó, hoặc cho chúng nó ăn thất thường bữa đói bữa no, như thế thì thật là có tội.
Tóm lại, Phật tử yên tâm đừng có lo lắng và đứa con gái của Phật tử cũng không có tội tình gì. Vì mục đích là tốt chớ không phải là xấu. Điều quan trọng là nên chăm sóc nó cẩn thận, đừng bỏ đói chúng nó là được. Tuổi trẻ ở xứ nầy, đa số phải thành thật mà nói, chúng nó rất quý mến thương yêu các loài sinh vật. Sự thương yêu nuông chiều loài vật của các em, thật không thua sút gì thương yêu loài người. Thậm chí có khi còn hơn thế nữa. Đó là một sự thật, không ai có thể phủ nhận được.
70. Làm sao có thể ứng dụng lý Bát nhã vào đời sống hiện thực?
Hỏi: Kính bạch thầy, trong thời khóa tụng kinh ở phần cuối đều có tụng Bát nhã Tâm Kinh, lý Bát nhã của đạo Phật chỉ có một chữ KHÔNG. Nhưng thực tế cuộc đời thì luôn luôn đối đãi, chẳng hạn con người làm việc mới có tiền để sống (chánh mạng).
Có phương tiện mới di chuyển được (xe cộ v.v) Điều nầy là rơi vào lý nhị nguyên. Kính xin thầy từ bi khai thị cho chúng con nắm vững trong việc học hỏi tránh sự hiểu sai không chính xác sẽ rơi vào tà kiến. Kính cám ơn thầy.
Đáp: Giáo lý của đạo Phật tùy theo căn cơ trình độ của chúng sanh mà có phân chia “Thừa”, “Giáo” và “Thời” khác nhau. Về thừa thì có năm thừa: Nhơn, Thiên, Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ tát. Về giáo thì có phân ra nhiều hệ tư tưởng cao thấp, sâu cạn, đốn tiệm khác nhau. B
át nhã thuộc về hệ tư tưởng Đại thừa. Nếu luận về Thời, theo sự phán giáo của Ngài Thiên Thai Trí Giả Đại Sư, thì Ngài chia trọn đời thuyết giáo của đức Phật ra làm 5 thời kỳ: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa và Niết Bàn. Trong 5 thời kể trên, thì Bát nhã thuộc về thời thứ tư. Sự phán giáo nầy được tóm tắt bằng một bài kệ cho dễ nhớ như sau:
Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhựt
A Hàm thập nhị Phương Đẳng bát
Nhị thập nhị niên Bát nhã đàm
Pháp Hoa, Niết Bàn cộng bát niên.
Nghĩa là, hai mươi mốt ngày đầu Phật nói kinh Hoa Nghiêm. Mười hai năm, Phật nói kinh A Hàm và tám năm Phật nói kinh Phương Đẳng. Hai mươi hai năm ròng rã Phật nói kinh Bát nhã và tám năm sau cùng Phật nói kinh Pháp Hoa và Niết Bàn.
Riêng về kinh Bát nhã sau nầy chư Tổ kết tập lại thành một hệ thống gồm có 600 quyển. Tâm kinh Bát nhã mà Phật tử chúng ta thường trì tụng sau mỗi thời kinh, đó là tinh yếu của toàn bộ hệ thống kinh Bát nhã. Nói thế, để chúng ta thấy tầm mức quan trọng của bài Tâm Kinh Bát nhã thật là quan trọng đến ngần nào.
Tư tưởng bát nhã nhằm phá chấp, triệt tiêu hết mọi vọng chấp của chúng sanh. Vọng chấp của chúng sanh tuy nhiều, nhưng không ngoài tứ tướng: “Ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả”. Như trong kinh Kim Cang Bát Nhã đã nêu rõ. Nói gọn, là không ngoài hai lối chấp căn bản: “Ngã chấp và Pháp chấp”.
Cốt lõi của kinh Bát nhã là nói rõ về tánh không của vạn pháp. Bởi các pháp do nhân duyên giả hợp mà thành. Do đó, nên thể tánh của vạn pháp là không. Chữ không nầy, xin chớ vội hiểu lầm là không trơn như lông rùa sừng thỏ. Mà chữ không (sunyata) của Bát nhã nói, là “thật tánh” hay “tướng không” của các pháp. Hiểu được chữ“Không” nầy là hiểu được toàn bộ hệ thống kinh Bát nhã. Vì thể của các pháp là không, nên trong cái tánh không đó, không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh v.v… Nghĩa là, nó vượt ngoài đối đãi nhị nguyên.
Nêu rõ triết lý “Tánh Không” của Bát nhã như thế, để Phật tử thấy rằng, đây là cả một bầu trời thênh thang tự do giải thoát. Vì nơi đó triệt tiêu mọi thứ vọng tình chấp trước của chúng sanh. Muốn áp dụng lý Bát nhã vào cuộc sống, đối với trình độ sơ cơ nông cạn như chúng ta hiện nay, thật không phải là chuyện dễ dàng.
Vì chúng ta đang sống trong vòng vô minh nghiệp thức, chấp trước rất sâu nặng. Mọi hiện tượng có mặt đối với chúng ta, cái gì chúng ta cũng cho là thật cả. Bởi do thấy các pháp hữu vi là thật, nên chúng ta mới khởi sanh ra bao nhiêu thứ phiền não nhiễm ô: tham, sân, si … Từ đó, tạo nghiệp thọ khổ, nên mãi trôi lăn trong vòng tam đồ lục đạo.
Muốn thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử khổ đau nầy, đức Phật mới dùng nhiều phương tiện để chỉ bày nhiều pháp môn tu cho chúng ta. Pháp tu, Phật nói tuy nhiều, nhưng tóm lại, không ngoài hai pháp: “Đốn và Tiệm”. Đốn tu là thẳng đó mà trực nhận chứng ngộ, không có phương tiện vòng vo, quanh co, dài dòng, lòng thòng chi cả. Trái lại, pháp tiệm tu, thì Phật Tổ phương tiện bày ra có nhiều thứ lớp từ thô đến tế, từ cạn đến sâu và từ thấp lên cao.
Luận về pháp đốn tu, nếu không phải là hàng thượng căn thượng trí, thì khó có thể đạt thành sở nguyện. Về pháp tiệm tu, tức là dần dần tiến lên, thì rất thích hợp cho mọi căn cơ. Ai cũng có thể ứng dụng hành trì tu niệm được cả. Giống như người leo thang bước lên từng nấc, từ thấp lên cao.
Trường hợp như người Phật tử tại gia, bước đầu, Phật dạy nên hành trì tu tập tam quy và ngũ giới. Tiến lên là tu thập thiện để được sanh thiên hưởng phước báo. Đây là hai pháp tu căn bản của người Phật tử tại gia. Tuy nhiên, nếu sự thật hành huân tu của Phật tử khá thuần thục rồi, thì Phật tử cũng có thể áp dụng những lối tu khác. Phật tử có quyền chọn lựa cho mình một pháp tu nào đó cảm thấy thích hợp. Nghĩa là phải thích hợp với khả năng, căn cơ trình độ và hoàn cảnh sống hiện thực của mình và gia đình.
