;
Quyển II - Sự quán thấy của Đức Phật về sự vận hành của thế giới (Bài 5)

Tiếp theo dưới đây chúng ta sẽ trích dẫn ba bài thơ – kinh sách Hán ngữ gọi là ‘kệ’. Trên phương diện tổng quát thì kinh điển Phật giáo nói chung không chủ trương một sự áp đặt nào cả, cũng không đưa ra một sự hứa hẹn nào cả, mà chỉ mô tả sự vận hành mang bản chất khổ đau của thế giới và đề nghị một phương pháp giúp con người thoát ra khỏi sự vận hành khổ đau đó của thế giới.
Qua góc nhìn đó thì không phải chỉ có Đức Phật thực hiện được điều đó, mà tất cả mọi người đều có thể tạo được sự giải thoát đó. Ngài chỉ là người chỉ dạy mà thôi. Trên dòng lịch sử phát triển của Phật giáo từng có rất nhiều người đã đạt được sự giải thoát đó. Kể cả ngày nay cũng có những người thực hiện được mục đích đó, chẳng hạn như Đức Đạt-lai Lạt-ma của xứ Tây Tạng. Thiết nghĩ chỉ cần nêu lên trường hợp này cũng là đủ.
Đối với Phật giáo tất cả mọi người cùng đi trên một con đường, có người đi nhanh, có người đi chậm. Có thể Đức Phật đang đi bên cạnh chúng ta nhưng chúng ta không hay biết mà thôi. Ngược về quá khứ, vào thời đại của Đức Phật, khi xã hội còn dưới chế độ phụ hệ, người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi, nhưng cũng có nhiều người vượt được những đoạn đường thật xa. Kinh điển Phật giáo do đó không nhất thiết chỉ gồm những lời thuyết giảng của Đức Phật mà còn góp nhặt và ghi chép các kinh nghiệm và các cảm ứng của các đệ tử của Ngài, cả nam lẫn nữ.
Các kinh nghiệm, các câu chuyện cùng các cảm ứng này được gộp chung trong hai tiết mục. Tiết mục thứ nhất mang tựa là Theragāthā / Trưởng lão Tăng kệ, chữ thera có nghĩa là các nam tỳ-kheo trọng tuổi và thành đạt, chữ gāthā có nghĩa là các vần thơ. Tiết mục thứ hai mang tựa là Therigāthā, chữ therī có nghĩa là các nữ tỳ-kheo thành đạt và có một quá khứ tu tập lâu dài. Hai tiết mục này được ghép chung trong một tập bài giảng thật đồ sộ và khá quan trọng là Khuddaka Nikāya / Tiểu Bộ Kinh, chữ khuddha có nghĩa là nhỏ hay ngắn, nhưng không có nghĩa là thứ yếu. Ba câu chuyện dưới đây, trích dẫn từ tiết mục Therīgāthā / Trưởng lão Ni kệ, nêu lên sự thành đạt của ba vị ni sư trong ba bối cảnh khác nhau. Câu chuyện thứ nhất như sau:
Các lời tự thuật của Ni sư Trưởng lão Ambapālī
Ambapālītherīgāthā - Thig 13.1
Câu chuyện xảy ra tại kinh thành Vesali (Tỳ-xá-li), ngày nay là thị trấn Vaishali thuộc tiểu bang Bihar của nước Ấn. Một hôm, trong khu vườn của vua, người làm vườn bất chợt trông thấy có người vứt bỏ một đứa bé gái dưới gốc một cây xoài, bên cạnh hàng rào. Người làm vườn nhặt đứa bé, nuôi nấng và gọi nó là Ambapālī, ‘Con bé nhặt được ở gốc cây xoài’, chữ amba có nghĩa là cây xoài, chữ pālī có nghĩa là hàng rào.
