;
Bài giảng thứ nhất trích từ tập Majjhima Nikāya / Trung Bộ Kinh, diễn ra trong một khu rừng thưa dành riêng cho một thương gia giàu có sau khi đã trao lại tất cả của cải của mình cho con cái và chấm dứt mọi sinh hoạt kinh doanh.

Bài giảng thứ hai trích từ tập Khuddaka Nikāya / Tiểu Bộ Kinh, trong mục Sutta Nipāta / Kinh Tập, diễn ra giữa trời dưới ánh trăng trong một đêm rằm, dành cho sáu-mươi tỳ-kheo trong Tăng đoàn. Bài giảng này phân tích sâu xa và chi tiết hơn, nêu lên sự diễn tiến từ nguyên nhân của khổ đau đưa đến sự chấm dứt của khổ đau, qua các khoen nối kết của nguyên lý tương liên. Bài giảng thứ nhất như sau:
Bài giảng cho người chủ gia đình Pōtaliya
Pōtaliya sutta - MN 54
Tôi từng được nghe như vầy. Vào dịp khi Đấng Thế Tôn đang ngụ tại một thị trấn nhỏ mang tên là Āpana, trong xứ của người dân Aṅguttarāpas.
Trong dịp này, vào một hôm vào lúc tinh sương, Đấng Thế Tôn mặc áo trong, khoác thêm áo ngoài cīvara (áo cà-sa / áo màu vàng của người tu hành) ôm bình bát đi vào thị trấn Āpana trước khi trời đứng bóng, để khất thực. Sau khi khất thực và ăn xong thì Đấng Thế Tôn đi vào một khu rừng thưa để nghỉ trưa. Sau khi đi vào khu rừng thưa thì Đấng Thế Tôn ngồi xuống dưới gốc một cội cây.
Trong lúc đó cũng có một người chủ gia đình tên là Pōtaliya, ăn mặc chỉnh tề, mang dép, che lọng, đang đi dạo. Người này tiến vào khu rừng và [tình cờ] đi đến nơi Đấng Thế Tôn đang ngồi, khi đến gần thì cùng trao đổi với Đấng Thế Tôn những lời chào hỏi theo phép lịch sự, sau đó thì đứng dịch sang một bên. Trong khi người này còn đang đứng đó thì Đấng Thế Tôn cất lời với người này như sau: ‘Này người chủ gia đình, có các chỗ [thuận tiện] để ngồi, xin cứ ngồi xuống’. Nghe câu ấy, người chủ gia đình Potaliya tức giận, dù không vừa lòng nhưng không nói gì cả, chỉ nghĩ thầm: ‘[Hóa ra] vị Samana Gōtama (Sa-môn Cồ-đàm, chữ sa-môn có nghĩa là môt người tu hành khổ hạnh, rời bỏ nếp sống gia đình và khung cảnh xã hội) gọi ta là ‘người chủ gia đình’ à ! '.
Lần thứ hai, Đấng Thế Tôn lại nói: ‘Này người chủ gia đình, có các chỗ để ngồi, xin cứ ngồi xuống’. Nghe câu ấy, người chủ gia đình Potaliya tức giận, dù không vừa lòng nhưng không nói gì cả, chỉ nghĩ thầm: ‘[Hóa ra] vị Samana Gōtama gọi ta là ‘người chủ gia đình’ à ! '.
Lần thứ ba, Đấng Thế Tôn lại nói: ‘Này người chủ gia đình, có các chỗ để ngồi, xin cứ ngồi xuống’. Nghe câu ấy, người chủ gia đình Potaliya tức giận, không vừa lòng, nhưng không nói gì cả, chỉ nghĩ thầm: ‘[Hóa ra] vị Samana Gōtama gọi ta là ‘người chủ gia đình’ à ! '.
Đấng Thế Tôn lại nói tiếp: ‘Thế nhưng, này người chủ gia đình, ông hội đủ tất cả các đặc tính của một người chủ gia đình, tất cả mọi dáng vẻ của một người chủ gia đình (Đức Phật đọc được ý nghĩ trong đầu của người chủ gia đình và mượn dịp để giảng cho người này thế nào là sự tách rời các mối dây trói buộc trong thế giới)’.
– Tôi à, thưa vị Tôn kính Gotama, tôi đã từ bỏ tất cả mọi việc kinh doanh, tôi đã hoàn toàn thanh toán mọi việc chuyển nhượng (transactions / mọi việc buôn bán, giao dịch, làm ăn, nói chung là sự bận rộn của một thương gia giàu có).
– Này người chủ gia đình, bằng cách nào mà ông đã từ bỏ được tất cả mọi việc kinh doanh, hoàn toàn thanh toán được tất cả mọi việc chuyển nhượng?
– Tôi trao lại cho các con trai của tôi tất cả sự giàu có của tôi, tất cả của cải, từ thóc lúa đến vàng bạc, kể cả những gì thuộc quyền thừa hưởng của tôi. Tôi không hề xen vào hay khuyên bảo gì cả đối với các con trai của tôi. Tôi sống thật đơn giản, chỉ cần cơm ăn áo mặc mà thôi. Thưa vị Tôn kính Gotama, đấy là cách mà tôi đã từ bỏ tất cả mọi việc kinh doanh, hoàn toàn thanh toán tất cả mọi việc chuyển nhượng.
– Này người chủ gia đình, những gì mà ông vừa nêu lên về việc hoàn toàn chuyển nhượng là một chuyện. Thế nhưng đối với giáo huấn của những người cao quý (những người tu hành) thì tất cả mọi việc chuyển nhượng lại là một chuyện khác (đối với một người thế tục thì việc ‘thanh toán mọi sự chuyển nhượng’ là cách tách mình ra khỏi sự sinh hoạt gia đình và xã hội, đối với một người tu hành thì ngoài sự thanh toán trong khung cảnh đó, còn phải tạo ra các nguyên nhân sâu xa hơn giúp mình tách ra khỏi sự vận hành của thế giới, chi phối bởi nguyên lý tương liên và tương tác giữa các hiện tượng trong thế giới, và sâu xa hơn nữa là cả những gì đang hiển hiện bên trong tâm thức mình).
– Thưa vị Tôn kính, việc thanh toán hoàn toàn mọi việc chuyển nhượng đối với giáo huấn của những người cao quý là một chuyện khác, [câu ấy] có nghĩa là gì?
– Này người chủ gia đình, hãy lắng nghe. Hãy thật chú tâm. Ta sẽ giảng.
Người chủ gia đình Pōtaliya đáp lại: ‘Vâng, thưa vị Tôn kính’.
Đấng Thế Tôn thuyết giảng như sau: ‘Đối với nền giáo huấn cao quý (Dhamma của Đức Phật), này người chủ gia đình, thì có tám thứ (tám thái độ) giúp mình thanh toán hoàn toàn tất cả mọi sự chuyển nhượng:1) đối với việc giữ gìn hành vi không sát sinh, thì phải từ bỏ hành động sát sinh; 2) đối với việc không lấy những gì mà người khác không cho, thì phải từ bỏ hành động không lấy những gì mà người khác không cho; 3) đối với việc nói lên những lời chân thật, thì phải từ bỏ hành động nói lên những lời giả dối; 4) đối với việc không nói lên những lời vu khống, thì phải từ bỏ hành động nói lên những lời vu khống; 5) đối với việc giữ gìn thái độ không thèm khát (không tham lam), thì phải từ bỏ hành động không thèm khát; 6) đối với việc không nói lên những lời phỉ báng, thì phải từ bỏ những lời phỉ báng; 7) đối với việc giữ gìn thái độ không tức giận, thì phải từ bỏ hành động không tức giận; 8) đối với giữ gìn thái độ không kiêu căng, thì phải từ bỏ hành động không kiêu căng. Này người chủ gia đình, đấy là tám điều mang lại sự thanh toán hoàn toàn các sự chuyển nhượng trong lãnh vực giáo huấn cao quý’.
– Thưa vị Tôn kính, tám điều đưa đến sự thanh toán hoàn toàn tất cả các sự chuyển nhượng trong lãnh vực giáo huấn cao quý được Thế Tôn nêu lên một cách tổng quát, thế nhưng không giải thích một cách chi tiết. Vì vậy nếu Thế Tôn giải thích chi tiết hơn về tám điều mang lại sự thanh toán hoàn toàn tất cả các sự chuyển nhượng thuộc lãnh vực giáo huấn cao quý, thì quả là một điều quý hóa.
– Này người chủ gia đình, vậy hãy lắng nghe. Hãy thật chú tâm. Ta sẽ giảng.
Người chủ gia đình Pōtaliya đáp lại đấng Thế Tôn: ‘ Vâng thưa Thế Tôn’.
1) Đấng Thế Tôn nói lên như sau: ‘ Ta bảo rằng: Nếu muốn giữ gìn thái độ không sát sinh, thì phải từ bỏ hành động không sát sinh’. Tại sao ta lại nói lên điều đó? Ta nói lên điều đó là vì các lý do như sau: trong trường hợp đó, này người chủ gia đình, theo nền giáo huấn cao quý thì điều đó có nghĩa là: ‘Tôi là một người bước theo con đường luyện tập nhằm cắt đứt các mối dây liên hệ, nhằm loại bỏ các mối dây liên hệ [tạo ra nguyên nhân] khiến tôi trở thành một con người sát sinh’ (nguyên lý tương liên / paṭiccasamuppāda cho biết hành động sát sinh không phải là một hành động bộc phát và tự nhiên, mà trước đó phải có một nguyên nhân đưa đến hành động sát sinh. Nguyên nhân đó là thái độ và sự ý thức không nên sát sinh.
Nếu không biết giữ gìn thái độ và sự ý thức không nên sát sinh như là nguyên nhân sâu xa đưa đến hành động sát sinh, thì chúng ta sẽ dễ dàng vi phạm vào việc sát sinh, và xem đó là một hành động tự nhiên, trước đó không có một nguyên nhân nào, sau đó cũng không có một hậu quả nào). [Trong trường hợp] nếu tôi trở thành một con người sát sinh, thì tự tôi sẽ hối hận trước hành động sát sinh đó của tôi, [hoặc] những người sáng suốt (hiểu biết và ngay thẳng), sau khi xét đoán các sự kiện đó sẽ kết án (đánh giá) tôi trước hành động sát sinh đó của tôi.