Phật tử nên cẩn thận, đừng có ham trèo cao quá mà phải té nặng. Khi tu hành, người Phật tử phải nên khéo léo biết lượng sức mình. Phật tử không nên đua đòi những gì mà nó vượt ngoài khả năng tầm tay của mình. Không khéo sẽ trở thành họa hại. Phật tử phải biết vị trí của mình hiện đang ở đâu và làm gì.
Về hướng tu để đạt được giải thoát, đức Phật đã phân định ra hai đường lối tu rõ rệt. Một là hướng tu còn đi trong luân hồi để thọ hưởng phước báo. Hai là hướng tu giải thoát luân hồi sanh tử khổ đau. Hướng tu đi trong luân hồi để hưởng phước báo như đã nói ở trên. Nghĩa là người Phật tử chỉ thật hành tam quy và ngũ giới cũng như tu mười điều lành.
Còn hướng tu siêu xuất luân hồi, thì Phật dạy có nhiều pháp tu. Như pháp Tứ Đế, Thập nhị nhân duyên, Lục độ v.v… Nói chung, là các pháp tu cao vượt ngoài đối đãi nhị nguyên. Nghĩa là hành giả không còn bị vướng mắc nhị biên, rơi vào cái bẫy hai đầu, tức phải diệt trừ hết vô minh phiền não.
Những pháp tu nầy, khi ứng dụng hành trì, hành giả phải hoàn toàn tự lực. Ngoài ra, còn một pháp tu khác rất thích hợp với mọi căn cơ, gồm nhiếp tất cả, vừa tự lực mà cũng vừa có phần tha lực. Đó là pháp môn Tịnh độ. Đây là một pháp môn thẳng tắt rất thích hợp căn cơ thời nay. Pháp tu nầy lấy việc niệm Phật làm chánh yếu. Niệm Phật có sự niệm và lý niệm. Về sự niệm, thì hành giả phải chuyên tâm trì niệm sáu chữ Di Đà một cách miên mật để cầu vãng sanh về Cực lạc.
Về lý niệm, hành giả phải buông xả tất cả, chỉ còn có một tâm thể thanh tịnh sáng suốt hiện tiền. Như mặt gương chiếu sáng không dính một mảy may trần cảnh. Đến đây, hành giả không niệm mà niệm. Kinh Duy Ma Cật gọi là: “ Tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh, hay duy tâm Tịnh độ”. Nghĩa là cõi Tịnh độ có mặt ngay trong giây phút hiện tiền, không cần phải tìm kiếm ở đâu xa, với điều kiện là tâm mình phải thanh tịnh.
Đại khái, đó là những pháp tu Phật dạy, tôi xin nêu ra rồi tùy Phật tử chọn lựa lấy. Sau khi chọn lựa và ứng dụng tu, Phật tử cũng cần nên tham vấn học hỏi với những bậc chơn tu đức độ và có nhiều kinh nghiệm già dặn trong sự tu hành. Có thế, thì sự tu học của Phật tử mới mong tiến bộ và mới khỏi rơi vào con đường tà kiến vậy.
Kính chúc phật tử thành công trên bước đường tu học.
71. Khi đến chùa thọ bát tu học, thọ dụng của đàn na tín thí có mang tội hay không?
Hỏi: Kính bạch thầy, khi đến chùa thọ bát tu học mà con thọ dụng thức ăn do Đàn na tín thí thập phương dâng cúng. Xin hỏi thọ dụng như thế chúng con có mang tội hay không? Kính xin thầy giải đáp cho con rõ, để con khỏi phải lo sợ. Con kính cám ơn thầy.
Đáp: Sự dè dặt cẩn thận lo sợ của Phật tử, tuy không cần thiết, nhưng thật đáng khen. Dù sao Phật tử cũng có tâm tốt khéo biết lo xa vì sợ mang tội. Chứng tỏ Phật tử làm việc gì cũng có sự cân nhắc cẩn trọng. Nhất là những vấn đề liên quan đến đời sống tâm linh. Đó là điều thật đáng quý kính. Tuy nhiên, Phật tử nên nhớ rằng, mục đích của Phật tử tới chùa là để tu học, chớ đâu phải tới chùa để quậy phá đâu mà Phật tử lại lo sợ mang tội.
Phật tử thọ dụng của Đàn na tín thí dâng cúng là để hành thiện tu trì, chớ không phải thọ dụng để làm những việc bất thiện. Như vậy, làm gì có tội mà Phật tử phải ái ngại lo sợ? Thậm chí, có người còn lo ngại sợ làm phiền cho chùa, nhất là sợ phiền những người nấu nướng ở nhà trù, nên họ có ý muốn tự túc đem thức ăn theo trong những ngày đến chùa thọ bát.
Đó cũng là một thiện ý rất tốt. Nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không cần thiết phải làm như vậy. Vì sao? Vì chùa là môi trường để cho mọi người đến tu học gieo thiện duyên với Tam bảo và cũng để tài bồi thêm phước đức. Ai cũng muốn bòn phước đức cho riêng mình. Kẻ công quả, người cúng thí, họ đều là những người phát tâm hảo ý, muốn giúp thêm phương tiện cho mọi người để được yên tâm tu học.
Còn người dự tu cũng muốn cho mình có được an tâm yên ổn mà dốc chí tu hành. Như vậy, ai cũng có phước đức hết cả. Không ai thiệt thòi thua kém hơn ai. Tuy nhiên, điều quan trọng là mỗi người nên tự khắc chế phiền não trong khi hành sự. Phải khéo gìn giữ ba nghiệp thân, miệng, ý của mình cho thanh tịnh. Đó là điều tối thiết yếu mà mọi người nên cẩn thận giữ gìn. Được vậy, thì thật là quý giá biết bao! Một môi trường sống chung hòa hợp trong tinh thần tương trợ tu học như thế, thì thử hỏi còn gì cao quý tốt đẹp cho bằng?!
Ở đời, có đôi khi mình chỉ thấy cái lợi trước mắt mà không thấy cái hại sau lưng. Nghĩ rằng, thức ăn do mình tự túc mang theo, không làm phiền và thọ dụng của ai, do đó, nên mình lại sanh tâm ỷ lại và xem nhẹ xao lãng việc thúc liễm tu hành. Còn nếu như mình thọ dụng của Đàn na tín thí, và những người khổ cực nấu nướng cho mình thọ dụng, tất nhiên, là mình sẽ không dám khinh thường lơ là trong việc hành trì bái sám tu niệm. Vì sợ mang tội mắc nợ họ, nên mình phải nỗ lực tinh tấn chuyên tâm tha thiết tu hành. Nhờ đó, mà mình và họ cả hai đều được lợi lạc rất lớn vậy.
Ngược lại, có người đến chùa không lo tu niệm, chẳng những thế, mà họ còn có tâm bất hảo, gây ra nhiều chuyện rắc rối lôi thôi, tổn mình, hại người, với tâm niệm bất chánh như thế, thì mới thật là có tội. Tội là do ba nghiệp bất chánh của họ gây ra. Tới chùa thay vì lo thúc liễm thân tâm để lo công phu tu học, hay làm công quả, họ lại gây ra những điều phiền phức cho chùa và cho mọi người. Như lớn tiếng tranh chấp cãi vã hơn thua với nhau.
Vì ỷ mình có công lao lớn giúp cho chùa. Vì tự cao ngã mạn, nên họ gây ra xáo trộn làm loạn động trong chúng. Bản thân họ đã bị ngọn lửa phiền não sân si đốt cháy bất an, rồi còn gây ra làm cháy lan động tâm niệm của những người khác. Người có tâm niệm và hành động như thế, mới quả thật là có tội. Họ là người không xứng đáng thọ dụng thức ăn của Đàn na tín thí dâng cúng.