Lớn lên, ‘Con bé nhặt được ở gốc cây xoài’ trở thành một thiếu nữ tuyệt đẹp, và cũng là một kỹ nữ được các vương gia, công tử săn đón. Chữ ‘kỹ nữ’ là chữ dịch lại từ chữ courtesan trong các bản dịch tiếng Anh, thế nhưng trong tiếng Anh thì chữ này cũng có nghĩa là một cô gái làng chơi hạng sang, do vậy có thể hiểu chữ kỹ nữ là các ‘cô đầu’, các ‘ả đào’ hay ‘ca nương’ trong các xã hội phong kiến Việt Nam và Trung quốc.
Thế nhưng điều đáng nêu lên hơn cả là ‘Con bé nhặt được ở gốc cây xoài’ ngày xưa đã sớm biết đến Dhamma của Đức Phật, và đã trở thành một ni sư rất nhiệt tình. Tạng Luật có nhắc đến vị ni sư này, ngoài ra ngay trong tiết mục Therīgāthā / Trưởng lão Ni kệ, ngoài các vần thơ trích dẫn dưới đây, cũng thấy lưu lại các vần thơ khác của bà. Điều đáng khâm phục hơn nữa là bà đã đứng ra xây dựng một tịnh xá trong chính khu vườn của bà để hiến dâng Đức Phật và Tăng đoàn. Và đây cũng là dịp mà Đức Phật trở lại kinh thành Vesali lần sau cùng trước khi tịch diệt không lâu sau đó. Các vần thơ của Ni sư Ambapālī như sau:
Mái tóc tôi, óng ả những lọn tóc xoăn,
Đen nhánh, màu đen của các con ong,
Với tuổi già, chẳng khác gì những sợi gai thô.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Thuở xưa, đầu tóc tôi,
Thơm phức một vòng hoa,
Với tuổi già, bốc lên mùi lông thú.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Ngày xưa, mái tóc tôi thật dầy như một khu rừng thâm u,
Mượt mà, nào là trâm cài lược giắt.
Với tuổi già, chỗ thưa chỗ hói.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Ngày xưa, mái tóc đen cài lên các chiếc trâm vàng,
Các bím tóc cột lại bằng các giải khăn xinh xinh.
Với tuổi già, đỉnh đầu tôi thưa thớt.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Ngày xưa đôi lông mày tôi cong lên,
Tuyệt vời như trong tranh của một họa sĩ.
Với tuổi già, cụp xuống, cong queo.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Ngày xưa, xanh thẳm đôi mắt tôi mở to,
Sáng ngời như những viên ngọc quý,
Với tuổi già, hóa thành mờ ảo.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Thời son trẻ, thon thon,
Sóng mũi tôi tuyệt vời.
Với tuổi già, cong queo chẳng khác gì quả ớt,
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Đôi thùy tai, một thời xưa tuyệt đẹp,
Đeo các hoa tai xinh xinh,
Với tuổi già, lòng thòng, nhăn nheo và méo mó.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Tuổi trẻ hai hàm răng xinh xinh,
Trắng muốt như những cánh hoa nhài,
Với tuổi già, sứt mẻ, vàng úa một màu nâu.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Ngày xưa âm giọng tôi ngọt ngào,
Như tiếng gáy của con chim cu trong khu rừng thật sâu.
Với tuổi già, khô khan và đứt quãng.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Thời tuổi trẻ cổ tôi xinh xinh,
Nhẵn thín như chiếc vỏ sò mài bóng,
Với tuổi già, xiêu vẹo và gục xuống.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Ngày xưa, hai cánh tay tôi thật tròn,
Tuyệt vời như đôi then cài cửa.
Với tuổi già, khẳng khiu như những cành cây pāṭali (tên khoa học là Stereospermum tetragonum).
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Ngày xưa đôi bàn tay tôi tuyệt đẹp,
Các ngón đeo nhẫn vàng xinh xinh,
Với tuổi già, nào khác gì các củ khoai cong queo.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Ngày xưa, tuyệt đẹp đôi vú tôi,
Căng tròn, nhô cao và ngạo nghễ.