Thật hiển nhiên, hành động giết hại chúng sinh là một mối dây nối kết (tương liên), và cũng thật hiển nhiên là hành động giết hại chúng sinh [đồng thời] cũng là một chướng ngại (một nguyên nhân đưa đến một hậu quả tai hại). Thế nhưng, đối với một người biết giữ gìn không giết hại chúng sinh thì sẽ không có một sự tuôn trào (một động lực thúc đẩy, một xu hướng, một sự phát tán) độc hại nào trong tâm thần, không có các cơn sốt tàn phá nào phát sinh, đưa đến hành động sát sinh’. Này người chủ gia đình, chính vì các lý do đó mà ta nói lên: ‘Nếu muốn giữ gìn thái độ không sát sinh, thì phải từ bỏ hành động không sát sinh’ (tức là từ bỏ mầm mống từ bên trong tâm thức mình đưa đến hành động sát sinh. Hành động sát sinh liên kết với một xu hướng, một động lực thúc đẩy, từ bên trong tâm thức, tạo ra cho mình một cung cách hành xử thích sát sinh. Một người tu tập Dhamma phải nghĩ đến sự vận hành yên lặng, sâu kín và bàng bạc đó của nguyên lý tương liên. Tiếc thay không mấy người làm chính trị khơi động lòng từ bi bên trong chính mình mà chỉ nghĩ đến khích động và sát sinh)’.
2) «Ta bảo rằng: ‘Nếu muốn giữ gìn thái độ không lấy những gì mà người khác không cho, phải buông bỏ hành động không lấy những gì mà người khác không cho’. Tại sao ta lại nói lên điều đó? Ta nói lên điều đó là vì các lý do như sau: Này người chủ gia đình, đó là trường hợp một đệ tử cao quý (một người tu hành) nhận định như thế này: ‘Tôi là một người bước theo con đường tu tập nhằm cắt đứt các mối dây nối kết, hầu loại bỏ các mối dây nối kết tạo ra nguyên nhân khiến một người nào đó trở thành một người lấy những gì mà người khác không cho.
Nếu tôi trở thành một người lấy những gì mà người khác không cho, thì tự tôi hối hận đã lấy những gì mà người khác không cho, [hoặc] những người sáng suốt sau khi xét đoán các sự kiện đó, sẽ kết án tôi vì tôi đã lấy những gì mà người khác không cho. Sau khi cái chết xảy ra, thân xác tan rã, tôi sẽ rơi vào một hoàn cảnh tồi tệ vì đã lấy những gì mà người khác không cho. Thật hiển nhiên, sự kiện lấy những gì mà người trước không cho là một mối dây liên kết (một nguyên nhân tạo ra một hậu quả).
Thật hiển nhiên, sự kiện lấy những gì mà người khác không cho là một chướng ngại. Tuy nhiên, đối với một người không lấy những gì mà người khác không cho, thì sẽ không có một sự tuôn trào (phát tán) độc hại nào trong tâm thần, cũng không có một cơn sốt tàn phá nào phát sinh, đưa đến hành động lấy những gì mà người khác không cho’. Này người chủ gia đình, chính vì các lý do đó mà ta nói lên: ‘Nếu muốn giữ gìn [thái độ] không lấy những gì người khác không cho, thì phải buông bỏ hành động không lấy những gì mà người khác không cho’ (mở rộng ý niệm này thì việc lùa bắt nô lệ, xâm chiếm thuộc địa, sử dụng một chủ nghĩa hung bạo để khống chế một dân tộc… cũng là các hành động ‘lấy những gì mà người khác không cho’).
3) «Ta bảo rằng: ‘Nếu muốn giữ gìn thái độ chỉ nói lên những lời chân thật, thì phải buông bỏ hành động nói lên những lời giả dối (dối trá)’. Tại sao ta lại nói lên điều đó? Ta nói lên điều đó là vì các lý do như sau: Này người chủ gia đình, đó là trường hợp một đệ tử cao quý (một người tu hành) nhận định như thế này: ‘Tôi là một người bước theo con đường tu tập nhằm cắt đứt các mối dây nối kết, hầu loại bỏ các mối dây nối kết tạo ra nguyên nhân khiến một người nào đó trở thành một người nói lên những lời giả dối.
Nếu tôi trở thành một người nói lên những lời giả dối, thì tự tôi hối hận đã nói lên những lời giả dối, [hoặc] những người sáng suốt sau khi xét đoán các sự kiện đó, sẽ kết án tôi vì tôi đã nói lên những lời giả dối. Sau khi cái chết xảy ra, thân xác tan rã, thì tôi sẽ rơi vào một hoàn cảnh tồi tệ vì đã nói lên những lời giả dối. Thật hiển nhiên, sự kiện nói lên những lời giả dối là một mối dây liên kết (một nguyên nhân tạo ra một hậu quả). Thật hiển nhiên, sự kiện nói lên những lời giả dối là một chướng ngại. Tuy nhiên, đối với một người không nói lên những lời giả dối, thì sẽ không có một sự tuôn trào độc hại nào trong tâm thần, cũng không có một cơn sốt tàn phá nào phát sinh, đưa đến hành động nói lên những lời giả dối’. Này người chủ gia đình, chính vì các lý do đó mà ta nói lên: ‘Nếu muốn giữ gìn [thái độ] không nói lên những lời giả dối, thì phải buông bỏ hành động không nói lên những lời giả dối’ (tiếc thay những lời tuyên truyền không mấy khi là những lời chân thật).
4) «Ta bảo rằng: ‘Nếu muốn giữ gìn thái độ không nói lên những lời vu khống, thì phải buông bỏ hành động nói lên những lời vu khống’. Tại sao ta lại nói lên điều đó? Ta nói lên điều đó là vì các lý do như sau: Này người chủ gia đình, đó là trường hợp một đệ tử cao quý nhận định như thế này: ‘Tôi là một người bước theo con đường tu tập nhằm cắt đứt các mối dây nối kết, hầu loại bỏ các mối dây nối kết tạo ra nguyên nhân khiến một người nào đó trở thành một người nói lên những lời vu khống. Nếu tôi trở thành một người nói lên những lời vu khống, thì tự tôi hối hận đã nói lên những lời vu khống, [hoặc] những người sáng suốt sau khi xét đoán các sự kiện đó, sẽ kết án tôi vì tôi đã nói lên những lời vu khống. Sau khi cái chết xảy ra, thân xác tan rã, thì tôi sẽ rơi vào một hoàn cảnh tồi tệ vì đã nói lên những lời vu khống. Thật hiển nhiên, sự kiện nói lên những lời vu khống là một mối dây liên kết (một sự tương kết giữa nguyên nhân và hậu quả). Thật hiển nhiên, sự kiện nói lên những lời vu khống là một chướng ngại. Tuy nhiên, đối với một người không nói lên những lời vu khống, thì sẽ không có một sự tuôn trào độc hại nào trong tâm thần, cũng không có một cơn sốt tàn phá nào phát sinh, đưa đến hành động nói lên những lời vu khống’. Này người chủ gia đình, chính vì các lý do đó mà ta nói lên: ‘Nếu muốn giữ gìn [thái độ] không nói lên những lời vu khống, thì phải buông bỏ hành động không nói lên những lời vu khống’.
5) «Ta bảo rằng: ‘Nếu muốn giữ gìn thái độ không tham lam và thèm khát, thì phải buông bỏ hành động không tham lam và thèm khát’. Tại sao ta lại nói lên điều đó? Ta nói lên điều đó là vì các lý do như sau: Này người chủ gia đình, đó là trường hợp một đệ tử cao quý nhận định như thế này: ‘Tôi là một người bước theo con đường tu tập nhằm cắt đứt các mối dây nối kết, hầu loại bỏ các mối dây nối kết tạo ra nguyên nhân khiến một người nào đó trở thành một người tham lam. Nếu tôi trở thành một người tham lam, thì tự tôi hối hận là một người tham lam, [hoặc] những người sáng suốt sau khi xét đoán các sự kiện đó, sẽ kết án tôi vì tôi là một người tham lam. Sau khi cái chết xảy ra, thân xác tan rã, thì tôi sẽ rơi vào một hoàn cảnh tồi tệ vì là một người tham lam. Thật hiển nhiên, sự kiện tham lam là một mối dây liên kết (một sự tương liên nối kết một hành động với hậu quả phát sinh từ hành động đó). Thật hiển nhiên, sự kiện tham lam là một chướng ngại. Tuy nhiên, đối với một người không tham lam, thì sẽ không có một sự tuôn trào độc hại nào trong tâm thần, cũng không có một cơn sốt tàn phá nào phát sinh, đưa đến hành động tham lam. Này người chủ gia đình, chính vì các lý do đó mà ta nói lên: ‘Nếu muốn giữ gìn [thái độ] không tham lam, thì phải buông bỏ hành động tham lam’.
6) «Ta bảo rằng: ‘Nếu muốn giữ gìn thái độ không nói lên những lời phỉ báng, thì phải buông bỏ các ngôn từ không phỉ báng’. Tại sao ta lại nói lên điều đó? Ta nói lên điều đó là vì các lý do như sau: Này người chủ gia đình, đó là trường hợp một đệ tử cao quý nhận định như thế này: ‘Tôi là một người bước theo con đường tu tập nhằm cắt đứt các mối dây nối kết, hầu loại bỏ các mối dây nối kết tạo ra nguyên nhân khiến một người nào đó trở thành một người thốt lên những lời phỉ báng. Nếu tôi trở thành một người nói lên những lời phỉ báng, thì tự tôi hối hận là một người nói lên những lời phỉ báng, [hoặc] những người sáng suốt sau khi xét đoán các sự kiện đó, sẽ kết án tôi vì tôi là một người nói lên những lời phỉ báng. Sau khi cái chết xảy ra, thân xác tan rã, thì tôi sẽ rơi vào một hoàn cảnh tồi tệ vì là một người nói lên những lời phỉ báng. Thật hiển nhiên, sự kiện nói lên nhũng lời phỉ báng là một mối dây liên kết (một sự tương liên). Thật hiển nhiên, sự kiện nói lên những lời phỉ báng là một chướng ngại. Tuy nhiên, đối với một người không nói lên những lời phỉ báng, thì sẽ không có một sự tuôn trào độc hại nào trong tâm thần, cũng không có một cơn sốt tàn phá nào phát sinh, đưa đến hành động nói lên những lời phỉ báng. Này người chủ gia đình, chính là vì các lý do đó mà ta nói lên: ‘Nếu muốn giữ gìn [thái độ] không nói lên những lời phỉ báng thì phải buông bỏ hành động không nói lên những lời phỉ báng’.