Trái lại, Phật tử đi chùa đâu có phải như hạng người nói trên. Phật tử đến chùa là để thọ bát tu học. Suốt thời gian thọ bát ở chùa, Phật tử tuân hành giữ gìn oai nghi phẩm hạnh của một người tập tu theo công hạnh của người xuất gia. Phật tử tụng kinh, niệm Phật, giữ đúng theo thời khóa. Tu hành như vậy, thì tại sao Phật tử lại ái ngại lo sợ mang tội? Ăn của Đàn na tín thí dâng cúng, với điều kiện là mình không tu, thì mới mắc nợ họ.
Tóm lại, sự lo ngại của Phật tử tuy rất tốt, nhưng không phải như Phật tử nghĩ đâu. Chỉ sợ là Phật tử không đến chùa tu học thôi, một khi đã đến chùa thật tâm tu niệm, thì Phật tử sẽ được tăng trưởng phước đức và có nhiều lợi lạc trong việc mở mang trí huệ. Vì một ngày Phật tử thọ bát quan trai ở chùa, đó là Phật tử đang tu tập thật hành theo công hạnh của người xuất gia. Đó là hướng tu xuất thế nhằm mục đích thăng tiến trên bước đường giác ngộ giải thoát. Như thế, thì chỉ tăng thêm phước đức chớ làm gì mang tội?
Kính mong Phật tử luôn cố gắng tinh tấn hành trì đúng theo quy chế của thiền môn đã đặt định hướng dẫn trong ngày thọ bát.
Kính chúc Phật tử trí huệ sáng suốt, Bồ đề tâm bất thối, tinh tấn tu hành, chóng đạt thành sở nguyện.
72. Khi lâm chung tưởng nhớ Phật, nhưng không thấy Phật rước có được vãng sanh hay không?
Hỏi: Kính bạch thầy, con được phước duyên tu theo pháp môn Tịnh độ gần 2 năm. Con thấy rất là an lạc mỗi khi con niệm Phật. Và con cố gắng gìn giữ chánh niệm trong tâm. Xin hỏi một may khi cơn vô thường đến, lúc đó con vẫn nhớ niệm Phật, mà không thấy Phật Di Đà hiện đến tiếp dẫn con, như vậy, con có được vãng sanh hay không? Kính xin thầy hoan hỷ giải đáp cho con được yên tâm. Thành kính cám ơn thầy.
Đáp: Qua sự trình bày của Phật tử, thật chúng tôi rất tùy hỷ tán thán vui mừng. Thời gian tu hành niệm Phật của Phật tử, tuy mới trải qua thời gian hai năm thôi, nhưng kết quả rất có tiến bộ khả quan. Niệm Phật mà tâm được an lạc, thì đó là điều rất tốt.
Tuy nhiên, Phật tử cũng nên cẩn thận, vì tập khí phiền não của con người sâu dầy lắm. Trong kinh Phật dạy, khi nào chứng quả A la hán, thì mình mới nên thật sự tin ở nơi tâm mình. Vì quả vị A la hán là đã dứt trừ hết “Kiến Tư” hoặc phiền não. Hễ trong tâm còn phiền não, dù là rất vi tế, nó cũng làm cho tâm mình dao động bất an. Nói chi đến những phiền não thô trọng khác.
Khi niệm Phật mà tâm mình được an định, thời gian lâu hay mau, điều nầy, còn tùy thuộc vào sự huân tu già dặn miên mật hay không già dặn miên mật của mỗi người. Nhưng chúng ta nói là an định, nhưng kỳ thật, theo tôi, thì lúc đó chỉ không có những vọng niệm phiền não thô phù thôi. Chớ những vọng niệm phiền não vi tế làm sao sạch hết được. Nếu sạch hết là thành Thánh nhân rồi.
Việc gìn giữ chánh niệm, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Bởi vì chánh niệm có nghĩa là chỉ nhớ hay biết những gì đang xảy ra ngay trong giây phút hiện tại. Tâm ta không vọng tưởng nghĩ nhớ hai đầu. Không nhớ những việc đã qua và những việc sắp đến. Được thế, mới đúng với nghĩa chánh niệm. Khi niệm Phật, ta chỉ chú tâm vào câu hiệu Phật, tuyệt đối, không có một tạp niệm nào xen vào. Được thế, mới tạm gọi là tương ưng phần nào với chánh niệm.
Theo nghĩa đó, là người chí thiết tu hành, chúng ta không phải chỉ gìn giữ chánh niệm trong lúc niệm Phật không thôi, mà còn phải gìn giữ chánh niệm suốt trong mọi thời gian và nơi chốn. Có gìn giữ như thế, thì tâm mình mới không bị tán loạn thất niệm. Việc nầy, thật là rất khó làm.
Nếu dễ, thì chắc chúng ta sẽ thành Phật tác Tổ hết rồi. Tuy nhiên, giây phút nào tâm ta được chánh niệm, thì giây phút đó là ta có được an lạc hạnh phúc ngay. Ngược lại, là ta bị đau khổ. Ta đau khổ bất an vì tâm loạn động thất niệm. Đó là chúng tôi xin được góp thêm chút ý kiến về việc giữ gìn chánh niệm, như Phật tử đã nói.
Còn việc Phật tử hỏi, khi cơn vô thường bất thần xảy đến, nói rõ hơn là trong giờ phút hấp hối sắp lâm chung, Phật tử nhớ đến đức Phật A Di Đà, nhưng không thấy Ngài hiện thân đến tiếp dẫn, như vậy, Phật tử đâm ra nghi ngờ không biết mình có được vãng sanh hay không? Xin thưa ngay là Phật tử hãy yên tâm. Đức Phật A Di Đà không bao giờ bỏ rơi hay phụ lòng Phật tử đâu.
Giả dụ như Phật tử dù không thấy Ngài đến tiếp dẫn, thì Phật tử cũng vẫn được vãng sanh. Vì lúc đó Phật tử đã nhớ đến Phật. Phật ngoài tuy không đến rước Phật tử, nhưng ông Phật tâm của Phật tử đã cứu thoát Phật tử rồi. Đó chỉ là nói giả dụ thôi, chớ làm gì có thật như thế mà Phật tử phải lo sợ. Chỉ lo sợ là liệu lúc đó Phật tử có được thân an niệm chánh tha thiết nhớ đến Phật hay không mà thôi.
Phật tử nên nhớ rằng, với 48 điều đại nguyện của đức Phật A Di Đà, không có nguyện nào mà Ngài không nghĩ đến việc tiếp dẫn chúng sanh về cõi nước của Ngài. Nhưng với điều kiện là, chúng sanh đó phải hết lòng xưng niệm danh hiệu Ngài. Ngoài ra, hằng ngày còn phải tu tạo nhiều điều phước thiện khác.
Với một bản nguyện chí tình chí thiết như thế, thì thử hỏi làm sao đức Phật A Di Đà có thể bỏ rơi Phật tử cho được? Chỉ ngại và lo sợ rằng, lúc sắp lâm chung khi thân thể bị đau nhức hoành hành, lúc đó, liệu Phật tử có còn vững tâm nhớ đến Ngài một cách tha thiết hay không? Hay là Phật tử chỉ nhớ đến cơn đau nhức cùng những người thân thuộc và tài sản. Đó mới là điều quan trọng đáng nói.
