;
Tư tưởng sâu xa vi diệu của Phật Giáo đã hiện hữu trong mạch sống dân tộc ngay từ những khởi nguyên Trung Tâm Phật Giáo Luy Lâu (thuộc Bắc Ninh ngày nay) do Ngài Mâu Tử, một vị chân tu Phật Giáo đến từ Ấn Độ khởi dựng, phát huy song song với hai trung tâm Phật Giáo của Trung Hoa là Lạc Dương và Bành Thành, khoảng đầu kỷ nguyên Tây Lịch. Liên tục nhiều năm sau đó, những vị Thiền Sư được tôn kính như vị Bồ Tát sống, Ngày Tỳ Ni Đa Lưu Chi từ Trung Hoa đến cư trú tại chùa Chúng Thiện truyền dạy về tinh hoa cao quý của Đạo Phật.
    Qua nhiều thế kỷ kế tiếp Phật Giáo càng ngày càng phát huy rộng lớn do các Ngài Vô Ngôn Thông, Ngài Khương Tăng Hội, Ngài Khuông Việt Thái Sư. Đến thế kỷ thứ ba Ngài Khương Tăng Hội, người Giao Chỉ đã viết luận giải về Đại Thừa và Thiền Tông nên được nhiều người cho rằng chính Ngài Khương Tăng Hội là vị Thiền Sư lập nên Thiền Việt Nam chứ không phải truyền nhập từ Trung Hoa của Ngài Bồ Đề Đạt Ma. Và trải dài trong nhiều thời đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn... cho đến thời đại hôm nay, với thể tính triết học, khoa học, tâm lý nhân sinh... tư tưởng Phật Giáo đã hiển nhiên thấm thấu vào tâm hồn, hiện hữu thường trực trong đời sống của đại chúng dân Việt, từ những câu kinh tiếng kệ, hồi chuông nhân, tiếng trống Bát Nhã, trầm hương nghi ngút, mái chùa uy nghi ẩn khuất sau những tàng cây xanh, tĩnh mịch trầm lắng. Tư tưởng Đạo Phật quá cao siêu mênh mông và vời vợi như những ngọn đỉnh trời Hy Mã, suốt cả một đời tu học chưa hẳn đã bước tới ven khu rừng giáo lý uyên thâm vi diệu đó. Ở đây, chúng tôi chỉ xin mạo muội đề cập tới vài nét ảnh hưởng Phật Giáo trong thi ca Việt Nam như giòng suối nhỏ từ một vách đá núi thăm thẳm.
    Cho đến nay, chúng ta chỉ cần đọc qua bất cứ tuyển tập thi ca Phật Giáo Việt Nam cổ điển nào, là y như chúng ta đều cảm nhận ngay hồn tính dân tộc ẩn dụ qua từng giòng chữ nồng thắm quê hương sâu thẳm tình người. Các Thiền Sư Việt Nam bao giờ cũng là những đại biểu độc đáo của giòng thi ca chính thống của dân tộc trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử dân tộc. Trong cuộc hành trình đầy khởi sắc và phong phú của nguồn văn học ảnh hưởng Phật Giáo, chúng ta bắt gặp những dấu vết tuyệt vời của Thiền Sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Huệ Sinh, Ngộ Ấn, Mãn Giác, Đạo Hạnh, Không Lộ, Diệu Nhân, Huyền Quang, Trúc Lâm, Thượng Hải, Chân Nguyên... Chưa kể đế kho tàng văn chương bình dân, ca dao, tục ngữ. Chúng tôi xin đan cử một vài thi phẩm của các vị Thiền Sư danh tiếng như bài Trăng và Nước của Đạo Hạnh :
     Tác hữu trần sa hữu
     Vi không nhất thiết không
     Hữu không như thủy nguyệt
     Vật trước hữu không không
       (Thủy Nguyệt)
   Có thì có tự mảy may