7) «Ta bảo rằng: ‘Nếu muốn giữ gìn thái độ không giận dữ, thì phải buông bỏ sự giận dữ’. Tại sao ta lại nói lên điều đó? Ta nói lên điều đó là vì các lý do như sau: Này người chủ gia đình, đó là trường hợp một đệ tử cao quý nhận định như thế này: ‘Tôi là một người bước theo con đường tu tập nhằm cắt đứt các mối dây nối kết, hầu loại bỏ các mối dây nối kết tạo ra nguyên nhân khiến một người nào đó trở thành một người không giận dữ. Nếu tôi trở thành một người giận dữ, thì tự tôi hối hận là một người giận dữ, [hoặc] những người sáng suốt sau khi xét đoán các sự kiện đó, sẽ kết án tôi vì tôi là một người giận dữ. Sau khi cái chết xảy ra, thân xác tan rã, thì tôi sẽ rơi vào một hoàn cảnh tồi tệ vì là một người giận dữ. Thật hiển nhiên, sự kiện giận dữ là một mối dây liên kết (một sự tương liên nối kết hành động và hậu quả phát sinh từ hành động). Thật hiển nhiên, sự kiện giận dữ là một chướng ngại. Tuy nhiên, đối với một người biết kiềm chế không giận dữ, thì sẽ không có một sự tuôn trào độc hại nào trong tâm thần, cũng không có một cơn sốt tàn phá nào phát sinh, đưa đến hành động giận dữ. Này người chủ gia đình, chính là vì các lý do đó mà ta nói lên: ‘Nếu muốn giữ gìn thái độ không giận dữ thì phải buông bỏ hành động giận dữ’.
8) «Ta bảo rằng: ‘Nếu muốn giữ gìn thái độ khiêm tốn, thì phải buông bỏ sự kiêu hãnh’. Tại sao ta lại nói lên điều đó? Ta nói lên điều đó là vì các lý do như sau: Này người chủ gia đình, đó là trường hợp một đệ tử cao quý nhận định như thế này: ‘Tôi là một người bước theo con đường tu tập nhằm cắt đứt các mối dây nối kết, hầu loại bỏ các mối dây nối kết tạo ra nguyên nhân khiến một người nào đó trở thành một người kiêu hãnh. Nếu tôi trở thành một người kiêu hãnh, thì tự tôi hối hận là một người kiêu hãnh, [hoặc] những người sáng suốt sau khi xét đoán các sự kiện đó, sẽ kết án tôi vì tôi là một người kiêu hãnh. Sau khi cái chết xảy ra, thân xác tan rã, thì tôi sẽ rơi vào một hoàn cảnh tồi tệ vì là một người kiêu hãnh. Thật hiển nhiên, sự kiện kiêu hãnh là một mối dây liên kết. Thật hiển nhiên, sự kiện kiêu hãnh là một chướng ngại. Tuy nhiên, đối với một người biết kiềm chế không kiêu hãnh, thì sẽ không có một sự tuôn trào độc hại nào trong tâm thần, cũng không có một cơn sốt tàn phá nào phát sinh, đưa đến hành động kiêu hãnh. Này người chủ gia đình, chính là vì các lý do đó mà ta nói lên: ‘Nếu muốn giữ gìn thái độ khiêm tốn thì phải buông bỏ sự kiêu hãnh’.
– Này người chủ gia đình, đấy là tám điều mang lại sự loại bỏ hoàn toàn tất cả mọi sự chuyển nhượng (các sự vướng mắc, các chướng ngại) trong lãnh vực tu tập cao quý đã được nói lên một cách vắn tắt và [sau đó] đã được giải thích chi tiết như trên đây. Tuy nhiên, theo quan điểm tu tập cao quý, thì không phải vì thế mà sự loại bỏ hoàn toàn tất cả mọi sự chuyển nhượng có thể phản ảnh được sự chấm dứt hoàn toàn thuộc tất cả mọi cấp bậc và tất cả mọi phương hướng (người chủ gia đình dù đã loại bỏ được của cải, tách ra khỏi mọi sư giao dịch thương mại, nhưng chưa loại bỏ được nếp sống và tư cách của một người chủ gia đình).
– Thế nhưng, thưa vị Tôn kính, vậy thì phải làm thế nào để có thể loại bỏ hoàn toàn mọi sự chuyển nhượng theo quan điểm tu tập cao quý, thuộc tất cả mọi cấp bậc và tất cả mọi phương hướng? Quả là một điều quý giá nếu Đầng Thế Tôn giải thích thêm cho tôi là phải làm như thế nào để có thể khiến các sự chuyển nhượng (các sự nối kết tương liên và tương tác) phải chấm dứt hoàn toàn, thuộc tất cả mọi cấp bậc và tất cả mọi phương hướng, đúng theo quan điểm trong việc tu tập cao quý.
– Này người chủ gia đình, vậy hãy lắng nghe. Hãy thật chăm chú. Ta sẽ giảng.
Người chủ gia đình đáp lại Đấng Thế Tôn: «Vâng, thưa vị Tôn kính».
Đấng Thế Tôn nói lên như sau: «Này người chủ gia đình, giả dụ có một con chó mệt mỏi và yếu đuối vì đói lả, đứng chờ trước cửa một cửa hàng bán thịt. Người bán thịt chuyên nghiệp hoặc người phụ việc chặt một khúc xương đã cạo sạch, không còn một tí thịt nào, chỉ còn dính máu, và ném cho con chó. Vậy, người chủ gia đình nghĩ như thế nào? Khúc xương đã cạo hết thịt chỉ còn dính các vết máu có làm cho con chó hết đói và hết mệt mỏi hay không?»
– Không, thưa vị Tôn kính. Tại sao lại như thế? Bởi vì khúc xương đã cạo hết thịt, chỉ còn dính máu. Càng gặm con chó càng cảm thấy đói và càng trở nên yếu đuối hơn.
– Cũng vậy, này người chủ gia đình, một đệ tử của các vị cao quý phải lưu tâm đến điều này: ‘Thế Tôn so sánh dục tính với những khúc xương nối lại với nhau (tạo thành một bộ xương người), mang lại thật nhiều khổ nhọc, thật nhiều bấn loạn. Các thú vui dục tính mang lại thật nhiều điều bất lợi’ (Đức Phật có ý cho biết là người chủ gia đình chưa thoát ly được dục tính cho đến khi nào vẫn còn tiếp tục cuộc sống gia đình. Dục tính dù là trong khung cảnh gia đình cũng là một chướng ngại). Đấy là cách mà người đệ tử cao quý, với trí tuệ đúng đắn, phải nhìn vào các thú vui dục tính đúng là như thế. Đấy là cách mà người đệ tử cao quý tránh khỏi sự bình lặng (equanimity / sự thanh thản, thăng bằng và trong sáng) bị phân tán, chi phối bởi sự đa dạng, giúp mình phát huy một sự bình lặng hợp nhất, thiết lập bằng sự hợp nhất, phát sinh từ sự đơn độc (singleness / cuộc sống cách ly), và trong sự hợp nhất đó tất cả mọi sự chiếm hữu (sustenance / clinging / bám víu) vật chất trong thế giới đều chấm dứt, không lưu lại một dấu vết nào. (Đức Phật trách cứ vị thương gia giàu có, dù từ bỏ mọi việc doanh thương, thế nhưng vẫn còn bị chi phối bởi dục tính, vẫn còn bệ vệ trong nếp sống của một người chủ gia đình, đi dép, che lộng, dạo mát. Đức Phật tiếp tục gọi người này là một người chủ gia đình, nhưng không xem là một đệ tử cao quý là như vậy).
– Này người chủ gia đình, chẳng hạn như con chim kền kền, con quạ hay con diều hâu đớp một miếng thịt và bay đi. Các con kền kền, quạ và diều hâu khác bay theo tấn công nó, dùng móng cấu vào thân thể nó. Vậy, người chủ gia đình nghĩ thế nào? Nếu con kền kền, con quạ hay con diều hâu không nhanh chóng nhả miếng thịt ra thì nó khó tránh khỏi cái chết, hoặc đau đớn đến chết vì miếng thịt?’
– Quả đúng là như thế, thưa vị Tôn kính.
– Cũng vậy, này người chủ gia đình, một người đệ tử của các vị cao quý phải lưu tâm đến điều này: ‘Thế Tôn so sánh dục tính với một miếng thịt, tạo ra thật nhiều khổ nhọc, thật nhiều bấn loạn. Thật vậy, các thú vui dục tính mang lại thật nhiều điều bất lợi’. Đấy là cách mà người đệ tử cao quý phải nhìn vào các thú vui dục tính đúng là như thế. Đấy là cách mà người đệ tử cao quý tránh khỏi sự bình lặng bị phân tán, chi phối bởi sự đa dạng, hầu phát huy một sự bình lặng hợp nhất, thiết lập bằng sự hợp nhất, phát sinh từ sự đơn độc (singleness / cuộc sống cách ly), và trong sự hợp nhất đó tất cả mọi sự chiếm hữu vật chất trong thế giới đều tan biến hết, không lưu lại một dấu vết nào.
– Này người chủ gia đình, hãy nêu lên trường hợp một người đi ngược chiều gió, tay cầm một bó đuốc bện bằng cỏ khô đang bùng cháy. Vậy, người chủ gia đình nghĩ thế nào? Nếu người ấy không nhanh chóng ném bó đuốc đi thì người ấy có tránh được khỏi bị bỏng tay, bỏng cánh tay hoặc bỏng một phần cơ thể, đưa đến cái chết hoặc một sự đau đớn đến chết hay không?
– Quả đúng là như thế, thưa vị Tôn kính.