Với tuổi già, lòng thòng như hai bọc nước.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Ngày xưa thân thể tôi,
Nào khác gì một thoi vàng bóng loáng,
Với tuổi già, hóa thành nhăn nheo.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Ngày xưa cặp đùi tôi tuyệt đẹp,
Mềm mại như những chiếc vòi voi.
Với tuổi già, khẳng khiu như hai đốt tre.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Ngày xưa, cổ chân tôi đeo các vòng kiềng vàng,
Hai bắp chân xinh xinh.
Với tuổi già, nào khác gì các que kẹo mè.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Bọc xương này từng là như thế đó, một ngày xưa.
Hôm nay tàn tạ, nào khác gì một gian nhà đổ nát,
Bên trong cất chứa toàn là khổ đau.
Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’,
Vẫn luôn là sự thật.
Vài lời ghi chú
Bài thơ nêu lên sự vận hành tương liên và nối kết giữa tuổi thanh xuân và lúc tuổi già của một người phụ nữ, gợi lên một quá trình suy thoái: ‘cái này có, cái kia có’ theo chiều tiêu cực. Dhamma của Đức Phật, trên dòng lịch sử quảng bá lâu dài, không sao tránh khỏi các sự thêm thắt và chuyển biến, thế nhưng cốt lõi của Dhamma đó vẫn vững chắc, vẫn luôn là sự thật: nguyên lý tương liên và tương tác vẫn tiếp tục chi phối sự chuyển động của thế giới, sự sinh vẫn đưa đến sự già nua và cái chết, khổ đau vẫn hiện lên với sự hiện hữu của con người.
Chẳng phải ‘Sự thật trong những lời của ‘Vị thốt lên sự thật’, vẫn luôn là sự thật’ hay sao? ‘Con bé nhặt được ở gốc cây xoài’ ngày xưa, tuy phải trải qua những thử thách thật cam go ngay từ những ngày bé bỏng, thế nhưng đã sớm trông thấy con đường, đi trọn được con đường, trông thấy sự thật và cũng đã thuật lại sự thật ấy để gửi lại cho chúng ta hôm nay. Điều đó cho thấy ‘cái này có, cái kia có’, nhưng theo chiều tích cực. Nếu khổ đau có, nghị lực có, thì chúng ta không ngã quỵ trên con đường.
Trong kinh điển tiếng Việt cũng có ít nhất hai bản dịch về bài thơ trên đây của Ni sư Ambapālī. Bản dịch thứ nhất của Bhikkhu Indacanda, một vị tỳ-kheo Việt Nam mang pháp danh bằng tiếng Pali, đích thân sang Tích Lan học tiếng Pali và Phật Pháp, đã dịch và chuyển bài thơ này của Ni sư Ambapālī thành văn xuôi. Bản dịch thứ hai của TT Thích Minh Châu thì lại chuyển bài thơ này của Ni sư Ambapālī thành một bài ‘kệ’. Các cách diễn đạt bằng văn xuôi và bằng lời kệ dường như làm mất đi ít nhiều xúc cảm và cái đẹp trong các vần thơ.
Dầu sao thì các nhận xét trên đây cũng chỉ là thứ yếu, mang tính cách chủ quan và thuộc lãnh vực hình thức, việc đánh giá nội dung tùy thuộc vào sự nhận định và quan điểm của mỗi người đọc. Người viết các dòng này cố tránh không trích dẫn ghép thêm các bản dịch tiếng Hán và cả các bản dịch tiếng Việt đã có từ trước, nhằm tránh sự nặng nề cho toàn bộ quyển sách.