     Không thì cả vũ trụ này cũng không
     Có, không : bóng nguyệt lòng sông
     Cả hai tuy vậy chẳng không chút nào
       (Võ Đình dịch)
Nói đến cái không của tâm để hòa nhập vào cái tâm ảo hóa của vũ trụ, Thiền Sư Hương Hải đã thể hiện rõ nét trong bài Nhạn Ảnh :
   
      Nhạn quá trường không
     Ảnh trầm hàn thủy
     Nhạn vô di tích chi ý
     Thủy vô lưu ảnh chi tâm
     Nhạn vút qua không
     Bóng chìm nước lạnh
     Để dấu : nhạn không có ý
     Giữ bóng : nước cũng vô tâm
       (Nhạn và Bóng)
Sự cấu tạo nên thể xác con người do sự kết hợp tứ đại (đất nước gió lửa), cho nên qua thời gian con người phải chấp nhận sự hủy hoại một cách tự nhiên, cũng như loài hoa sớm nở tối tàn, vô thường, biến chuyển theo cái nghiệp nhân quả luân hồi, cứ thế tiếp tục từ thế hệ này qua thế hệ khác. Thấu triệt nguyên lý tử sinh đó Thiền Sư Viên Chiếu đã viết nên thơ dạy đệ tử :
   Thân như tường bích dĩ đồi thì
     Cử thế thông thông thục bất bi
     Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
     Sắc không ẩn hiện nhiệm suy di
       (Vô Tật Thị Chúng) 
    
     Thân như tường nát đợi ngày
     Trăm năm vất vả tới rày xót thương
     Tâm không nếu đạt nẻo đường
     Mặc cho không sắc vô thường đến đi
     (Răn Chúng Khi Thầu Còn Mạnh - Võ Đình dịch) 
Thiền Sư Mãn Giác cũng cảm nhận kiếp sống vô thường như huyễn của nhân thế. Tất cả lợi danh chỉ như giọt nước trên cành, như bóng mây qua cửa, có đó rồi mất đó, sắc sắc không không. Nhưng đời sống không phải là chuỗi ngày đầy bi lụy tối tăm, đầy đau thương khổ ải với nghiệp chướng oan khiên tràn đầy lệ thảm... Người đã thấm nhuần tư tưởng Phật Giáo, tự lý giải căn nguyên của khổ đau, luôn tỉnh thức, biến đau thương thành hy vọng hạnh phúc của cuộc sống. Hiên ngang chấp nhận mọi thử thách gian nguy của cuộc đời, bước tới đem đến nguồn sống đầy an vui hỷ lạc cho mọi người. Qua bài Dặn Dò Tăng Chúng của Thiền Sư Mãn Giác đã cho thấy một cách sâu sắc tinh tế bằng đức tin mãnh liệt vào sự tuần hoàn tự nhiên của tạo hóa, của kiếp nhân sinh để thắp lên niềm lạc quan, hy vọng ở ngày mai bằng những bôn hoa trí tuệ nhân ái:
   Xuân khứ bách hoa lạc
     Xuân đáo bách hoa khai
     Sự trục nhãn tiền quá
     Lão tùng đầu thượng lai
     Mạc vi xuân tàn hoa lạc tận
     Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
     Xuân đi trăm hoa rãi
     Xuân đến trăm hoa khai
     Xem chuyện đời trước mắt
     Tóc trên đầu đã phai
     Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
     Tối qua vườn trước một cành mai
       (Có bệnh, dặn dò tăng chúng) 
Lịch sử đã từng chứng minh một cách cụ thể nhất ở vào thế kỷ thứ mười, khi Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân lập nên nước Đại Cồ Việt thống nhất và độc lập.