– Cũng vậy, này người chủ gia đình, một người đệ tử của các vị cao quý phải lưu tâm đến điều này: ‘Thế Tôn so sánh dục tính với một bó đuốc bên bằng cỏ khô, tạo ra thật nhiều khổ nhọc, thật nhiều bấn loạn. Thật vậy, các thú vui dục tính mang lại thật nhiều điều bất lợi’. Đấy là cách mà người đệ tử cao quý phải nhìn vào các thú vui dục tính đúng là như thế. Đấy là cách mà người đệ tử cao quý tránh khỏi sự bình lặng bị phân tán, chi phối bởi sự đa dạng, hầu phát huy một sự bình lặng hợp nhất, thiết lập bằng sự hợp nhất, và trong sự hợp nhất đó tất cả mọi sự chiếm hữu trong thế giới đều chấm dứt, không lưu lại một dấu vết nào.
– Này người chủ gia đình, hãy hình dung có một hố than hồng, sâu bằng tầm vóc của một người, đáy hố là than đang cháy bỏng, nhưng không bốc lửa cũng không bốc khói. Một người muốn sống, không muốn chết, rất muốn tìm lạc thú, nhưng không thích khổ đau, đang đi đến nới này. Thế nhưng lại có hai người lực lưỡng nắm lấy hai cánh tay của người này kéo lê đến bên miệng hố than, sâu bằng tầm vóc của một người, đáy hố là than đang cháy bỏng, không bốc lửa cũng không bốc khói. Vậy người chủ gia đình nghĩ thế nào? Người ấy có tìm cách nhảy qua khỏi miệng hố hay không?
– Có, thưa vị Tôn kính. Tại sao lại như vậy? Thưa vị Tôn kính, bởi vì nhất định người ấy hiểu rằng: ‘Nếu tôi rơi xuống hố than thì tôi sẽ chết hoặc bị đau đớn đến chết’.
– Cũng vậy, này người chủ gia đình, một người đệ tử của các vị cao quý phải lưu tâm đến điều này: ‘Thế Tôn so sánh dục tính với một hố than hồng, tạo ra thật nhiều khổ nhọc, thật nhiều bấn loạn. Thật vậy, các thú vui dục tính mang lại thật nhiều điều bất lợi’. Đấy là cách mà người đệ tử cao quý phải nhìn vào các thú vui dục tính đúng là như thế. Đấy là cách mà người đệ tử cao quý không những tránh khỏi sự bình lặng bị phân tán, chi phối bởi sự đa dạng, mà còn phát huy được một sự bình lặng hợp nhất, thiết lập bằng sự hợp nhất, mang lại từ sự đơn độc (singleness / sự cách ly), và trong sự hợp nhất đó tất cả mọi sự chiếm hữu vật chất trong thế giới đều chấm dứt, không lưu lại một dấu vết nào.
– Này người chủ gia đình, hãy hình dung một người trong một giấc mơ trông thấy một một khu vườn tuyệt đẹp, cây cối tuyệt đẹp, khung cảnh tuyệt đẹp, các ao sen tuyệt đẹp. Thế nhưng khi tỉnh giấc, thì không trông thấy gì cả. Cũng vậy, này người chủ gia đình, một người đệ tử của các vị cao quý phải lưu tâm đến điều này: ‘Thế Tôn so sánh dục tính với một giấc mơ, tạo ra thật nhiều khổ nhọc, thật nhiều bấn loạn.
Thật vậy, các thú vui dục tính mang lại thật nhiều điều bất lợi’. Đấy là cách mà người đệ tử cao quý phải nhìn vào các thú vui dục tính đúng là như thế. Khi đã trông thấy với trí tuệ đúng đắn các điều đó cũng chỉ là như vậy, thì người đệ tử cao quý tránh khỏi sự bình lặng bị phân tán, phát sinh bởi sự đa dạng, tùy thuộc vào sự đa dạng, hầu phát huy một sự bình lặng phát sinh từ sự đơn độc (singleness), thiết lập trên sự đơn độc, và trong sự đơn độc đó tất cả mọi sự chiếm hữu vật chất trong thế giới đều chấm dứt, không lưu lại một dấu vết nào.
– Này người chủ gia đình, hãy hình dung một người mượn tạm của cải, chẳng hạn như xe cộ (xe ngựa, xe bò) được trang trí cầu kỳ, các trang sức tinh xảo, hoa tai, sau đó thì đi vào khu chợ trong thành phố. Mọi người trông thấy và trầm trồ: ‘Trông kìa, một người thật giàu có. Đúng là một người biết tận hưởng sự giàu có của mình. Trong khi đó thì vị chủ nhân thật sự của các thứ ấy biết đâu cũng có thể trông thấy vị ấy, và tức khắc thu hồi của cải của mình. Vậy, người chủ gia đình nghĩ thế nào về chuyện đó? Điều đó có khiến người ấy đau buồn hay không?»
– Có, thưa vị Tôn kính. Tại sao lại như vậy? Bởi vì người sở hữu thật sự thu hồi của cải của mình.
– Cũng vậy, này người chủ gia đình, người đệ tử của các các vị cao quý phải lưu tâm đến điều này: ‘Thế Tôn so sánh dục tính với của cải vay mượn (mượn thân thể của kẻ khác để tao ra thú vui cho mình). Thật thế, các thú vui dục tính tạo ra thật nhiều khổ nhọc, thật nhiều bấn loạn. Các thú vui dục tính mang lại thật nhiều điều bất lợi’. Đấy là cách mà người đệ tử cao quý phải nhìn vào các thú vui dục tính đúng là như thế.
Khi đã trông thấy, với trí tuệ đúng đắn, là điều đó cũng chỉ là như vậy, thì người đệ tử cao quý không những tránh khỏi sự bình lặng bị phân tán, gây ra bởi sự đa dạng, mà còn tạo được cho mình một sự bình lặng hợp nhất, thiết lập trên sự hợp nhất, phát sinh từ sự đơn độc, và trong sự đơn độc đó tất cả mọi sự chiếm hữu vật chất trong thế giới đều tan biến hết, không lưu lại một dấu vết nào.
– Vậy, này người chủ gia đình, hãy hình dung một khu rừng thâm u, cạnh một ngôi làng hay một thành phố, trong khu rừng đó có một cội cây cho quả thật ngon, thế nhưng không có quả nào rơi xuống đất. Có một người muốn ăn các quả ấy và đi vào rừng để tìm các quả ấy. Người này tìm được cội cây và trông thấy trên cành đầy quả. Người này nghĩ rằng: ‘Trên cành đầy quả, nhưng chẳng có quả nào rơi xuống đất. Tôi biết cách trèo lên cây, vậy tại sao tôi lại không trèo lên cây để tha hồ ăn và hái đầy giỏ’.
Người này bèn trèo lên cây. Trong khi đó thì một người thứ hai cũng tìm đến nơi này, và cũng nghĩ rằng: ‘Trên cây đầy những quả, nhưng không có quả nào rơi xuống đất. Thế nhưng tôi không biết cách trèo lên cây hái quả. Tôi chỉ còn có cách đốn gốc cây này để tha hồ ăn quả và hái đầy giỏ’. Người này bèn đốn cội cây đầy quả trên cành. Vậy người chủ gia đình nghĩ thế nào? Nếu người thứ nhất không sớm tụt xuống, trước khi cội cây bị đổ, thì có phải là người này có thể bị gãy tay, gãy chân, bị thương tích một phần cơ thể đưa đến cái chết, hoặc một sự đau đớn đến chết hay không?».
– Có thể xảy ra như vậy, thưa vị Tôn kính.
– Cũng vậy, này người chủ gia đình, người đệ tử của các vị cao quý phải lưu tâm đến điều này: ‘Thế Tôn so sánh dục tính với quả của một cội cây trên cành. Thật thế, các thú vui dục tính tạo ra thật nhiều khổ nhọc, thật nhiều bấn loạn. Các thú vui dục tính mang lại thật nhiều điều bất lợi’. Đấy là cách mà người đệ tử cao quý phải nhìn vào các thú vui dục tính đúng là như thế. Khi đã trông thấy được, với trí tuệ đúng đắn của mình, là dục tính cũng chỉ là như thế, thì người đệ tử cao quý không những tránh khỏi sự bình lặng bị phân tán, gây ra bởi sự đa dạng, mà còn tạo ra cho mình một sự bình lặng hợp nhất, thiết lập trên sự hợp nhất, phát sinh từ sự đơn độc, và trong sự đơn độc đó tất cả mọi sự chiếm hữu vật chất trong thế giới đều tan biến hết, không lưu lại một dấu vết nào.
– Vậy, này người chủ gia đình, người đệ tử của các vị cao quý khi đã tạo được sự chú tâm tinh khiết, phát sinh từ một sự bình lặng vô song, thì sẽ nhớ lại được các thể dạng [hiện hữu] của mình trong quá khứ, chẳng hạn như: một lần sinh, hai lần sinh, ba lần sinh, bốn lần sinh, năm lần sinh, mười lần sinh, hai-mươi lần sinh, ba-mươi lần sinh, bốn-mươi lần sinh, năm-mươi lần sinh, một trăm lần sinh, một ngàn lần sinh, [đồng thời cũng nhận thấy các giai đoạn mà mình hòa nhập [với bối cảnh của sự sống qua các các sự sinh ấy] và cả các sự phân hóa [của cái chết], xảy ra trong các giai đoạn [hiện hữu] ấy, và đồng thời cũng nhớ lại được cả nơi cư ngụ của mình trong các giai đoạn ấy, cùng các sắc thái tổng quát và cả các chi tiết [nhỏ nhặt], chẳng hạn như: ‘Tôi mang tên như thế này, thuộc gia đình này, bộ tộc này, thức ăn của tôi là như thế này, tôi từng cảm thấy vui sướng và khổ đau như thế này, tôi sống được bao nhiêu tuổi.
Thoát ra khỏi sự hiện hữu đó tôi lại tiếp tục với một sự hiện hữu khác. Với sự hiện hữu này, tôi mang tên như thế này, thuộc gia đình này, bộ tộc này, thức ăn của tôi là như thế này, tôi từng cảm nhận được sự thích thú và khổ đau như thế này, tôi sống được bao nhiêu tuổi. Thoát ra khỏi sự hiện hữu đó, tôi lại tiếp tục với một sự hiện hữu khác, và cứ tiếp tục như thế. Đấy là cách mà tôi nhớ lại được các sự từng trải của tôi qua các sự hiện hữu từ trước.