Thế nhưng các bản dịch Khuddhaka Nikāya / Tiểu Bộ Kinh sang tiếng Việt sẵn có không phân biệt và đánh số từng bài giảng, do đó rất khó truy tìm ít nhất là đối với một số độc giả không quen tìm tòi và tra cứu. Vì lý do đó bài thơ này của Ni sư Ambapālī và hai bài thơ trích dẫn tiếp theo dưới đây sẽ được kèm thêm các bản dịch tiếng Việt đã có từ trước, nhằm mục đích giúp người đọc đối chiếu, tham khảo và tìm hiểu thêm về nội dung cũng như ý nghĩa của các bài thơ này, nhưng không mất nhiều thì giờ vào việc truy tìm. Sau đây là hai bản dịch của Bhikkhu Indacanda và của TT Thích Minh Châu về bài thơ của Ni sư Ambapālī:
|
Bản dịch của Bhikkhu Indacanda |
Bản dịch của TT Thích Minh Châu |
|
“Các sợi tóc của tôi đã là màu đen giống như màu của loài ong, có đầu ngọn bị xoắn lại. Bởi tuổi già, chúng trở thành tương tự như những thớ sợi của vỏ cây gai; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
Cái đầu của tôi, đầy những bông hoa, được tỏa hương tựa như cái hộp thơm. Bởi tuổi già, nó trở nên có mùi tương tự như lông của loài chó; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Tựa như khu rừng rậm khéo được trồng trọt, (đầu tóc) được trông tuyệt đẹp với những đầu ngọn tóc được tách rời ra nhờ vào lược và kim găm. Bởi tuổi già, nó trở nên lơ thơ chỗ này chỗ nọ; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Được điểm tô với vàng ở chùm tóc đen, được trang điểm với những bím tóc xinh, (đầu tóc) trông tuyệt đẹp. Bởi tuổi già, nó bị làm trở thành cái đầu bị sói; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Tựa như đường nét được khéo tạo ra bởi người thợ vẽ, cặp lông mày xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp. Bởi tuổi già, chúng bị giăng ngang với những nếp nhăn; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Đôi mắt dài, có màu đen tuyền, đã là rực rỡ, vô cùng xinh xắn giống như ngọc ma-ni. Bởi tuổi già, chúng bị tàn phá, không còn tuyệt đẹp; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Và lỗ mũi tựa như đỉnh chóp thanh tú, trông tuyệt đẹp vào thời điểm còn rất trẻ. Bởi tuổi già, nó tựa như bị quắt lại; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Hai dái tai của tôi trông tuyệt đẹp, tựa như vòng xuyến khéo được gia công, khéo được hoàn thành. Bởi tuổi già, chúng bị giăng ngang với những nếp nhăn; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Những cái răng xinh xắn của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, tựa như nụ hoa chuối. Bởi tuổi già, chúng bị sứt mẻ và ngả màu vàng; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Tôi đã thỏ thẻ giọng ngọt ngào tựa như con chim cu cu có sự di chuyển ở trong khu rừng lớn và rừng thưa. Bởi tuổi già, giọng ấy đã bị ngập ngừng chỗ này chỗ nọ; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Cái cổ xinh của tôi trông vô cùng xinh đẹp, tựa như vỏ sò (có ba ngấn) mềm mại, khéo được chùi bóng. Bởi tuổi già, nó trở nên bị đứt đoạn và võng xuống; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Hai cánh tay xinh của tôi trông vô cùng xinh đẹp, cả hai giống y như thanh gài cửa tròn trịa. Bởi tuổi già, chúng trở thành giống như (những cành) cây hoa kèn bị khô héo; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Hai bàn tay xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, được tô điểm với chiếc nhẫn thanh nhã làm bằng vàng. Bởi tuổi già, chúng trở thành giống như rễ củ (cà rốt); lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Bộ ngực nhỏ xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, cả hai đều đầy đặn, tròn trịa, liền nhau, dựng đứng. Bởi tuổi già, chúng trở thành lủng lẳng giống như hai túi da hết nước; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Thân thể xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, tựa như lát vàng khéo được đánh bóng. Bởi tuổi già, nó bị tràn lan với các nếp nhăn li ti; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Cặp đùi xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, cả hai tương tự như cái vòi của loài voi. Bởi tuổi già, chúng trở thành giống như các ống tre; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Hai ống chân xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, được điểm tô với các vòng kiềng thanh nhã làm bằng vàng. Bởi tuổi già, chúng trở thành tựa như các cọng thân của cây mè; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Hai bàn chân xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, cả hai tương tự như được phủ đầy bông gòn. Bởi tuổi già, chúng bị nứt nẻ, có nếp nhăn; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác. Thân xác này đã trở nên như thế này, già cỗi, nơi chứa đựng nhiều khổ đau, ngôi nhà cũ kỹ bị rơi xuống các lớp vữa hồ; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.” Trưởng lão ni Ambapālī đã nói những lời kệ như thế.- |