Trong thời đại này Mật Giáo và Thiền là hai hệ thống Phật Giáo hưng thịnh nhất. Qua triều đại vua Lý Thái Tổ, các Thiền Sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, Pháp Thuận đã bước ra cổng Thiền Môn trực tiếp giúp minh quân đem lại cảnh sống thái bình an lạc cho dân chúng kéo dài đến hơn cản trăm năm từ 1010 đên 1225. Trong thời gian này văn học dân tộc ảnh hưởng sâu đậm đạo Phật. tỏa sáng từ những áng văn chương tuyệt tác của các Thiền Sư Khuông Việt, Vạn Giác, Bảo Giác, Pháp Thuận, Thường Chiếu, Hải Chiếu, Huệ Hưng... Như những giòng lưu lượng thác đổ từ những ghềnh núi Trường Sơn cuồn cuộc ra biển lớn. Ở mỗi nhánh sông tạo thành những bãi phù sa trùng điệp phì nhiêu màu mỡ, cho cây trái vường lên xanh thắm ngàn đời liên tục hình thành. Đến hậu bán thế kỷ mười tám, mười chín và hai mươi, những trang văn học Việt Nam ươm đầy những tinh hoa tuyệt kỷ của tư tưởng Phật Giáo. Từ những sáng tác đại chúng điển hình thơ truyện Sự Tích Quan Âm Thị Kính dưới nhiều hình thức và thể loại vừa để ngâm ca, vừa để trình diễn trên sân khấu, đại thể như :
    ... Chân như đạo Phật nhiệm mầu
     Tận trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân
     Hiếu là độ được đấng thân
     Nhân là cứu vớt trầm luân mọi loài
     Tinh thông nghìn mắt nghìn tai
     Cũng trong một điểm linh đài hóa ra
     Xem trong biển nước Nam ta
     Phổ môn có đức Phật Bà Quan Âm...
Danh từ Quan Thế Âm có nghĩa là Người lắng nghe tiếng kêu trầm thống của cuộc đời, Lắng nghe để tìm tới cứu độ. Những tác phẩm đáng kể khác như Thánh Đăng Lục, Thiền Tông Bản Hạnh, Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục, Kề Đăng Lục, Khóa Hư Lục, Tam Tổ Thực Lục, Đại Nam Thiền Uyển Tuyền Đăng Tập Lục... Thực sự chúng ta không thể kể hết những kho tàng văn học Việt Nam ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng siêu việt và uyên bác của Phật Giáo từ nghìn xưa.
Trong văn chương bác học, chúng ta nhận thấy có các nhà Vua thể hiện tâm đạo qua thơ văn như Lý Thái Tổ, Lý Nhân Tông, Lý Thái Tông, Trần Thái Tông, Tự Đức... các thi hào lỗi lạc Nguyễn Du, Ôn Như Hầu, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Trãi... đã chứng minh điều đó. Trong tác phẩm "Cung Oán Ngâm Khúc" Ôn Như Hầu đưa lên hình ảnh thâm thúy khơi sáng ngọn đuốc tuệ vượt qua khỏi kiếp luân hồi. Cuộc nhân sinh đầy khổ lụy vô thường, hãy nương vào cửa Phật để dứt sạch thất tình lục dục :
   Thà mượn thú tiêu dao của Phật
     Mối thất tình quyết dứt cho xong  
     Đa mang chi nữa đèo bòng
     Vui gì thế sự mà mong nhân tình
    
     Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa
     Mượn "hoa đàm" "đuốc tuệ" làm duyên
     Thoát trần một gót thiên nhiên
     Cái thân ngoại vật là tiên trong đời...
Đến đại thi hào Tiên Điền Nguyễn Du đã viện dẫn lý nghiệp báo luân hồi một cách triệt để của Phật Giáo. Cái nghiệp như hình với bóng đeo đuổi con người đến suốt một đời. Và cái tâm, căn nguyên của mọi vọng tưởng u minh mê lầm. Ở trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh, Sư Tam Hợp đã giải bày :
   ... Sư rằng : "Phục họa đạo trời
     Cội nguồn cũng bởi lòng người mà ra
     Có trời mà cũng tại ta
     Tu là cõi phúc, tình là dây oan...
     ... Đã mang lấy nghiệp vào thân
     Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
     Thiện căn vốn tại lòng ta
     Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài...
    Hoặc ở những đoạn đầy thiền duyệt, thiền vị bàng bạc nhưng sâu sắc khác: 
    ... Đã đem mình gởi am mây
     Thân này sánh với cỏ cây cũng vừa
     Mùi thiền đã bén muối dưa
     Mầu nhiệm ăn bận đã ưa nâu sồng
     Sự đời đã tắt lửa lòng
     Còn chen vào chốn bụi hồn làm chi...