Tuy nhiên, với công phu hành trì niệm Phật hiện tại của Phật tử, như Phật tử đã nói, thì tôi nghĩ rằng, giờ phút lâm chung của Phật tử chắc chắn là sẽ được đức Từ Phụ A Di Đà tiếp dẫn Phật tử vãng sanh. Bởi vì niệm Phật như mẹ con nhớ nhau. Con đã chí tình tha thiết nhớ đến mẹ, thì mẹ lại nỡ lòng nào mà không thương tưởng nhớ đến con! Điều quan trọng, là Phật tử phải cố gắng tinh tấn chuyên tâm niệm Phật nhiều hơn nữa.
Có đôi khi, lúc bình thường không có việc gì xảy ra cho thân tâm, thì Phật tử niệm Phật thấy an lạc. Nhưng bất chợt có việc gì quan trọng xảy đến, bấy giờ, liệu Phật tử có còn giữ được chánh niệm an lạc nữa hay không? Nghĩa là lúc đó Phật tử có yên tâm mà nhớ đến Phật như lúc bình thường hay không? Sự tu hành không ai biết rõ hơn bằng mình tự biết lấy mình.
Vì mình chưa làm chủ được bản tâm mình. Tâm vọng tưởng của mình nó theo duyên trần khởi lên mạnh lắm. Phật tử nên cẩn trọng dè dặt, chớ thấy nó tạm thời lắng dịu an lạc trong giây phút niệm Phật mà cho mình đã được chánh niệm. Hãy thận trọng quán chiếu sâu vào nội tâm cho thật kỹ càng. Không nên vội mừng cho mình đã được như thế.
Kính cầu nguyện Phật lực gia hộ cho Phật tử mạnh khỏe vững tâm tu hành và niệm Phật chóng được thành tựu viên mãn theo sở nguyện.
73. Thờ người chết như cha mẹ hay ông bà nhiều nơi có được không?
Hỏi: Kính bạch thầy, những người thân như cha mẹ, ông bà đã qua đời, mình có thể thờ cúng nhiều nơi được không? Chẳng hạn trong gia đình có nhiều con cái anh em đều muốn thờ, như vậy có trái phép tắc luật nghi hay không?
Đáp: Việc thờ phụng tổ tiên, ông bà, cha mẹ, theo phong tục xưa, thì người ta chỉ thờ phụng một nơi. Nơi đó gọi là từ đường. Nghĩa là ngôi nhà thờ chung. Đến ngày kỵ giỗ, thì tất cả con cháu và những thân quyến trong đại gia đình, đều tập trung về nơi trú xứ đó mà thiết lễ cúng giỗ.
Theo lệ cúng giỗ ngày xưa cũng rất là rườm rà phức tạp. Tuy nhiên, chỉ có những gia đình nào khá giả giàu có, thì người ta mới làm đủ lễ. Còn những gia đình nghèo khó không đủ khả năng, thì người ta cũng chỉ thiết cúng đơn sơ mà thôi.
Như đã nói, việc thờ cúng với mục đích là để kỷ niệm người mất như lúc còn sống. Theo quan niệm xưa, ông bà cha mẹ tuy đã qua đời, nhưng linh hồn của những người đã mất vẫn tồn tại và luôn ở bên cạnh con cháu để mà phù hộ độ trì cho con cháu và những người thân thuộc trong gia đình luôn được bình an khỏe mạnh. Gia hộ cho mọi người làm ăn phát tài thạnh vượng. Do đó, nên việc tưởng niệm thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ, trở thành một tục lệ rất quan trọng đối với người Việt mình.
Ngày nay, thì có khác. Tuy người Việt mình cũng vẫn duy trì phong tục thờ cúng theo lệ cổ truyền đó. Nhưng vì hoàn cảnh xã hội, nhất là hoàn cảnh sinh sống hiện nay của mỗi người mỗi khác. Vì nhu cầu sự sống, hoặc vì một hoàn cảnh đặc biệt nào đó mà người Việt mình phải sinh sống rải rác mỗi nơi cách xa nhau.
Kẻ ở nước nầy, người nước nọ. Những gia đình có con cháu đông, thì họ sinh sống rải rác nhiều nơi trên thế giới. Vì đường xá xa xôi cách trở, nên việc họp mặt với nhau trong ngày kỵ giỗ thì thật là bất tiện. Do đó, nên người ta phải linh động uyển chuyển mà thờ cúng ông bà cha mẹ ở mỗi nơi khác nhau.
Điều quan trọng, tuy con cháu thờ cúng ở mỗi nơi khác nhau, nhưng tinh thần của mỗi người qua lời cầu nguyện hướng về người thân vẫn là hợp nhất. Như trường hợp cha mẹ chết ở Việt Nam hay ở Mỹ chẳng hạn, thì người con ở Úc cũng có thể thiết lập bàn thờ để thờ cúng cha mẹ hoặc ông bà của mình. Điều nầy, theo tôi, thì không có gì là sai trái cả.
Vì hoàn cảnh bất như ý, kỳ thật trong thâm tâm không ai muốn như thế. Vả lại, đây chỉ là hình thức tưởng niệm, kỳ thật đâu có ông bà cha mẹ nào chờ đợi cho con cháu cúng mình. Thử hỏi một năm 365 ngày mà con cháu chỉ cúng cho ông bà cha mẹ ăn có một lần, còn lại 364 ngày khác, thì cha mẹ, ông bà phải chịu chết đói chết khát hết hay sao? Hiểu thế, thì chúng ta mới thấy tục lệ thờ cúng tổ tiên ông bà cha mẹ của chúng ta, là nhằm nói lên tinh thần tri ân và báo ân, hướng về cội nguồn, theo một nền văn hóa hiếu đạo thật sâu sắc tuyệt vời của người Việt Nam. Đây mới chính là bản sắc văn hóa cổ truyền có gốc rễ vững chắc cấm sâu vào lòng dân tộc từ ngàn xưa và mãi đến ngàn sau vậy.
74. Cúng dường trai tăng cho người đã mất như thế nào mới hợp lý?
Hỏi: Kính thưa thầy, xin thầy giảng cho con hiểu về cách thức của việc cúng dường trai tăng. Khi người thân qua đời ở đâu, thì mình chỉ cúng dường trai tăng ở nơi đó, hay là có thể cúng ở nơi khác có được không? Thí dụ người thân mất ở Mỹ, con có thể cúng dường trai tăng ở Việt Nam có được không? Kính xin thầy từ bi giải đáp cho con rõ. Kính cám ơn thầy.
Đáp: Việc cúng dường trai tăng, đây là người Phật tử noi theo tấm gương chí hiếu của tôn giả Đại Hiếu Mục Kiền Liên khi xưa. Vì chính Tôn giả là người đứng ra tổ chức thiết lễ trai tăng cúng dường đầu tiên, để cầu siêu cho thân mẫu của Ngài.
Đó là Ngài vâng theo lời Phật dạy. Buổi đại lễ trai tăng nầy được các chùa theo hệ phái Phật giáo Bắc Tông, (Phát triển) thực hiện vào ngày rằm tháng bảy âm lịch hằng năm, sau khi chư tăng ni làm lễ “Tự tứ” mãn hạ. Từ đó, mới có lễ cúng dường trai tăng truyền thống nầy.