252. Ðen như sắc con ong, Tóc dài ta khéo uốn, Nay biến đổi vì già, Như vải gai, vỏ cây, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
253. Thơm như hộp ướp hương, Ðầu ta đầy những hoa, Nay biến đổi vì già, Hôi như lông con thỏ, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
254. Như rừng khéo vun trồng, Lược kim tu chói sáng, Nay biến đổi vì già, Tóc lơ thơ rơi rụng, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật
255. Trang điểm với bện tóc, Sáng chói nữ trang vàng, Tóc mềm mại êm dịu, Thơm ngát với mùi hương, Nay biến đổi vì già, Rơi rụng đầu sói trọc, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
256. Trước lông mày của ta, Chói sáng khéo tô vẽ, Nay biến đổi vì già, Nhăn nheo, rơi suy sụp, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
257. Mắt ta xanh và dài, Sáng đẹp như châu báu, Nay biến đổi vì già, Hư hại không chói sáng, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
258. Lỗ mũi mềm và thon, Sáng chói và trẻ măng, Nay biến đổi vì già, Héo khô và tàn tạ, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
259. Trước tai ta sáng chói, Như vàng vòng khéo làm, Nay biến đổi vì già, Nhăn nheo chảy xệ xuống, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
260. Trước răng ta sáng chói, Như búp nụ chuối hoa, Nay biến đổi vì già, Bể gãy vàng như lúa, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
261. Ngọt là giọng nói ta, Như chim cu hót rừng, Nay biến đổi vì già, Tiếng bể bị đứt đoạn, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
262. Trước cổ ta chói sáng, Mềm đầy đặn nhu nhuyến, Nay biến đổi vì già, Nhiều ngấn và khô cằn, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
263. Trước cánh tay của ta, Sáng như hai cột tròn, Nay biến đổi vì già, Như hoa kèn yếu ớt, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
264. Trước bàn tay của ta, Mềm mại như cành hoa, Sáng như nữ trang vàng, Nay biến đổi vì già, Như rễ cây khô cằn, Nhăn nheo và thô nhám, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
265. Trước vú ta sáng chói, Căng thẳng và tròn đầy, Nay biến đổi vì già, Trống rỗng treo lủng lẳng, Như da không có nước, Trống không, không căng tròn, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
266. Trước thân ta chói sáng, Như giáp vàng đánh bóng, Nay biến đổi vì già, Ðầy vết nhăn nhỏ xíu, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
267. Trước bắp vế của ta, Sáng chói như vòi voi, Nay biến đổi vì già, Giống như những ống tre, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật. 268. Trước ống chân của ta, Mềm mại như vòng vàng, Nay biến đổi vì già, Chẳng khác gậy cây mè, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật. 269. Trước chân ta chói sáng, Với lông mềm như bông, Nay biến đổi vì già, Nứt nẻ đầy đường nhăn, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
270. Thân này là như vậy, Nay già chứa nhiều khổ, Ngôi nhà đã cũ kỹ, Vôi trét tường rơi xuống, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
|
Tiếp theo dưới đây là các vần thơ của một vị ni sư khác là Vimalā:
Lời tự thuật của Ni sư Trưởng lão Vimalā
Vimalātherīgāthā - Thig 5.2
Vimalā là tên của một kỹ nữ (courtesan) trước khi trở thành một ni sư đáng kính. Ni sư Ambapālī tác giả của bài thơ trên đây cũng vậy, lớn lên từ một đứa bé sơ sinh nhặt được dưới gốc một cây xoài đã trở thành một kỹ nữ. Phải chăng số phận của người phụ nữ trong các xã hội phụ hệ cổ xưa là như vậy? Thật vậy, kinh sách thường nói đến các tỳ kheo nam giới, các người ‘chủ gia đình’, các người ‘con trai trưởng’ trong gia đình, nhưng không mấy khi nói đến những người phụ nữ. Thế nhưng trong các xã hội phụ hệ xa xưa đó cũng có những nguời phụ nữ khác thường, nhưng cũng không phải là tất cả những người đàn ông đều đáng kính như các vị tỳ-kheo. Dưới đây là các vần thơ của Ni sư Trưởng lão Vimalā:
Thuở thanh xuân,
Say sưa với vóc dáng,
Với thân hình, với sắc đẹp, với sự lừng danh,
Tôi khinh thường những người phụ nữ khác.