– Này người chủ gia đình, khi nào người đệ tử của các vị cao quý đạt được sự chú tâm tinh khiết (không bị ô nhiễm bởi các sự phát tán và đa dạng, tạo được sự hợp nhất của tâm thức), phát sinh từ sự bình lặng (equanimity / sự thăng bằng và tĩnh lặng) vô song, thì người đệ tử ấy, với con mắt siêu nhiên đã được tinh khiết hóa (nói chung là một sự hiểu biết trong sáng) vượt cao hơn khả năng con người, thì sẽ trông thấy được các chúng sinh thoát ra khỏi nơi này, sinh ra tại nơi kia, nhận biết được các chúng sinh nào thuộc các cấp bậc thấp, các chúng sinh nào thuộc các cấp bậc cao, xinh đẹp hay xấu xí, sung sướng hay bất hạnh, tùy thuộc vào những gì mà họ thực thi (các kamma của họ), chẳng hạn như: ‘Các chúng sinh này phạm vào các hành vi sai trái thuộc lãnh vực thân xác, phạm vào các hành vi sai trái thuộc lãnh vực ngôn từ, phạm vào các hành sai trái thuộc lãnh vực tâm thức, phỉ báng các vị cao quý, mang các quan điểm sai lầm, thực thi các hành động dựa vào các quan điểm sai lầm, đến khi cái chết xảy ra, thân xác tan rã, thì các chúng sinh ấy sẽ sinh ra dưới các thể dạng tồi tệ, bần hàn, trong cõi địa ngục (các khung cảnh sống đầy đau thương, khổ cực).
Các chúng sinh kia thì trái lại có các hành vi tốt đẹp thuộc lãnh vực thân xác, có các hành vi tốt đẹp thuộc lãnh vực ngôn từ, có các hành vi tốt đẹp thuộc lãnh vực tâm thức, không phỉ báng các vị cao quý, có các quan điểm đúng đắn, thực thi các hành động phù hợp với các quan điểm đúng đắn, đến khi cái chết xảy ra, thân xác tan rã, thì các chúng sinh ấy sẽ sinh ra dưới các thể dạng tốt đẹp, trong cõi thiên giới. Đấy là cách mà người đệ tử của các vị cao quý, với con mắt tinh khiết và siêu phàm, vượt cao hơn các phẩm năng con người, nhận biết được các chúng sinh thấp kém hay cao siêu, xinh đẹp hay xấu xí, giàu sang hay bần hàn, tùy thuộc vào kamma / nghiệp của họ.
– Này người chủ gia đình, khi nào người đệ tử của các vị cao quý đạt được sự chú tâm tinh khiết, phát sinh từ sự bình lặng (equanimity) vô song, vượt thoát được tư duy, tạo được sự giải thoát nhờ vào một trí tuệ thượng thặng, sau khi hóa giải được các sự phát tán tâm thần độc hại bằng sự hiểu biết siêu nhiên của chính mình, thì người đệ tử của các vị cao quý ấy sẽ có thể hòa nhập và an trú trong các thể dạng tâm thần tại nơi này và trong thời điểm này (có nghĩa là hòa nhập và an trú trong thực tại).
– Này người chủ gia đình, theo quan điểm của một người đệ tử cao quý thì đấy mới thật sự là thể dạng loại bỏ hoàn toàn tất cả mọi sự chuyển nhượng, một sự chấm dứt hoàn toàn bằng mọi cách (dưới mọi hình thức) phù hợp với phép tu tập cao quý. Vậy, này người chủ gia đình nghĩ thế nào? Có phải đấy mới thật sự là cách hoàn toàn và vĩnh viễn loại bỏ được tất cả mọi sự chuyển nhượng, nói lên một sự chấm dứt hoàn toàn bằng mọi phương tiện, thuộc mọi cấp bậc, và nhất là có đúng với quan điểm của phép tu tập cao quý hay không; và khi nhìn vào chính mình thì người chủ gia đình có thấy là mình đã loại bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn được tất cả mọi sự chuyển nhượng, thuộc mọi cấp bậc, đúng với quan điểm của phép tu tập cao quý hay không?
– Thưa vị Tôn kính, đối với thắc mắc là tôi có thực hiện được sự loại bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn tất cả mọi sự chuyển nhượng, bằng mọi phương tiện, thuộc mọi cấp bậc, đúng với quan điểm của phép tu tập cao quý hay không, thì đối với tôi, thưa vị Tôn kính, còn xa tôi mới thực hiện được sự loại bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn tất cả các sự chuyển nhượng cần phải hoàn toàn loại bỏ, thuộc mọi cấp bậc, đúng với quan điểm của phép tu tập cao quý! Thưa vị Tôn kính, thưa Thế Tôn, Ngài đã gợi lên cho tôi sự ngưỡng mộ đối với các vị samana (sa-môn / các vị tu hành khắc khổ / khổ hạnh), sự thán phục đối với các vị samana, lòng kính trọng đối với các vị samana.
[…]
– Tuyệt vời thay, thưa vị Tôn kính. Tuyệt vời thay, thưa vị Tôn kính. Điều đó tương tự như một vật bị đổ xuống đã được dựng lên, tương tự như tìm được một vật bị giấu kín, tương tự như chỉ đường cho một người đi lạc, tương tự như thắp một ngọn đèn trong tối và nghĩ rằng:’Mong sao những người có mắt trông thấy được hình tướng’, tương tự như Thế Tôn làm sáng tỏ Đạo Pháp bằng nhiều phương cách khác nhau. Tôi xin được quy y với Thế Tôn, với Đạo Pháp, với Tăng đoàn. Mong rằng Thế Tôn sẽ chấp nhận tôi như là một đệ tử của Thế Tôn, kể từ ngày hôm nay cho đến cuối cuộc đời tôi.
Vài lời ghi chú
Độc giả quen thuộc với các thuật ngữ tiếng Hán có thể tra cứu thêm về bài giảng này trong Đại Tạng Kinh tiếng Việt, bằng cách gõ vào một công cụ tìm kiếm trên mạng các chữ : Kinh Potaliya Trung Bộ Kinh Thích Minh Châu. Nói chung, các bài giảng trong hai tập Dīgha Nikāya / Trường Bộ Kinh – gồm 34 bài giảng – và tập Majjhiama Nikāya / Trung Bộ Kinh – gồm 152 bài giảng – tương đối khá dễ tìm. Bài giảng thứ hai tiếp theo bài giảng trích dẫn trên đây như sau:
Bài giàng về các cặp song đôi
Dvayatānupassanā sutta - Sn 3.12
Chữ Dvayatānupassana tựa bài giảng là một từ ghép (Dvaya+anupassanā). Chữ dvaya có nghĩa là cặp song đôi hay cặp tương kết, nói lên một sự kết nối song hành giữa hai yếu tố hay hai sự kiện; chữ anupassanā có nghĩa là suy tư, suy ngẫm hay ngẫm nghĩ. Bài giảng này như sau:
Tôi từng được nghe như vầy. Lúc đó Đấng Thế Tôn đang ngụ gần kinh thành Sāvatthī, trong ngôi nhà sàn rộng lớn của mẹ vị Migāra (một người dân giàu có tại kinh thành Sāvatthī). Hôm đó là vào ngày rằm, Thế Tôn ngồi ngoài trời, vây quanh là các tỳ-kheo trong Tăng đoàn. Thế Tôn hướng vào các tỳ-kheo đang ngồi yên lặng chung quanh và cất lời với họ như sau:
«Này các tỳ-kheo, giả dụ có người nêu lên với các tỳ-kheo thắc mắc như sau: ‘[Nếu như] có các nền giáo huấn sáng suốt, cao quý, mang lại sự giải thoát, thì vì lý do chính đáng nào phải lắng nghe các nền giáo huấn ấy?’ [Trước câu hỏi này] các tỳ-kheo nên trả lời như sau: ‘Lý do duy nhất [phải lắng nghe] là để tìm hiểu đúng đắn về các cặp song đôi nêu lên trong các nền giáo huấn ấy?
Vậy các cặp song đôi nêu lên trong các nền giáo huấn ấy là gì?’ (các nền giáo huấn mà Đức Phật nêu lên một cách khái quát trên đây thật ra là nền Giáo huấn của Ngài, là Dhamma của chính Ngài. Thế nhưng Ngài rất ý nhị không nói đấy là Giáo huấn của mình. Tuy nhiên các tỳ kheo đều hiểu rằng nguyên lý tương liên: cái này có, cái kia có, tức là ‘các cặp song đôi’ là nền tảng Giáo huấn của Đức Phật. Trong bài giảng này Đức Phật nhấn mạnh với các tỳ-kheo đang ngồi lắng nghe về các cặp song đôi, tức là nguyên lý tương liên: ‘cái này có, cái kia có; cái này không có, cái kia không có’).
«Đây là khổ đau; đây là cội nguồn của khổ đau: đấy là sự (chủ đề) suy tư thứ nhất (cặp song đôi thứ nhất: khổ đau không hiện ra một cách vô cớ mà phải có một nguyên nhân làm phát sinh ra nó).
«Đây là sự chấm dứt của khổ đau, đây là con đường tu tập mang lại sự chấm dứt của khổ đau: đấy là sự (chủ đề) suy tư thứ hai (cặp song đôi thứ hai: nếu muốn làm cho khổ đau không phát sinh thì phải hóa giải nguyên nhân làm phát sinh ra nó. Có những thứ khổ đau trên thân thể, có những thứ khổ đau trong tâm thần, có những thứ khổ đau ngắn hạn, thoáng qua và chịu đựng được, nhưng cũng có những niềm đau sâu kín và kéo dài, có thể phát sinh từ các thời gian thật xa xưa trong quá khứ. Thế nhưng Đức Phật cũng cho biết thêm là nguyên nhân của tất cả các thứ khổ đau ấy – dù xa xưa hay hiện tại, dù thoáng qua hay lâu dài – đều hiện ra từ sự sinh. Suy tư về sự chấm dứt khổ đau cũng là cách suy tư về con đường làm cho sự sinh phải chấm dứt, và đấy cũng là sự suy tư về cặp song đôi thứ hai).