Noi theo truyền thống đó, nên người Phật tử mỗi khi trong thân quyến có người thân qua đời (thông thường là đến 49 ngày cúng chung thất), thì họ thường thiết lễ cúng dường trai tăng ở trong chùa, hoặc có đôi khi tổ chức tại tư gia. Điều nầy, còn tùy thuộc vào khả năng và hoàn cảnh của mỗi người. Nhưng phần lớn là người Phật tử thường tổ chức lễ trai tăng ở trong chùa. Vì tổ chức ở nhà có nhiều điều bất tiện hơn.
Theo lệ thường, trước ngày cúng tuần chung thất, trong tang quyến đến chùa (thường là ngôi chùa nơi thờ linh cốt của người mất) trình bày về việc thiết lễ cúng dường trai tăng cho vị trụ trì hoặc tăng ni của ngôi chùa đó biết, để tiện bề sắp xếp và cung thỉnh chư tôn đức tăng ni. Việc cung thỉnh chư tôn đức tăng ni tham dự chứng minh của buổi lễ nầy, nhiều hay ít, đều do thân nhân trong tang quyến quyết định.
Mục đích của buổi lễ nầy là để thân quyến có dịp bày tỏ dâng lên nỗi lòng thương kính báo hiếu tri ân đối với người đã mất. Đồng thời cũng thành tâm dâng lên phẩm vật để cúng dường Tam bảo và hiện tiền tăng. Nhờ sức chú nguyện của chư Tôn đức tăng ni mà hương linh của người quá cố chóng được siêu sanh thoát hóa. Đó là chúng tôi trình bày đại khái về nguyên nhân cũng như về cách thức của buổi lễ cúng dường trai tăng cho Phật tử biết sơ qua.
Trở lại câu hỏi của Phật tử. Phật tử hỏi rằng, khi người thân qua đời ở đâu, thì nên cúng dường trai tăng ở nơi đó hay có thể cúng dường ở nơi khác được không? Xin thưa, là được không có gì trở ngại. Như chúng tôi đã nói, tùy theo hoàn cảnh sinh sống của mỗi người.
Chúng ta nên linh động uyển chuyển mà không sai trái với lễ nghi. Trường hợp, như cha mẹ mất ở bên Việt Nam hay ở bất cứ nơi đâu, mà Phật tử không thể về hoặc đến nơi đó được, thì Phật tử cũng có thể cúng dường trai tăng ở Úc. Không nhất thiết là phải cúng dường trai tăng nơi chỗ người mất. Tuy nhiên, có những trường hợp, mình cũng có thể cúng dường trai tăng trong lúc còn tang lễ hoặc một vài tuần thất sau đó, nếu có mặt mình trong khi dự tang lễ.
Ngoài ra, thì có thể tổ chức bất cứ nơi đâu cũng đều được cả. Đó là tùy theo hoàn cảnh sinh sống ngoài ý muốn của mình. Điều quan trọng là ở nơi tấm lòng thành kính của mình, khi thiết lễ dâng cúng.
Tóm lại, việc cúng dường trai tăng tùy theo hoàn cảnh sinh sống của Phật tử mà Phật tử có thể tùy nghi linh động thiết cúng bất cứ nơi đâu cũng được. Tuy nhiên, theo tôi, nơi nào có đông thân nhân tang quyến thì tốt hơn.
Vì ngày đó, cũng là dịp để cho mọi người về chùa gieo thiện duyên với Tam bảo. Đồng thời, sự sum họp có mặt đông đủ của con cháu làm cho linh hồn người mất cũng được an vui hơn.
Kính chúc Phật tử thân tâm thường lạc, tinh tấn tu hành, chóng đạt thành ý nguyện.
75. Câu nói: “Đạo Phật đến đâu thì hòa bình đến đó” ý nghĩa như thế nào?
Hỏi: Kính bạch thầy, năm rồi về Việt Nam con có đi dự đại lễ Phật Đản, thấy có một biểu ngữ: “Đạo Phật đến đâu hòa bình đến đó”.Có người không đồng ý. Con hiểu, nhưng vì trình độ tu học của con còn rất yếu kém, nên con không dám giải thích. Con kính xin thầy hoan hỷ giải thích rõ thêm cho chúng con được hiểu.
Đáp: Việc không đồng ý đó là quyền của họ. Có thể là vì họ chưa có dịp tìm hiểu về đạo Phật. Nếu vì chưa hiểu, thì nên tìm hiểu. Chưa tìm hiểu rõ ràng, mà vội thốt lên lời nói khẳng quyết như thế, chứng tỏ người đó quả không có chút cẩn trọng. Nếu là người đã có nghiên cứu ít nhiều về đạo Phật, thì chắc chắn không ai dám thốt lên lời nói bất cẩn vô ý thức như thế.
Câu nói nầy phải nói là một chủ đề lớn. Trong phạm vi trả lời câu hỏi, chúng tôi chỉ xin được trình bày một cách khái quát qua một vài nét đơn sơ mà thôi. Câu châm ngôn đó, tuy rất ngắn gọn, nhưng nó đã gói trọn cái tôn chỉ từ bi, vị tha, bình đẳng của đạo Phật. Đạo Phật luôn chủ trương và kêu gọi nhơn loại hãy sống chung hòa bình. Từ ngàn xưa đến nay và có thể nói mãi mãi đến ngàn sau, đạo Phật lúc nào và ở đâu cũng đều nêu cao tôn chỉ đó.
Chính vì thế, nên sự truyền bá của đạo Phật, theo dòng thời gian trải dài trong quá khứ, lịch sử nhơn loại đã chứng minh cụ thể điều đó. Đạo Phật đi đến đâu chỉ mang lại tình yêu thương và lẽ công bằng, tạo sự hòa bình an vui hạnh phúc cho nhơn loại. Có thể nói, trong sự truyền bá đó, đạo Phật chưa bao giờ gây ra đổ một giọt máu đào nào cho nhơn loại. Đó là điểm đặc thù trong suốt chiều dài lịch sử truyền bá của đạo Phật.
Bởi những hiện tượng xung đột gây nên thù hận chiến tranh, đó không phải là bản chất cá tánh của loài người. Mà bản chất của loài người là bất bạo động, là yêu chuộng tự do và hòa bình. Đạo Phật cho rằng, Hòa bình hay chiến tranh không phải tìm kiếm ở bên ngoài mà có, mà nó nằm ngay trong lòng của mỗi con người. Nguồn gốc gây nên sự xung đột chiến tranh, theo Phật giáo, động lực chính là do vô minh chủ động. Mà hiện tướng của nó là “tham, sân, si”.
Bao giờ nhơn loại còn nuôi dưỡng chất chứa trong lòng ba thứ hạt giống độc tố nầy, thì đừng hòng nhơn loại có thể sống chung hòa bình với nhau. Muốn có hòa bình, con người phải diệt trừ những nguyên nhân gây ra mâu thuẫn nội tại. Nói rõ hơn là phải thường xuyên nhận diện và chuyển hóa hết những thứ vô minh phiền não. Chính những thứ nầy là nguồn gốc gây ra mọi sự khổ đau và làm cho thế giới trở nên thác loạn đảo điên không cùng.