Thi hào Nguyễn Du còn thể hiện diệu tâm của đa số Phật tử Việt Nam qua các tác phẩm Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh, chẳng khác nào như một bài thuyết pháp thi vị và chân xác về lý giải vô thường và nhân quả luân hồi
Thi sĩ Chu Mạnh Trinh, trong cõi thơ của ông, chúng ta có thể tìm thấy những giao động mạnh mẽ khi ông diễn tả những cảnh trí lung linh huyền ảo của núi rừng tĩnh mịch nhuốm vẻ an nhiên tự tại của tinh thần Phật Giáo :
   ... Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
     Lững lờ khe yến cá nghe kinh
     Thoảng bên tai một tiếng chày kình
     Khác tang hải giựt mình trong giấc mộng
Đề cập đến Nguyễn Công Trứ là nói tới một văn hào nổi danh lúc vinh quang tột đỉnh, khi thảm thê tận cùng vực thẳm đắng cay, từng trải trăm đường tân khổ. Nhân sinh quan của Nguyễn Công Trứ là hưởng lạc hưởng nhàn.
Thơ văn Nguyễn Công Trứ chịu ảnh hưởng khá sâu đậm Phật Giáo :
     ... Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe
     Trần có vui sao chẳng cười khì ?
     Khi hỉ lạc, khi ái ố, lúc sầu bi
     Chứa chi lắm một bầu nhân dục...
Hay ở trong bài "Vịnh Nhân Sinh Quan" Nguyễn Công Trứ đã thể hiện rõ tưởng triết học Phật Giáo ở mộttrình độ cao hơn :
     … Ôi nhân sinh là thế ấy
    Như bóng đèn, như mây nổi, 
   như gió bấc, như chiêm bao
    Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào,
    Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín…
Đến cuối thế kỷ thứ 19 và 20, văn học sử Việt Nam chuyển mình tiếp thu những giòng văn học của thế giới. Thời điểm này đánh dấu biến cố lịch sử làm phong phú rực rỡ và mới mẻ mọi khuynh hướng tư tưởng để hình thành hướng đi và ý thức mới về văn học nghệ thuật dân tộc. Tuy nhiên sự hiện diện của những trào lưu văn học mới, không phải những nhà văn nhà thơ Việt Nam đã quên lãng từ bỏ cốt tủy đã ảnh hưởng sâu đậm trong hồn tính dân tộc từ ngàn xưa, những chất liệu tinh hoa của Phật Giáo. Chúng ta ghi nhận trong những tác phẩm của các nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Trong thơ của Nguyễn Nhược Pháp, Tự Đức, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Tế Hanh, Thanh Tịnh, Lưu Trọng Lư… Nhưng rõ nét nhất trong thi phẩm Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp
    … Thuyền đi, bến Đục qua
    Mỗi lúc gặp người ra
    Thẹn thùng em không nói :
    "Nam mô A Di Đà".
    …
    Mẹ bảo "Đường còn lâu
    Cứ vừa đi vừa cầu
    Quan Thế Âm Bồ Tát
    Là tha hồ đi mau !"
    …
    Khi qua Chùa Giải Oan
    Trong mấy bức tường ngang
    Chàng đưa tay lẹ bút
    Thảo bài thơ liên hoàn.
    …
    Ô! Chùa trong đây rồi
    Động thắm bóng xanh ngời
    Gấm thêu trần thạch nhũ
    Ngọc nhuốm hương trầm rơi !
    …
    Ngun ngút khói hương vàng
    Say trong giấc mơ màng
    Em cầu xin Trời, Phật
    Sao cho em lấy chàng…
Quan niệm một số chân tu Phật Giáo trong những kỷ nguyên trước là tìm nơi non cao tĩnh lăng để diện bích soi tâm, hay ít ra cũng lánh xa cõi trần đầ ô trọc có thể ảnh hưởng đến tâm thức tu học. Phải chăng đấy là cái tâm "ứng vô sở trụ" đã dẫn dăt Huệ Năng đến Tào Khê. Một số tăng lữ khác quan niệm hãy đem đạo vào đời như kim chỉ nam lám sáng tỏ cái tâm của Thái Tông thoát nhiên tự ngộ nhận lãnh vai trò lãnh đạo nhân dân "dĩ thiên hạ tâm vi tâm - dĩ thiên hạ dục vi dục" cứu nhân độ thế.