«Khi người tỳ-kheo chiêm nghiệm thật đúng đắn bằng cách suy tư về mỗi cặp song đôi đúng theo phương cách nêu lên trong nền giáo huấn ấy – thật chuyên cần, hăng say và kiên quyết – thì sẽ đạt được một trong hai kết quả như sau: hoặc đạt được sự giác ngộ ngay trong kiếp sống này (tan biến ngay trong sự hiện hữu này của mình), hoặc vẫn còn lưu lại một chút gì đó, [và trong trường hợp này thì đấy] là thể dạng không-còn-quay-trở-lại (nếu đạt được sự giác ngộ nhưng vẫn còn tiếp tục hiện hữu trong thế giới này với thân xác mà mình hiện đang có, thì khi thân xác này tan rã sau khi cái chết xảy ra, thì sẽ không còn quay lại với thế giới này nữa)».
Đấy là những lời Thế Tôn nói lên.
Và sau đó, Thế Tôn, vị Thầy, lại nói tiếp:
«Có những người không hiểu khổ đau là gì,
Cũng không hiểu nguyên nhân của khổ đau là gì,
Cũng không hiểu nơi mà khổ đau sẽ hoàn toàn chấm dứt,
Không hề lưu lại một thứ gì cả.
Và họ cũng chẳng hiểu con đường
Mang lại sự tan biến của khổ đau là gì.
Họ không tạo được sự giải thoát bằng con tim,
Cũng không tạo được sự giải thoát bằng trí tuệ.
Không tạo được sự chấm dứt (sự dừng lại, sự đình chỉ),
Nên họ cứ phải tiếp tục tái sinh và già nua.
Thế nhưng cũng có những người hiểu được khổ đau là gì,
Nguyên nhân của khổ đau là gì,
Và nơi mà tất cả khổ đau đều chấm dứt,
Không lưu lại một chút tàn dư nào,
Và họ cũng biết được con đường làm tan biến khổ đau.
Họ tạo được sự giải thoát (sự mở rộng) bằng con tim,
Tạo được sự giải thoát (sự mở rộng) bằng trí tuệ,
Thực hiện được sự chấm dứt [của khổ đau],
Họ không còn tiếp tục tái sinh, cũng không còn già nua.
(Cặp song đôi trong trường hợp này là sự sinh đưa đến sự già nua, phản ảnh sự vận hành tương kết và tương tạo của nguyên lý tương liên)
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào giúp suy tư (suy nghiệm) về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Bất cứ một sự khổ đau nào phát sinh, gây ra bởi sự bám víu: thì đấy là sự suy tư thứ nhất (sự bám víu là nguồn gốc mang lại khổ đau, nói lên một sự nối kết song đôi giữa bám víu và khổ đau).
«Với sự chấm dứt hoàn toàn của sự bám víu thì sẽ không có một nguyên nhân nào mang lại khổ đau: đấy là sự suy tư thứ hai.
«Khi biết suy tư đúng theo phương cách đó, thì người tỳ-kheo có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được sự giác ngộ (enlightenment / sự tỉnh thức), hoặc thể dạng không-còn-quay-trở-lại (không còn tái sinh trở lại trong thế giới này)».
Sau đó vị Thầy lại nói tiếp:
«Sự bám víu là cội nguồn của khổ đau qua vô số thể dạng khác nhau trong thế giới.
Khi một người u mê phát động sự bám víu, thì kẻ điên rồ (dullard / kẻ ngu đần, u mê) ấy sẽ quay lại và sẽ còn quay lại với khổ đau.
Vì vậy một người hiểu biết sẽ không bám víu,
Người ấy là người biết suy tư về cội nguồn của khổ đau và sự tái sinh»
(Bám víu vào thế giới này thì sẽ còn quay lại với các thứ khổ đau trong thế giới này).
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Bất cứ một sự khổ đau nào phát sinh, gây ra bởi sự u mê (vô minh): thì đấy là sự suy tư thứ nhất.
«Với sự chấm dứt hoàn toàn của sự u mê thì sẽ không có một cội nguồn nào mang lại khổ đau: đấy là sự suy tư thứ hai.
«Khi biết suy tư đúng theo phương cách đó thì người tỳ-kheo có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được sự giác ngộ, hoặc thể dạng không-còn-quay-trở-lại».
Sau đó vị Thầy lại nói tiếp:
«Những ai đang du hành và vẫn còn tiếp tục du hành,
[Bằng cách] hoán chuyển từ sự sinh sang cái chết,
Hết thể dạng này đến thể dạng khác,
Thì nơi đến trong cuộc du hành ấy là do sự dẫn dắt của u mê.
Chẳng qua là vì u mê là cả một khối ảo giác mênh mông.
U mê khiến chúng ta du hành qua muôn kiếp.
Những ai tạo được cho mình sự hiểu biết,
Thì sẽ không còn bước vào một kiếp sống nào khác trong tương lai.
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào khác giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Bất cứ một sự khổ đau nào phát sinh, gây ra bởi các sự chọn lựa: thì đấy là sự suy tư thứ nhất (các sự chọn lựa / choices ở đây có nghĩa là các sự phân biệt, các tác ý, các sự đánh giá, nhận định, quyết định… Các quyết tâm đó, các ‘hành động tâm thần’ đó – chịu ảnh hưởng từ các sự thúc đẩy của kamma / nghiệp do mình tạo ra cho mình trong quá khứ.
Các ‘hành động’ phân biệt, đánh giá, nhận định, quyết định,… là các ‘hậu quả’ phát sinh từ các nguyên nhân trong quá khứ, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng gây ra bởi các tác động của các yếu tố và các điều kiện trong môi trường hiện tại, phù hợp với các kamma mà cá thể ấy tự tạo ra cho mình trong quá khứ. Do vậy việc phân tích và xét đoán một cử chỉ, một ngôn từ hay một ý nghĩ, tức là các ‘hành động’ nói chung, thật hết sức khó. Nói một cách khác thì từng mỗi cử chỉ, từng mỗi ngôn từ, từng mỗi ý nghĩ của chúng ta đều liên hệ đến sự hiện hữu của chúng ta trong quá khứ, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của các tác động tạo ra bởi môi trường sống của chúng ta trong hiện tại).
«Với sự chấm dứt hoàn toàn của sự chọn lựa (các sự hình dung, các sự phân biệt) thì sẽ không có một cội nguồn nào mang lại khổ đau: đấy là sự suy tư thứ hai.
«Khi một người tỳ-kheo biết suy tư theo phương cách đó thì có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được sự giác ngộ, hoặc thể dạng không-còn-quay-trở-lại (có nghĩa là sau khi chết sẽ không còn tái sinh)».
Sau đó vị Thầy lại nói tiếp:
«Bất cứ một sự khổ đau nào phát sinh,
Gây ra bởi sự chọn lựa (các sự tạo tác tâm thần).
Thì khi mọi sự chọn lựa chấm dứt,
Sẽ không có cội nguồn nào mang lại khổ đau.
Khi ý thức được mối nguy hiểm đó,
[Tức là] sự khổ đau phát sinh từ sự chọn lựa (sự phân biệt, đánh giá, v.v.),
Thì sự dừng lại của mọi sự chọn lựa, của mọi sự cảm nhận,
Sẽ khiến khổ đau phải chấm dứt.
Và đấy là trường hợp của những người thật sự hiểu biết, thật sự trông thấy. Thật khéo léo và tinh tường, họ là bậc Thầy của sự hiểu biết,
Họ tháo bỏ được chiếc gông cùm của Ma Vương.
Không còn bước vào một kiếp sống khác trong tương lai.
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào khác giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Bất cứ một sự khổ đau nào phát sinh, gây ra bởi tri thức (consciouness / tâm thức, nói chung là sự sinh hoạt tâm thần): thì đấy là sự suy tư thứ nhất (tri thức là đầu dây mối nhợ gây ra đủ mọi thứ chuyện, trên đây chúng ta thấy nêu lên sự chọn lựa như là một thứ nguyên nhân mang lại khổ đau. Tri thức trái lại mang ý nghĩa bao quát hơn, ngoài các sự sinh hoạt tâm thần còn gồm chung gồm các cảm ứng cùng các xúc cảm đủ loại).
«Với sự chấm dứt hoàn toàn của tri thức thì sẽ không có một cội nguồn nào mang lại khổ đau: đấy là sự suy tư thứ hai.
«Khi một người tỳ-kheo biết suy tư theo phương cách đó thì có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được sự giác ngộ, hoặc thể dạng không-còn-quay-trở-lại».
Sau đó vị Thầy lại nói tiếp:
«Tất cả mọi khổ đau phát sinh,
Gây ra bởi tri thức.
Thì với sự chấm dứt của tri thức,
Sẽ không có cội nguồn nào mang lại khổ đau.
Khi đã hiểu được mối hiểm nguy đó,
[Tức là] khổ đau phát sinh từ tri thức,
Thì khi đó với sự lắng xuống của tri thức,
Người tỳ-kheo sẽ cảm thấy thỏa mãn, không còn thèm khát nữa.
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào khác giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Bất cứ một sự khổ đau nào phát sinh, gây ra bởi sự tiếp xúc (contact / sự tiếp xúc giữa ngũ giác và các đối tượng của chúng): thì đấy là sự suy tư thứ nhất.
«Với sự chấm dứt hoàn toàn của sự tiếp xúc thì sẽ không có một cội nguồn nào mang lại khổ đau: đấy là sự suy tư thứ hai.
«Khi một người tỳ-kheo biết suy tư theo phương cách đó thì có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được sự giác ngộ, hoặc thể dạng không-còn-quay-trở-lại».
Sau đó vị Thầy lại nói tiếp:
«Những kẻ sa lầy trong sự tiếp xúc,
Bị cuốn trôi trong dòng nước cuốn của các kiếp người,
Là những kẻ đi lạc,
Còn lâu họ mới tháo gỡ được chiếc gông cùm.
Thế nhưng những ai hiểu được hoàn toàn sự tiếp xúc là gì,
Thì họ sẽ tận hưởng sự an bình mang lại từ sự hiểu biết đó.