Điều rõ nét nhứt mà ngày nay cả nhơn loại đang gào thét trong sự phá hủy tiêu diệt trái đất, mà nguyên nhân chính cũng bởi do lòng tham lam quá độ của con người mà ra. Hằng ngày, họ cho thải ra không biết bao nhiêu lượng khí độc, tạo nên tình trạng ô nhiễm môi sinh ngày càng khốc liệt hơn. Những trận thiên tai họa hại giáng xuống khắp nơi, đó là sự cảnh cáo đe dọa của thiên nhiên. Ngoài ra, còn biết bao những tệ nạn xã hội họa hại khác. Thật nói không thể hết. Phải chăng tất cả đều do con người gây ra!
Phải thành thật mà nói, sự sống của nhơn loại ngày nay như đang đứng trên bờ vực thẳm. Không biết mình sẽ rơi xuống hố sâu vào lúc nào. Chính vì ý thức được nỗi khổ niềm đau cộng nghiệp lớn lao của nhơn loại, nên Phật giáo đã kêu gọi con người nên tìm mọi phương cách cứu thoát chính mình. Muốn cứu thoát con người ra khỏi cộng nghiệp khổ đau nầy, theo Phật giáo, chỉ có một cách duy nhứt là mỗi người nên tự quán chiếu sâu vào nội tâm để chuyển hóa những hạt giống bất thiện, chính nó là nguyên nhân nội tại làm khổ đau cho mình và người.
Đó là con đường hóa giải những mâu thuẫn, hận thù, xung đột, tỵ hiềm, kỳ thị v.v… đã và đang tiềm ẩn sâu kín trong lòng của mỗi cá thể. Có thế, thì nhơn loại mới thực sự mở rộng tâm thức bao dung, tha thứ và biết thương yêu nhau hơn trong sự hòa hợp sống chung trong tình huynh đệ. Đạo Phật đã và đang vận dụng tận lực mọi khả năng trong sự đóng góp bằng con đường nhập thế phát triển mọi hướng, nhằm đem lại sự yêu thương hàn gắn mọi vết thương của nhơn loại hiện nay. Đó là con đường hóa giải tạo sự công bằng tự do nhân ái trong tinh thần từ bi, vị tha và bình đẳng của đạo Phật vậy.
76. Thọ giới Bồ tát nhưng không đến chùa Bố tát kiểm giới có mang tội không?
Hỏi: Kính bạch thầy, con đã thọ giới Bồ tát, nhưng thỉnh thoảng con không có đến chùa sám hối và Bố tát nghe giới, như vậy con có phạm giới không? Và có phạm tội không?
Đáp: Xin thưa ngay là không có phạm giới và cũng không có phạm tội lỗi chi cả. Theo luật, sau khi Phật tử đã thọ giới Bồ tát, thì mỗi nửa tháng tốt nhứt, là Phật tử nên đến chùa trước là sám hối cùng với đại chúng, sau là nghe giới đã lãnh thọ. Bố tát là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là trưởng tịnh. Trưởng có nghĩa là nuôi lớn; tịnh có nghĩa là trong sạch hay an lạc. Hai chữ nầy có nghĩa là nuôi lớn căn lành và tịnh trừ nghiệp chướng.
Mục đích là để cho thân tâm của Phật tử được trong sạch. Đó là ý nghĩa của hai chữ Bố tát. Thế nhưng, tại sao mỗi nửa tháng chúng ta lại phải tụng hoặc nghe giới? Bởi vì tâm tánh của chúng ta nó dễ buông lung phan duyên theo trần cảnh. Khác nào như con khỉ, con vượn, luôn chuyền nhảy lung tung. Đã thế, thì thử hỏi làm sao chúng ta có thể tránh khỏi sự gây tạo lỗi lầm?
Giới luật Phật chế, mục đích là để ngăn ngừa những lỗi lầm sái quấy. Nhờ gìn giữ giới luật mà chúng ta mới được tự do, an vui, giải thoát. Giới có công năng lớn lao như thế, nên chúng ta đã lãnh thọ thì cần phải tôn trọng giữ gìn. Nhưng muốn gìn giữ cho có hiệu quả tốt đẹp, thì chúng ta cần phải nghe và học hỏi thường xuyên. Cho nên, Bố tát là cơ hội để nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những giới luật mà mình đã lãnh thọ. Vì bản tánh của chúng ta hay dễ quên lắm.
Do đó mỗi nửa tháng chúng ta cần phải tụng hoặc nghe giới một lần. Tuy nhiên, nếu vì hoàn cảnh bệnh tật hay vì một lý do đặc biệt quan trọng nào khác, mà Phật tử không thể đến chùa sám hối làm lễ Bố tát được, thì Phật tử cũng có thể gởi dục, nghĩa là nhờ một vị khác đồng giới thay Phật tử để bạch trình cho đại chúng biết. Như thế, cũng là hợp pháp.
Còn nếu trong trường hợp Phật tử bị mang tật bệnh dài lâu, cũng như không có phương tiện đến chùa được, thì Phật tử cũng có thể thưa bạch xin phép đại chúng là Phật tử chỉ xin được ở nhà sám hối tụng giới. Điều nầy cũng không có gì là sai trái.
Nói tóm lại, ngày lễ Bố tát có những điều lợi ích thực tế sau đây:
- Nghe lại những giới luật đã thọ, để khắc ghi sâu đậm mà cẩn thận gìn giữ. Đồng thời, cũng tăng trưởng thêm hạt giống lành và chuyển hóa thân tâm thanh tịnh an lạc. Nhất là ý thức đến sự vô thường, thời gian trôi qua nhanh chóng, để nỗ lực tiến tu, chóng được giải thoát.
- Nếu như trong nửa tháng qua, có phạm giới căn bản hay phạm những lỗi nhỏ, thì người phạm giới phải ra trước giữa đại chúng mà phát lồ tác bạch sám hối. Nhờ đó, mà tội lỗi tiêu mòn và thân tâm trở nên trong sạch.
- Nhờ Tam bảo chứng minh gia hộ và nhờ năng lượng gia trì mạnh mẽ của đại chúng, mà mình tăng thêm phước đức và tăng trưởng đạo lực trong sự tinh tấn tu hành ngày càng tốt đẹp hơn.
Đại khái đó là những điều lợi ích thực tế trong buổi lễ Bố tát vậy.
Kính chúc Phật tử tùy tâm mãn nguyện và thăng tiến mãi trên bưóc đường tu hành tiến đến Phật quả.
77. Muốn thọ giới Bồ tát, có nên học giới trước rồi thọ sau được không?
Hỏi: Kính bạch thầy, con muốn thọ giới Bồ tát, nhưng con chưa hiểu Bồ tát giới như thế nào, con có thể học giới trước rồi thọ giới sau được không? Kính xin thầy giải đáp cho con rõ.
Đáp: Điều nầy trong luật không cho phép. Bởi có những lý do sau đây:
Một, khi chưa thọ mà học giới trước, thì có thể Phật tử thấy giới luật khó quá, nên Phật tử lại dễ thối thất Bồ đề tâm, không dám lãnh thọ. Không lãnh thọ, tất nhiên, Phật tử không có gìn giữ. Do đó, đời sống có thể buông lung phóng túng hơn, vì không có gì kềm thúc. Chính đó cũng là nguyên nhân làm cho Phật tử không tiến bộ trên bước đường tu hành, tiến đến đạo quả giải thoát.