Trang điểm, tôi biến thân thể tôi tuyệt đẹp,
Khiến những tên điên rồ trầm trồ .
Tôi đứng ở cửa nhà thổ,
Tương tự như một tên thợ săn giăng mồi.
Vì họ tôi cởi phăng quần áo,
Phô bày các kho tàng dấu kín trong tôi,
Gợi lên một ảo giác thật khó tả ,
Bật cười, tôi trêu chọc những tên đàn ông ấy.
Hôm nay tôi ôm bình bát khất thực,
Đầu cạo trọc, đắp thân tôi trong hai lớp áo.
Dưới một cội cây, tôi ngồi xuống,
Trong tâm thức, một sự trống không.
Dù thuộc thuộc cấp bậc con người hay thiên giới,
Tất cả mọi gông cùm đều bị bẻ gãy.
Thoát ra khỏi mọi ô nhiễm, tôi hóa thành nguội lạnh,
Không một bám víu nào trong tôi.
Bài thơ tuy ngắn, bộc trực nhưng ý nghĩa thật mạnh và sâu sắc, nêu lên một sự tương kết giữa thân phận và nghị lực của một người phụ nữ, một sự tương kết mang tính cách tích cực, có nghĩa là từ một cái gì đó thấp kém đưa đến cái gì khác cao cả hơn.
Cốt lõi của Phật giáo là quyết tâm và nghị lực, không phải chỉ có cầu xin. Vì thế thiết nghĩ đôi khi chúng ta cũng nên nhìn vào thân phận mình hầu phát huy một nghị lực để biến cải nó. Dưới đây là hai bản dịch của TT Thích Minh Châu và của Bhikkhu Indacanda về bài thơ của Ni sư Vimalā:
|
Bản dịch của Bhikkhu Indacanda |
Bản dịch của TT Thích Minh Châu |
|
Bị đắm say với màu da, dáng vóc, vẻ đẹp, và tiếng tăm, và kiêu kỳ với tuổi thanh xuân, tôi đã khinh khi những người đàn bà khác.
Sau khi trang điểm thân này vô cùng sặc sỡ, khiến những kẻ ngu trầm trồ, tôi đã đứng ở cửa lớn của tiệm buôn hương bán phấn, tựa như người thợ săn giăng ra bẫy mồi.
Trong khi phô bày sự chưng diện, bộ phận kín được bộc lộ nhiều nơi, tôi đã làm nhiều trò ma mãnh trong khi cười giỡn với đám đông người. Hôm nay, tôi đây, sau khi đi khất thực, đầu cạo, trùm lên y hai lớp, ngồi xuống ở gốc cây, có sự đạt được trạng thái vô tầm (nhị thiền).
Tất cả các sự ràng buộc thuộc về cõi trời và thuộc về loài người đã được trừ tuyệt. Sau khi quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lão ni Vimalā đã nói những lời kệ như thế.
|
72. Say mê với giai cấp, Với dung sắc tuổi xuân, Với danh xưng, danh vọng, Ta ỷ lại tuổi trẻ, Ðối với những người khác, Ta khinh bỉ khinh thường.