Trong thời đại cận kề với những tư duy hiện sinh, những nhà thơ Việt Nam khoác áo nâu sồng cũng đã xuống núi, hiện đại hóa phương thức truyền bá đạo giáo hay hòa nhập tư tưởng tôn giáo vi diệu này vào cuộc đời một tu sĩ, thi sĩ muốn bùng vỡ tâm thức sâu kín của ông đến phương tuệ giác nào chăng ? Tình cảm tha nhân rộng lớn ư ? Cái điều ỡm ờ lãng mạn nửa đời nửa đạo thật khác thường của Phạm Thiên Thư đã làm cho nhân thế ngẩn ngơ hoài nghi cái chân lý đạo giáo Thi sĩ đang theo đuổi. Một nhàsư biểu lộ tình cảm một cách hồn nhiên bộc trực quá quắt khác thường còn hơn những nhà tơ trữ tình ngoài đời quả là một ngạc nhiên thích thú :
    … Em tan trường về
    Anh theo Ngọ về
    Chân anh nặng nề
    Mai vào lớp học
    Anh còn ngẩn ngơ…
    … Môi em mỉm cười
    Mang  mang sầu đời, tình ơi !
    …
    Em làm trang tôn kinh
    Anh làm nhà sư buồn
    Đêm đêm buồn tụng đọc
    Lòng chợt nhớ vương vương 
    Đợi nhau từ mấy thuở
    Tìm nhau cõi vô thường
    Anh hóa thân làm mực
    Cho vừa giấy yêu đương.
      (Pháp Thân)
Tuy nhiên công trình thi hóa Kinh Ngọc - Qua Suối Mây Hồng - Kinh Hiền - Kinh Thơ và Đoạn Trường Vô Thanh thực sự Phạm Thiên Thư đã tỏa sáng giá trị tuyệt đỉnh của ảnh hưởng cao xa Phật Giáo trong nền tảng văn học Việt Nam hiện đại. Vũ Hoàng Chương được đánh giá cao như một Bắc Đẩu của giòng thi ca lỗi lạc với nội dung chứa chan tình yêu quê hương, tình yêu giữa con người với con người, qua thể tính triết lý nhân bản khai phóng và từ ái của đạo giáo Á Đông, nhất là tính chất bất bạo động, cho dù phải thầm lặng chấp nhận sự hủy thể để cúng dường đạo pháp như trường hợp Lửa Từ Bi hay trong thơ Pháp Nạn như một thảm họa chung của Dân Tộc :
   … Bầy chim kêu thương
    Nặng trĩu một trời oan khuất
    Ngóng về Nam, về Bắc   
    Cả hai phương sừng sững dựng may thành
    Sân chùa cây bật gốc
    Triền miên tử khí vây quanh
    Giờ cúng trái hãi hùng mưa gió
    Từng tiếng kêu bé nhỏ
    Rào kẽm gai xé nát hồi thanh
    Cá dưới khe vọng về đông khắc khoải
    Sao lắng nghe từ màu xanh 
    Của sông phiêu lưu của biển tunh hoành
    Chỉ thấy nước hồ ao nằm trong tù độc thoại
    Muôn trùng cửa khóa
    Hơi bốc lên mùi máu còn tanh
    Biển cuốn về bao nhiêu góc
    Sông chia làm mấy mươi ngành
    Bọc trong gai, nghẹn lời kinh
    Giạt về đâu lúc tâm tình nửa khuya
    Nhưng đá núi đây
    Và lá rừng kia
    Căm thù gan héo nát
    Mồ hôi nước mắt tháng  năm đầy
    Thoắt đã cùng chim cá
    Vùng lên tất cả
    Niệm mười phương Phật hướng về Tây
    Cờ phất năm màu rợp sử xanh
    Một phương chim Việt ngóng mây lành
    Cản tay bao ngược liều bom đạn
    Nỗi từ bi giải sắt đanh
    
    Phật hiện bóng lên người vững bước
    Trời quay mặt lại quỷ rơi nanh
    Rằng xe diệu pháp ba ngàn cõi
    Một cõi này thơm vết đấu tranh… 
Những ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng Phật Giáo trong thi ca chúng ta còn tìm thấy trong những tác phẩm của Quách Tấn, Tuệ Sỹ, Phạm Công Thiện, Tuệ Mai, Bùi Giáng, Nhất Hạnh, Cao M� Nhân, Nhã Ca… Trong mỗi Sát na của đời sống con người cuốn hút vào cơn lốc đảo điên của vọng tưởng. Qua bao nhiêu sinh diệt của kiếp người, tâm động triền miên như sóng vỗ vào ghềnh đá. Thời gian trôi qua, lịch sử đã biến thiên theo từng giai đoạn thăng trầm. Con người đã tự chia phân từng biên giới ý thức hệ khác nhau.