Và khi đã hiểu biết được [bản chất của] sự tiếp xúc là gì,
Thì họ sẽ cảm thấy thỏa mãn, không còn thèm khát nữa.
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào khác giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Bất cứ một sự khổ đau nào phát sinh, gây ra bởi giác cảm (feeling / các sự cảm nhận của ngũ giác đối với các đối tượng của chúng): thì đấy là sự suy tư thứ nhất.
«Với sự chấm dứt hoàn toàn của giác cảm thì sẽ không có một cội nguồn nào mang lại khổ đau: đấy là sự suy tư thứ hai.
«Khi một người tỳ-kheo biết suy tư theo phương cách đó thì có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được sự giác ngộ, hoặc thể dạng không-còn-quay-trở-lại».
Sau đó vị Thầy lại nói tiếp:
«Những ai khi đã hiểu được mọi sự đều phát sinh từ giác cảm,
Dù đấy là các giác cảm mang tính cách thích thú, khổ đau, hay trung hòa,
Dù thuộc bên trong [nội tâm] hay [bối cảnh] bên ngoài,
Thì tất cả đều là khổ đau, lừa phỉnh và đang suy thoái.
Họ trông thấy các thứ khổ đau ấy tan biến đi qua từng sự tiếp xúc,
Và đấy là cách mà họ hiểu được khổ đau [thật sự] là gì.
Với sự chấm dứt của giác cảm,
Người tỳ-kheo sẽ cảm thấy thỏa mãn, không còn thèm khát nữa.
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào khác giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Bất cứ một sự khổ đau nào phát sinh, gây ra bởi sự thèm khát (craving / khao khát, thèm muốn): đấy là sự suy tư thứ nhất.
«Với sự chấm dứt hoàn toàn của sự thèm khát thì sẽ không có một cội nguồn nào mang lại khổ đau: đấy là sự suy tư thứ hai.
«Khi một người tỳ-kheo biết suy tư đúng theo phương cách đó thì có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được sự giác ngộ, hoặc thể dạng không-còn-quay-trở-lại».
Sau đó vị Thầy lại nói tiếp:
«Đối với một người khi sự thèm khát trở thành bạn đồng hành với mình,
Thì người ấy sẽ chuyển hóa bất tận trong một cuộc du hành thật dài,
Hết thế dạng này chuyển sang thể dạng khác,
Chẳng bao giờ thoát ra khỏi dòng tiếp nối của sự chuyển sinh.
Khi đã hiểu được mối hiểm nguy đó,
[Tức là] sự thèm khát là cội nguồn của khổ đau,
Và sau khi đã loại bỏ được mọi sự thèm khát, thoát ra khỏi mọi sự bám víu,
Thì người tỳ-kheo sẽ du hành (sinh sống) với một tâm thức thanh thoát (chánh niệm, minh mẫn)».
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào khác giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Bất cứ một sự khổ đau nào phát sinh, gây ra bởi sự bám víu (grasping, clinging / níu kéo, nắm bắt): thì đấy là sự suy tư thứ nhất.
«Với sự chấm dứt hoàn toàn của sự bám víu thì sẽ không có một cội nguồn nào mang lại khổ đau: đấy là sự suy tư thứ hai.
Khi một người tỳ-kheo biết suy tư đúng theo phương cách đó thì có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được sự giác ngộ, hoặc không-còn-quay-trở-lại».
Sau đó vị Thầy lại nói tiếp:
«Bám víu là cội nguồn mang lại sự hiện hữu triền miên;
Và khi đã hiện hữu thì không sao tránh khỏi khổ đau.
Cái chết sẽ xảy ra với những ai được sinh ra,
Và sự sinh ấy chính là cội nguồn mang lại khổ đau.
Điều đó cho thấy tại sao với sự chấm dứt của sự bám víu,
Một người khôn ngoan phát huy được sự hiểu biết đúng đắn,
Khi nào trực tiếp thực hiện được [cho mình] sự chấm dứt của sự sinh,
Thì sẽ không còn bước vào một kiếp sống khác trong tương lai.
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào khác giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Bất cứ một sự khổ đau nào phát sinh, gây ra bởi các hành vi xúi dục (instigating activity / kích động, xúi bẩy, tuyên truyền, thủ mưu): thì đấy là sự suy tư thứ nhất.
«Với sự chấm dứt hoàn toàn của các hành vi xúi dục thì sẽ không có một cội nguồn nào mang lại khổ đau: đấy là sự suy tư thứ hai.
«Khi một người tỳ-kheo biết suy tư đúng theo phương cách đó thì có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được sự giác ngộ, hoặc thể dạng không-còn-quay-trở-lại.
Sau đó vị Thầy lại nói tiếp:
«[Đối với] tất cả mọi khổ đau,
Gây ra bởi các hành vi xúi dục (kích động),
Thì đến khi các hành vi kích động ấy chấm dứt,
Thì sẽ không còn nguyên nhân nào gây ra khổ đau (kích động và xúi dục thường là sở trường của những kẻ nham hiểm và hung bạo).
Một người khi đã ý thức được mối hiểm nguy đó,
[Tức là] khổ đau gây ra bởi các hành vi xúi dục,
Thì sẽ không tham gia vào các hành vi ấy,
Và sẽ không gánh chịu hậu quả tạo ra bởi các hành vi ấy.
Đối với một người tỳ-kheo tạo được một tâm thức an bình,
Xóa bỏ được sự thèm khát tạo ra cho mình một sự hiện hữu triền miên,
Thì sự hoán chuyển hết sự sinh này đến sự sinh khác cũng sẽ chấm dứt.
Không còn một sự sinh nào khác xảy ra với người tỳ-kheo ấy trong tương lai.
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào khác giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Bất cứ một sự khổ đau nào phát sinh, gây ra bởi các hành vi nuôi dưỡng (sustenance / gieo trồng, ấp ủ, duy trì, mưu mô, cố chấp): thì đấy là sự suy tư thứ nhất.
«Với sự chấm dứt hoàn toàn của các hành vi nuôi dưỡng thì sẽ không có cội nguồn nào mang lại khổ đau: và đấy là sự suy tư thứ hai.
Khi một người tỳ-kheo biết suy tư đúng theo phương cách đó thì có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được sự giác ngộ, hoặc thể dạng không-còn-quay-trở-lại.
Sau đó vị Thầy lại nói tiếp:
[Đối với] tất cả mọi thứ khổ đau,
Bắt nguồn từ các hành vi nuôi dưỡng,
Thì với sự chấm dứt của các hành vi nuôi dưỡng,
Thì sẽ không còn cội nguồn nào mang lại khổ đau.
Khi đã ý thức được mối hiểm nguy đó,
[Tức là] khổ đau gây ra bởi các hành vi nuôi dưỡng,
Và khi đã hoàn toàn hiểu được các hành vi nuôi dưỡng là gì,
Thì sẽ thoát khỏi các hành vi ấy.
Tạo được sự chấm dứt các thứ ô nhiễm [tâm thần],
Mang lại sự hiểu biết đúng đắn về tình trạng sức khỏe [tâm thần] của mình,
Và sau đó thì suy tư và ứng dụng – kiên quyết và đúng cách –,
Thì sẽ không còn ai nhận biết được vị thầy uyên bác ấy nữa!»
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào khác giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Bất cứ một sự khổ đau nào phát sinh, gây ra bởi sự bấn loạn (perturbation / rối loạn, xao động, bất an, nhiễu loạn): thì đấy là sự suy tư thứ nhất.
«Với sự chấm dứt hoàn toàn của sự bấn loạn thì sẽ không còn một cội nguồn nào mang lại khổ đau: đấy là sự suy tư thứ hai.
«Khi một người tỳ-kheo biết suy tư đúng theo phương cách đó thì có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được sự giác ngộ, hoặc [thể dạng] không-còn-quay-trở-lại.
Sau đó vị Thầy lại nói tiếp:
«[Đối với] tất cả mọi khổ đau phát sinh,
Gây ra bởi sự bấn loạn,
Thì với sự chấm dứt của sự bấn loạn,
Sẽ không còn một cội nguồn nào mang lại khổ đau.
Khi ý thức được mối hiểm nguy đó,
[Tức là] khổ đau gây ra bởi sự bấn loạn,
Thì người tỳ-kheo sẽ không để mình rơi vào sự bấn loạn,
Không tạo ra kamma / nghiệp mình.
Và trong trường hợp đó thì người tỳ-kheo
Sẽ tạo được sự vững vàng, thoát ra khỏi mọi sự bám víu,
Bước đi với một tâm thức tròn đầy (mindful / chánh niệm).
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào khác giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Đối với một người lệ thuộc (dependent) thì luôn có sự bồn chồn (agitation / lo âu, xao động): đấy là sự suy tư thứ nhất (lệ thuộc vào kẻ khác hoặc bất cứ một thứ gì khác thì sẽ đưa đến sự lo âu. Mở rộng hơn là nếu vẫn còn vướng mắc trong sự vận hành tương liên và tương tác của thế giới này thì chúng ta sẽ không sao thoát ra khỏi sự bất an).
«Đối với một người tự chủ thì không có một sự bồn chồn nào cả: đấy là sự suy tư thứ hai.
Khi một người tỳ-kheo biết suy tư đúng theo phương cách đó thì có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được sự giác ngộ, hoặc thể dạng không-còn-quay-trở-lại.
Sau đó vị Thầy lại nói tiếp:
«Đối với những người tự chủ thì không có sự bồn chồn nào cả.
Đối với những người lệ thuộc, [tức là] những người thèm khát,
Thì họ sẽ chuyển hết thể dạng này sang thể dạng khác,
Không sao thoát ra khỏi sự chuyển sinh (transmigration)..
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào khác giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Các thể dạng phi-hình-tướng (formless state / thể dạng vô hình) an bình hơn so với các thể dạng hình-tướng (state of form / thể dạng hữu hình): đấy là sự suy tư thứ nhất.
«Không có một thể dạng an bình nào khác cao hơn thể dạng an bình phi-hình-tướng
«Sự ‘chấm dứt’ an bình hơn cả các thể dạng an bình phi-hình-tướng: đấy là sự suy tư thứ hai.