Hai, khi học giới rồi, có thể Phật tử lại khinh chê phê bình những ai đã thọ giới mà lại giữ không tròn. Đó là sanh cái tâm cống cao ngã mạn, cho mình thông hiểu, tự đắc cao ngạo khinh thường kẻ khác, gây thêm tội lỗi, thật không ích lợi gì!
Ba, sau khi thọ giới, Phật tử thấy cần phải học hỏi để hiểu và cố gắng gìn giữ cẩn thận. Nhờ đó, mà Phật tử mới tinh tấn tu học, tăng trưởng giới thân huệ mạng và thăng tiến trên đường giác ngộ nhanh hơn. Vì Phật tử sợ tội, nên mới chuyên tâm học hỏi gìn giữ đạo tâm. Còn học trước mà không thọ, đôi khi, Phật tử lại sanh tâm khinh thường giới luật và mang thêm cái lỗi vạch lá tìm sâu, tự cao, tự đại như đã nói ở trên.
Chính vì, biết rõ tâm bịnh của chúng sanh, nên Phật cấm một vị Sa di không được trộm lén nghe hay đọc giới luật của thầy Tỳ kheo hay giới Bồ tát. Một khi đã lén nghe, thì sau nầy sẽ không được thọ. Lén nghe còn bị Phật cấm, hà tất gì lại học trước sao? Do đó, nếu Phật tử muốn thọ để tiến tu mau được giải thoát, thì nên thọ trước rồi sẽ học hỏi giới luật sau. Đó cũng là điều rất tốt và rất đúng theo thứ lớp thọ học mà trong giới luật Phật đã nêu ra. Bởi những lẽ đó mà trong luật, Phật Tổ không cho chúng ta học trước là như thế.
Kính chúc Phật tử bền tâm dũng tiến mãi trên bước đường tu học để được an lạc giải thoát.
78. Niết Bàn và Cực lạc ý nghĩa giống nhau hay khác nhau?
Hỏi: Kính bạch thầy, có người nói ý nghĩa của Niết bàn và Cực lạc giống nhau. Con không biết có đúng không? Kính xin thầy hoan hỷ giải đáp cho chúng con rõ.
Đáp: Người nói như thế chỉ đúng ở một phương diện, chớ chưa đúng hẳn hoàn toàn. Nếu đứng về mặt lý tánh mà nói, thì ý nghĩa giống nhau. Vì Niết bàn là một tâm thể vắng lặng an vui giải thoát. Cực lạc hay Tịnh độ cũng là một tâm thể an thoát thuần vui cùng cực.
Cả hai đều vượt ngoài phạm trù đối đãi nhị nguyên, là một thực thể bất sanh bất diệt… Đến đó bặt dứt tất cả mọi danh ngôn sắc tướng, suy nghĩ không đến, luận bàn chẳng nhằm. Đó là điểm giống nhau trên căn bản lý tánh.
Tuy nhiên, nếu đứng về mặt sự tướng mà nói, thì giữa Niết bàn và Cực lạc cảnh giới và ý nghĩa khác nhau rất xa. Vì Niết bàn không phải là một cảnh giới có hình tướng cụ thể ngoại tại. Có người lầm tưởng cho rằng, Niết bàn như là một cảnh giới thù thắng vi diệu ở một cõi xa xăm nào đó, sau khi chết con người thác sanh về cõi đó để thụ hưởng những điều phước lạc.
Hiểu nghĩa Niết bàn như thế, thì quả thật đó là một điều sai lầm rất lớn. Mà Niết bàn như trên đã nói, nó là một cảnh giới nội tại, do diệt trừ hết tập nhân vô minh phiền não mà đạt được. Giống như gạn lọc hết quặng nhơ thì nguyên chất vàng ròng hiện ra. Mây tan thì trăng sáng. Đây là một quả vị cứu cánh tịch diệt giải thoát hoàn toàn.
Ngược lại, Cực lạc là một cảnh giới ngoại tại có hình tướng chánh báo và y báo cụ thể. Điều nầy, Kinh A Di Đà đã diễn tả cho chúng ta thấy rất rõ. Đó là một cảnh giới được xây dựng tựu thành bằng bảy thứ báu rất trang nghiêm thù thắng vi diệu. Từ cảnh vật cho đến nhân dân ở cõi đó, tất cả đều cực kỳ thắng diệu. Một thế giới hoàn toàn thuần vui không khổ. Thế nhưng, do đâu mà chúng ta biết được cảnh giới nầy? Đó chính là do đức Phật Thích Ca Mâu Ni tự giới thiệu. Nhờ đó mà chúng ta mới biết được.
Thế giới Cực lạc hiện nay do đức Phật A Di Đà làm giáo chủ. Có thể nói, đây là một thế giới văn minh tột cùng qua hai lãnh vực vật chất và tinh thần. Đó là một xã hội cao cấp tuyệt vời với một nền giáo dục đạo đức thượng đẳng. Người dân ở cõi đó toàn là những bậc thượng thiện nhơn cao đức dễ thương. Phải nói chánh báo và y báo ở cõi Cực lạc so với ở cõi Ta bà nầy, thì khác nhau rất xa một trời một vực. Chính vì một thế giới trang nghiêm cực kỳ thắng diệu cao đẹp như thế, nên người ở cõi nầy mới phát tâm dõng mãnh niệm Phật A Di Đà để cầu sanh về cõi nước đó.
Nói tóm lại, Niết Bàn và Cực lạc, nếu xét về phương diện lý tánh thì ý nghĩa thực chất của nó giống nhau. Còn xét về phần sự tướng thì rất là dị biệt. Nhưng nếu chúng ta khéo dung hợp trong sự tu hành, thì Niết bàn hay Cực lạc cũng từ tâm thể chúng ta mà ra. Tất cả không gì ngoài tâm ta cả. Kinh nói: “Nhứt thiết duy tâm, vạn pháp duy thức” là thế. Khác nào như nước trăm sông đều chảy về biển cả. Biển và sông tuy khác, nhưng thể nước vẫn đồng. Cực Lạc hay Niết Bàn cũng từ tâm ta mà có. Nếu Phật tử đạt được nhứt tâm, thì muôn pháp đều dứt.
Kính chúc Phật tử được đầy đủ phước duyên thẳng tiến mãi trên con đường tu học Phật pháp và sẽ đạt thành như ý nguyện.
79. Mang chuỗi đeo tay vào toilet có mang tội không?
Hỏi: Kính bạch thầy, thường con hay đeo xâu chuỗi tay để niệm Phật, nhưng khi đi toilet con vẫn mang trong tay, như thế con có mang tội không?
Đáp: Phật tử yên tâm không có gì phải mang tội cả. Bởi chủ ý của Phật tử đâu phải muốn mang chuỗi vào toilet. Mà mục đích đeo chuỗi là để lần chuỗi niệm Phật. Như vậy, đó là một dụng ý rất tốt. Phật tử không nên quá câu nệ vào hình thức. Điều quan trọng là khi Phật tử đeo chuỗi, Phật tử có nhớ thường xuyên niệm Phật hay không? Đó mới là điều đáng nói.