73. Thân này ta trang điểm, Ta khêu gợi kẻ ngu, Ta đứng trong khung cửa, Tại cửa hàng buôn sắc, Như thợ săn, ác độc, Ðang gieo đặt bẫy mồi.
74. Ta khoa trương trang sức, Phô bày nhiều chỗ kín, Ðể châm biếm nhiều người, Ta làm nhiều ảo thuật, Hôm nay ta khất thực, Ðầu trọc, đắc đại y, Ta ngồi dưới gốc cây, Ta chứng định không tầm.
75. Mọi khổ ách đoạn tận, Cả cõi trời, cõi người, Quăng bỏ mọi lậu hoặc, Ta mát lạnh tịch tịnh. -
|
Nếu hai bài thơ trên đây là của hai ni sư trưởng lão xuất thân từ các cấp bậc khiêm tốn trong xã hội, thì bài thơ dưới đây là những lời tự thuật của một ni sư trưởng lão trong giới hoàng tộc.
Lời tự thuật của Ni sư Trưởng lão Sundarī-Nandā
Sundarīnandātherīgāthā - Thig 5.4
Theo Tạng Luật (Vinaya Nikāya) thì Ni sư Sundarī -Nandā là con gái của bà Maha Pajapati, vợ thứ của vua Suddhodana, và cũng là em gái của mẹ của Đức Phật là bà Mayadevi. Mẹ của Đức Phật sau khi hạ sinh Ngài thì qua đời vì hậu sản. Trước đó vài ngày thì bà Maha Pajapati, dì của Đức Phật, cũng hạ sinh, nhưng là một bé gái, đặt tên là Nandā. Trước tình cảnh mồ côi mẹ của cháu mình vừa mới sinh, bà Maha Pajapati giao con của mình cho các vú nuôi và tự mình đích thân chăm lo và nuôi nấng cháu mình là Đức Phật tương lai. Lớn lên Đức Phật không hề biết người mẹ sinh ra mình là ai cả. Phải chăng đấy cũng là một niềm đau trong lòng người thanh niên Gotama trước khi đạt được sự Giác ngộ.
Trong khi đó thì người con gái Nandā, con của người dì và cũng là em cùng cha với mình, lớn lên và trở thành một thiếu nữ tuyệt đẹp, tính tình hân hoan và vui vẻ, do vậy đã được ghép thêm biệt danh là Sundarī (chữ sundara có nghĩa là xinh đẹp / elegant, nice, pretty…). Cô công chúa Sundarī-Nandā được hoàng gia dự trù gả cho một thanh niên dòng giỏi quý phái, nhưng cô đã khước từ và bước theo con đường Dhamma của Đức Phật và sau đó đã đạt được thể dạng Arahant. Ngoài ra cũng xin lưu ý là thời đại của Đức Phật thuộc thời kỳ tiền lịch sử của nước Ấn, kinh điển Pali là một nguồn tư liệu vô cùng quý giá giúp các sử gia ngày nay tìm hiểu về các bộ tộc, lãnh thổ, vua chúa, các sự sinh hoạt xã hội, các thói tục dân gian vào thời bấy giờ. Dưới đây là các vần thơ của Ni sư Sundarī-Nandā:
« Này Nandā, hãy nhìn vào cái bọc xương này,
(Xin lưu ý đây là lời của Ni sư Sundarī-Nandā nêu lên sự suy nghĩ của mình, tự gọi mình và tự nói với mình)
Như là một thứ gì đó dơ bẩn, hôi thối, cất chứa đầy bệnh tật,
(dù rằng Ni sư Nandā nổi tiếng là một phụ nữ xinh đẹp)
Với một tâm thức mở rộng, hãy nhìn vào sự uế tạp đó,
Để hợp nhất hóa nó (để trông thấy bản chất của nó từ bên trong nó) và mang lại cho nó sự trong sáng.
Cái này có, cái kia có (thân xác… có, bệnh tật, dơ bẩn và hôi thối… có).