Khi người tỳ-kheo biết suy tư đúng theo phương cách đó thì có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được sự giác ngộ, hoặc thể dạng không-còn-quay-trở-lại».
Sau đó vị Thầy lại nói tiếp:
«Trong đế quốc của các chúng sinh mang hình tướng rạng ngời (cõi thiên giới, thượng giới),
Cũng có các chúng sinh vướng mắc (stuck) trong thể dạng phi-hình-tướng,
Thế nhưng nếu không hiểu được sự chấm dứt là gì,
Thì họ (những kẻ phi-hình-tướng nơi thượng giới) sẽ còn quay lại với các kiếp sống khác trong tương lai (dù ở thể dạng phúc hạnh phi-hình-tướng nơi thượng giới thế nhưng các chúng sinh ấy cũng không sao tránh khỏi cái chết và sự chuyển sinh).
Thế nhưng đối với những người hoàn toàn thấu triệt được hình-tướng là gì,
[Đồng thời] cũng không vướng mắc trong phi-hình-tướng,
Thì họ là những người tạo được sự chấm dứt, mang lại cho mình sự giải thoát.
Họ là những kẻ chiến thắng (khắc phục được) cái chết.»
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào khác giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Những gì mà thế giới này – trong đó gồm có các vị Trời, Ma vương, Thần thánh, dân gian, các vị khổ hạnh (ascetics), các vị Bà-la-môn, từ thần linh cho đến con người – xem là thật, thì những vị cao quý (những người tu hành), với trí tuệ (sự hiểu biết) đúng đắn, xem các thứ ấy đúng ra là không thật (mọi hiện tượng chỉ có thể hiện hữu bằng cách tương liên và tương kết với các hiện tượng khác, sự lệ thuộc đó tạo ra một sự chuyển động bất tận, không có một hiện tượng nào đứng yên và hiện hữu một cách độc lập. Tất cả các hiện tượng mà chúng ta trông thấy chỉ là các thể dạng trung gian và tạm thời trước khi biến thành các hiện tượng khác, chỉ lâu hay mau mà thôi): đấy là sự suy tư thứ nhất.
Những gì mà thế giới xem là không thật, thì những người cao quý, với một trí tuệ đúng đắn, xem những thứ ấy là đúng thật (nguyên lý tương liên chi phối sự vận hành của toàn thể vũ trụ là một cái gì đó rất thật, không có một ngoại lệ nào cả. Sự giải thoát ra khỏi sự vận hành mang tính cách tương liên và tương tác đó của vũ trụ cũng là một cái gì rất thật, có thể thực hiện được. Trong bài giảng này thì sự giải thoát đó gọi là ‘sự chấm dứt’ hay ‘sự dừng lại’, / cessation. Dừng lại ở đây có nghĩa là hóa giải cách sự chuyển động bên trong tâm thức mình liên kết với các hiện tương đang chuyển động bên ngoài, giúp mình tách ra khỏi sự vận hành của thế giới hiện tượng chi phối bởi nguyên lý tương liên): đấy là sự suy tư thứ hai.
Khi một nguời tỳ-kheo suy tư đúng theo phương cách đó thì có thể mong chờ [rồi đây] mình sẽ đạt được sự giác ngộ, hoặc thể dạng không-còn-quay-trở-lại.
«Hãy hình dung thế giới này – trong đó gồm cả các vị Trời –
Xem ‘không-có-cái-tôi’ (not-self / vô ngã) là cái-tôi (self / cái ngã),
Quen xử dụng tên gọi và hình tướng [và dựa vào đấy]
Để tưởng tượng rằng đấy là thật (tên gọi và hình tướng chỉ là các quy ước do con người đặt ra, trong khi đó thì các thứ ấy đang biến dạng và đổi thay),
Bất cứ thứ gì mà các tỳ-kheo có thể hình dung được,
Thì các thứ ấy đang biến đổi để trở thành các thứ khác.
Vướng mắc trong sự biến đổi [liên tục] khiến chúng hóa thành không thật.
Bởi vì sự phù du, từ bản chất của nó, là một sự lừa phỉnh.
Sự tắt nghỉ, từ bản chất của nó, không phải là một sự lừa phỉnh, ,
[Thế nhưng] chỉ có những người cao quý mới nhận biết được đấy là thật.
Khi đã thấu triệt được sự thật ấy,
Thì họ cảm thấy thỏa mãn, không còn thèm khát nữa.
«Này các tỳ-kheo, giả dụ nếu có ai hỏi các tỳ-kheo như thế này: ‘Có một phương cách nào khác giúp suy tư về các cặp song đôi hay không?’, thì các tỳ-kheo hãy trả lời họ: ‘Điều đó có thể có’. Và tại sao điều đó lại có thể có được?
«Nếu thế giới này – trong đó gồm các vị Trời, Ma vương, Thần thánh, dân gian, các vị khổ hạnh (các vị tu hành khất thực thuộc các giáo phái khác) cùng các vị bà-la-môn, kể cả các vị thần linh cho đến con người – xem những gì là phúc hạnh, thì những vị cao quý, với trí tuệ đúng đắn, xem các thứ ấy đúng ra là khổ đau: đấy là điều suy tư thứ nhất.
«Những gì mà thế giới xem là khổ đau thì những người cao quý, với trí tuệ đúng đắn, xem đấy thật ra là phúc hạnh (chẳng hạn như cuộc sống khất thực xa rời thế tục không phải là khổ đau mà là niềm phúc hạnh, nhìn xa hơn nữa thì sự ‘dừng lại’ không hề là một sự khổ đau, mà là một sự giải thoát tối thượng): đấy là điều suy tư thứ hai.
«Khi nào người tỳ kheo suy tư đúng theo phương cách đó – chuyên cần, hăng say và kiên quyết – thì có thể mong chờ [rồi đây] sẽ đạt được một trong hai kết quả: giác ngộ ngay trong kiếp sống này, hoặc còn sót lại một chút gì đó, thì sẽ không-còn-quay-trở-lại (‘còn sót lại một chút gì đó’ có nghĩa là dù mình đã đạt được giác ngộ thế nhưng sự sống này vẫn còn, thân xác này vẫn còn, thì phải chờ đến khi các thứ ấy chấm dứt thì mình sẽ không còn trở lại với thế giới này)».
Đấy là những lời mà Thế Tôn nói lên.
Sau đó, Đấng Thế Tôn, vị Thầy, lại nói tiếp:
«Hình tướng, âm thanh, mùi, vị,
Sự đụng chạm [trên thân thể], ý nghĩ, tất cả các thứ ấy –
Tỏ ra dễ mến, ưa thích, thú vị,
Khiến chúng ta có thể bảo rằng đấy là những gì hiện hữu (những gì rất thật).
Đối với toàn thể thế giới này, trong đó gồm có cả các vị thần linh (gods),
Thì những gì mà con người cho là phúc hạnh.
Thế nhưng nơi mà các thứ ấy (thế giới hiện tượng) chấm dứt (có nghĩa là khi cái chết xảy ra),
Thì đối với họ, đấy là khổ đau.
[Trái lại] những người cao quý thì xem
Sự chấm dứt của hiện thực cụ thể (substantial reality / thế giới hiện tượng) là phúc hạnh.
Quan điểm đó của những người trông thấy (những người hiểu biết, những người tu hành cao quý)
Trái ngược với quan điểm [chung] trên toàn thế giới (cho rằng sự chấm dứt của thế giới – khi cái chết xảy ra với mình – là khổ đau).
Những gì mà kẻ khác gọi là phúc hạnh,
Thì các vị cao quý (những người tu hành) gọi là khổ đau.
Những gì mà kẻ khác gọi là khổ đau,
Thì những người cao quý xem các thứ ấy là phúc hạnh.
Các tỳ-kheo tất nhận thấy giáo huấn đó quả là khó hiểu,
Tạo ra hoang mang cho những kẻ u mê,
Là bóng tối cho những người bị [hiện thực] bao trùm,
Là đêm đen đối với những kẻ không trông thấy (không hiểu được) gì cả.
Thế nhưng đối với những người đáng kính (những người minh mẫn, những người tu hành) thì đấy là sự mở rộng,
Tương tự như ánh sáng đối với những người có mắt.
Trái lại đối với những kẻ ngốc nghếch, không một chút kinh nghiệm nào,
Thì dù có mang giáo huấn ấy đến gần với họ, thì họ cũng chẳng hiểu gì cả.
Họ bị sa lầy trong sự thèm khát được tái sinh,
Bị cuốn trôi trên dòng luân lưu của các kiếp sống,
Bị lún sâu trong sự khống chế của Ma vương,
Giáo huấn đó đối với họ quả là khó hiểu.
Có mấy ai, ngoài những vị cao quý (những người tu hành),
Có đủ khả năng hiểu được thể dạng [giác ngộ] ấy (tức là thể dạng chấm dứt và dừng lại).
Khi đã hiểu được đúng đắn thể dạng ấy là gì,
Thì những người ‘không còn ô uế (ô nhiễm, u mê) ấy’ sẽ đạt được thể dạng hoàn toàn tắt nghỉ».
Đấy là những lời mà Đấng Thế Tôn nói lên. Các tỳ-kheo đều hài lòng đón nhận những lời nói ấy của Đấng Thế Tôn. Trong khi lắng nghe những lời thuyết giảng ấy thì tâm thức của sáu-mươi tỳ-kheo [đang ngồi nghe] đều được giải thoát khỏi các thứ ô nhiễm bằng cách không còn bám víu vào các thứ ấy nữa.
Vài lời ghi chú
Bài giảng trên đây trong Đại Tạng Kinh tiếng Việt được xếp trong Tiểu Bộ Kinh / Khuddaka Nikāya, trong tập Sutta Nipātta / Kinh Tập (viết tắt là Sn), chương III Đại Phẩm / Maha Vagga, bài giảng thứ 12, mang tựa là: (XII) Kinh Hai Pháp Tuỳ Quán (Sn 139). Việc tra tìm tuy khá rắc rối, thế nhưng cũng là dịp giúp chúng ta có một ý niệm nào đó về tập bài giảng đồ sộ và phức tạp Khuddaka Nikāya / Tiểu Bộ Kinh.
Bures-Sur-Yvette, 13.11.25
Hoang Phong
Còn tiếp...