Còn việc Phật tử mang chuỗi tay vào nhà cầu không có gì đáng ngại cả. Bởi đó là việc sinh hoạt rất tự nhiên bình thường của con người. Không có ai bắt tội Phật tử đâu. Phật tử đừng lo sợ. Bởi chư Phật, Bồ tát các Ngài đâu còn phân biệt thường tình như phàm phu tục tử chúng ta.
Các Ngài đâu còn thấy có nhơ sạch, mà bắt tội Phật tử? Không lẽ, vì sợ tội, nên mỗi lần đi vệ sinh, thì Phật tử lại cởi chuỗi ra. Nhưng khi cởi ra, thì Phật tử phải để cất nó ở đâu? Đó lại thêm một vấn đề phiền phức rắc rối khác.
Có nhiều người họ đeo tượng Phật nhỏ ở cổ. Khi vào nhà vệ sinh, họ vẫn đeo như thường. Không lẽ mỗi lần vào nhà cầu, họ phải cởi ra sao? Việc tu hành, Phật tử nên linh động tùy duyên một chút. Nếu chấp nhứt câu nệ vào hình thức quá, thì rất trở ngại cho việc tu hành.
Thậm chí có những Phật tử nữ, đến ngày có kinh nguyệt lại không dám tụng kinh niệm Phật chi cả. Vì họ sợ dơ bẩn mà mang tội. Điều nầy, tôi cũng đã có giải thích cặn kẽ trong quyển 100 câu hỏi Phật Pháp tập một. Xin Phật tử hãy tìm quyển sách đó mà đọc lại cho thật kỹ, thì Phật tử sẽ hiểu rõ và không có gì phải thắc mắc lo sợ nữa.
Kính chúc Phật tử an tâm tu hành, chóng đạt thành sở nguyện.
80. Ý nghĩa chánh báo và y báo.
Hỏi: Kính bạch thầy, xin thầy hoan hỷ giải thích cho con rõ ý nghĩa của chánh báo và y báo là như thế nào?
Đáp: Chánh báo và y báo là thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo. Nói chánh báo là chỉ chung cho các loài hữu tình chúng sanh. Đặc biệt tiêu biểu là loài người. Vì loài người là loài hữu tình cao cấp thượng đẳng. Không có loài hữu tình nào có trí khôn thông minh bằng loài người. Còn y báo là chỗ nương tựa cho các loài hữu tình. Chữ y là nương; báo là đáp lại. Nghĩa là chỗ để cho các loài hữu tình nương tựa mà sống.
Nói cách khác, đây thuộc về loài vô tình chúng sanh hay khí thế gian. Theo sinh vật học, thì hữu tình thuộc về loài động vật. Còn vô tình hay y báo thuộc về loài thực vật và khoáng vật. Nói gọn cho dễ hiểu hơn, chánh báo thuộc về con người. Y báo thuộc vể môi trường cảnh vật chung quanh.
Như vậy, giữa chánh báo và y báo có sự sống hỗ tương liên quan mật thiết với nhau. Nhưng chánh báo là chủ động tạo tác, còn y báo là phụ thuộc vào chánh báo. Như những thứ: nhà cửa, xe cộ, vườn tượt, cây cối, ao hồ, đất đá, sông biển v.v… tất cả đều thuộc về y báo.
Một chánh báo tốt đẹp trang nghiêm, thì y báo cũng tùy đó mà trang nghiêm tốt đẹp theo. Muốn cho y báo, tức hoàn cảnh môi trường sinh thái chung quanh được an lành tốt đẹp, thì trước hết phải giáo dục xây dựng chánh báo, tức giáo dục xây dựng con người. Nghĩa là phải giáo dục xây dựng con người có một đời sống đạo đức văn minh, văn hóa cao đẹp cả hai phương diện về thể chất cũng như tinh thần.
Muốn biết một quốc gia có nền văn hóa mức sống tiến bộ cao hay thấp, hãy thử nhìn vào y báo, tức hoàn cảnh môi trường sống chung quanh của quốc gia đó, thì chúng ta sẽ biết ngay. Nhất là những nơi sinh hoạt công cộng như: bến xe, đường xá, cầu xí, phố thị v.v…
Cứ nhìn vào những nơi nầy, thì chúng ta cũng có thể đánh giá biết được phần nào đời sống trình độ dân trí của người dân, cũng như hệ thống tổ chức cai trị của quốc gia đó. Nhất là đời sống kinh tế của họ. Không cần phải tìm hiểu ở đâu xa. Cứ nhìn vào y báo người ta có cũng thể biết được chánh báo. Ngược lại cũng thế.
Thí như nhìn vào sự trang trí của một căn nhà, hay khu vườn (y báo) ta cũng có thể đoán định được phần nào về cá tánh khuynh hướng đời sống của những người (chánh báo) trong căn nhà đó. Trái lại, nếu là người có nếp sống bê bối cẩu thả, thì cảnh trí chung quanh họ cũng bê bối không trang nhã ngăn nắp trật tự.
Dựa theo ý nghĩa cụ thể nầy, nếu ta khéo biết ứng dụng chánh báo và y báo vào đời sống tu hành của chúng ta, thì cũng rất là hay và có nhiều điều lợi ích thiệt thực. Sự tu hành, trước hết là ta phải sửa ở nơi chánh báo, tức sửa ở nơi thân tâm của ta. Nếu thân tâm của ta được an bình tốt đẹp, thì cảnh vật chung quanh ta (y báo) cũng theo đó mà an ổn tốt đẹp theo.
Đó là chúng ta khéo biết tu sửa ở nơi cái gốc. Hễ cái gốc vững chắc lành mạnh tốt đẹp rồi, thì cái ngọn cũng theo đó mà có nhiều khởi sắc tốt đẹp. Bởi vì mọi vật đều do chính con người tạo ra. Con người có đạo đức tốt đẹp, thì tạo ra cảnh vật chung quanh cũng trang nhã xinh lịch tốt đẹp. Nghĩa là, ai trông thấy cũng khen ngợi thích thú.
Kinh A Di Đà đã diễn tả cho chúng ta thấy rõ điều đó. Những nét đẹp thù thắng cực kỳ trang nghiêm thanh tịnh ở thế giới Cực lạc, đều do đức Phật A Di Đà và nhơn dân ở cõi đó tạo ra. Từ chánh báo đến y báo, tất cả đều cực thắng trang nghiêm thanh tịnh. Được thế do đâu? Phải chăng tất cả đều do chánh báo tạo tác mà ra.
Điều đó, đủ chứng minh cho thấy, việc giáo dục xây dựng chánh báo (con người) mới là điều quan trọng tối thiết yếu. Câu nói: “Tâm bình thế giới bình” hay “Tâm xuân thế giới xuân”, đó là nói lên ý nghĩa của chánh báo và y báo. Muốn thế giới hòa bình, thì trong tâm của mỗi người phải có hòa bình trước. Nếu không được vậy, thì đó chỉ là điều mơ mộng ảo huyền mà thôi!
Mong sao mỗi chánh báo (tức mỗi con người) tự trau dồi đạo đức, tu tâm sửa tánh, xây dựng đời sống thân tâm an bình tốt đẹp, đừng tiếp tục gây nên thảm họa chiến tranh và làm ô nhiễm môi trường.
Được vậy, lo gì y báo (môi trường sống) không mang lại cho con người có nhiều tinh khiết mát mẻ trong lành tốt đẹp để cho con người thụ hưởng tạo nên một đời sống hòa bình an vui hạnh phúc tuyệt vời vậy.