Cái này [sinh ra] là như thế này, cái kia [sinh ra] là như thế kia,
(thân xác… sinh ra là như thế này; bệnh tật, dơ bẩn và hôi thối… sinh ra là như thế kia: hai thể dạng liên kết với nhau)
Khi mùi buồn nôn [của thân thể] xông lên,
Thì đấy lại là sự thích thú của những kẻ điên rồ.
Sau khi suy nghĩ như thế,
Không mệt mỏi, ngày cũng như đêm,
Tôi nhận thấy được các điều ấy,
Qua sự quán xét về con người của chính tôi.
Khi quán xét thật chú tâm về thân xác này [của tôi],
– Đúng với nó cũng chỉ là như thế –
Thì tôi trông thấy được nó,
Từ [bản chất] bên trong chính nó và cả [dáng vẻ] bên ngoài của nó,
Tỉnh ngộ về [bản chất của] thân xác này,
Tôi vỡ mộng đối với nó từ bên trong chính nó.
Phát huy sự cảnh giác, tôi tách ra khỏi nó,
Sự thanh thản hiện lên trong tôi.
Dưới đây là hai bản dịch của Bhikkhu Indacanda và của TT Thích Minh Châu về bài thơ này. Theo hai bản dịch này thì có thể hiểu lầm những lời tự thuật của Ni sư Sundarī-Nandā là những lời dạy bảo của Đức Phật. Sự sơ sót này quả là một điều đáng tiếc (xin lưu ý các chữ in đậm).
|
Bản dịch của Bhikkhu Indacanda |
Bản dịch của TT Thích Minh Châu và GS Trần Phương Lan |
|
“‘Này Nandā, cô hãy nhìn thấy xác thân là bệnh hoạn, không trong sạch, hôi thối, hãy tu tập tâm được chuyên nhất, khéo được định tĩnh, về (đề mục) tử thi. Thân này như thế nào thì xác kia như vậy, xác kia như thế nào thì thân này như vậy. Nó bốc mùi khó chịu, hôi thối, lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.
Trong khi xem xét xác thân này như thế, không biếng nhác, cả ngày lẫn đêm, từ đó, với trí tuệ của mình, sau khi đã phân tích thấu đáo, cô sẽ nhìn thấy.’ Tôi đây, không bị xao lãng, trong lúc đang suy xét theo đúng đường lối, đã nhìn thấy thân này đúng theo bản thể, cả bên trong lẫn bên ngoài.
Rồi tôi đã nhàm chán xác thân, và tôi đã không còn luyến ái ở nội phần. Không bị xao lãng, không còn bị ràng buộc, tôi có được trạng thái an tịnh, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lão ni Sundarīnandā đã nói những lời kệ như thế.
|
Rồi đức Phật thuyết pháp cho cô như sau: 82. Nandā, hãy nhìn thân! Bệnh bất tịnh , hôi thối, Hãy tu tâm bất tịnh , Nhất tâm khéo định tĩnh. 83. Như thân này thân ấy, Như thân ấy thân này, Hôi thối và rữa nát, Chỉ kẻ ngu thích thú . 84. Như vậy quán thân này, Ngày đêm không mệt mỏi , Với trí tuệ của con, Do vậy hãy thoát ly , Với trí tuệ của con, Thoát khỏi kiêu sắc đẹp, Và người si nhìn thấy, Với cái nhìn như thật . Rồi cô nghe theo lời dạy, với trí tuệ an trú vững chắc trên quả thứ nhất. Muốn giúp cô đạt được những quả vị cao hơn, Thế Tôn dạy thêm cho cô: “Này Nandā, trong cái thân này không có một chút gì là tinh túy , chỉ là một đống xương và thịt bị già chết chi phối .” 85. Thành này làm bằng xương, Quét tô bằng máu thịt, Ở đây già và chết, Mạn, lừa đảo chất chứa . Khi đức Phật nói xong, cô liền chứng quả A-la-hán. Và nghĩ đến sự chiến thắng của mình, cô sung sướng với lời dạy của đức Bổn Sư […] |
Bures-Sur-Yvette, 04.11.25
Hoang Phong
(Còn tiếp)