Tự trói buộc vào sự ích kỷ đầy trầm thống khổ đau, u minh mê muội, đã phá sản bản chất từ thiện uyên nguyên. Như những đứa con của Mẹ qua cơn bão lửa khủng khiếp trên quê hương đã xuôi ngược bạt ngàn trên khắp cùng thế giới.
Cuộc hành trình vào miền đất tự do nghiệt ngã xót xa, ở nơi chốn lưu đày đất khách, lúc nào tâm tưởng cũng hướng về nơi nguồn cội sinh thành. Ở đó hình ảnh mái chùa cong ẩn sau vòm lá xanh biếc, hồi chuông công phu sớm chiều tỏa rộng trên giòng sông êm ả, tỏa ngát trên những cánh đồi đầy sương mai, dìu dặt trong thinh không buổi hoàng hôn hiu hắt vàng trên đỉnh núi :
   Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng
   Có con đường đỏ chạy lang thang
   Có hàng tre gợi hồng sông núi
   Im lặng chùa tôi ngập nắng  vàng 
   Có những cây mai sống trọn đời
   Bên hàng tùng bách  mãi xanh tươi
   Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa
   Đức Phật từ bi miệng mỉm cười
   Tôi  nhớ làm sao những buổi chiều
   Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
   Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi
   Cầu nguyện dân làng sống mến yêu
   (Huyền Không)
Đi đâu rồi cũng cảm thấy mình cô đơn buồn nhớ quê nhà. Nỗi niềm thương cảm vẫn ray rứt như vết chàm khó phai trong tâm kham người đi. Thi sĩ Huyền Không đã thể hiện trung thực nỗi cảm hoài đó trong bài thơ Nhớ Chùa:
   …Biết đến bao giờ trở lại quê
   Phân vân lòng gởi nhớ nhung về
   Tan thương dù có bao  nhiêu nữa
   Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê
   Chuông vẫn nơi nao nhớ lạ lùng
   Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
   Mái chùa che chở hồn dân tộc
   Nếp sống  muôn đời của tổ tông
   (Huyền Không)
Đời sống chưa hẳn chỉ có nhu cầu vật chất cơm ăn áo mặc, tiện nghi đầy đủ, sẳn sàng phục vụ thể xác tối đa, nếu cứ buông thả tự biến mình như con ốc vô tri buồn thảm trong guồng máy thực dụng. Con người vôn dĩ là "cây sậy có tư tưởng" (Pascal) nên chúng ta cưu mang trăm ngàn mối tư duy, xem cuộc sống như mây trôi, như nưốc lũ qua cầu, trở về cõi an nhiên tự tại để chiêm nghiệm nỗi niềm xót xa của kẻ lưu đày nơi đất khách mơ về quê cũ:
    Giọt sương khuya đọng ba ngàn cõi
   Tịch mịch trầm tư ngọn cỏ bồng 
   Vết trăng loang lổ trên thềm vắng
   Ai bảo dùm ta lẽ có không
   Vẫn một cành mai xa xưa cũ
   Mang đầy bản vị thuở ban sơ
   Có chi trường cửu trong ttần thế
   Bên thềm trăng vẫn sáng lung linh
   Cỏ bồng, đêm vắng sương khuya giọt
   Vô tận thời gian câm lặng qua
   Ngày đi đêm lại sương đong trọn
   Vô lượng hà sa thế giới trung
   Điệp trùng chuỗi xích Hoa Nghiêm kết
   Quê cũ đường xưa mây lửng lơ.
   (Viên Lý)
Cho dù không gian, thời gian nào, những nhà thơ nhà văn Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước những phá sản tâm hồn, tiếp tục bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc. Chúng ta ghi nhận những đội ngũ văn hóa như Võ Phiến, Mai Thảo, Du Tử Lê, Minh Đức Hoài Trinh, Duy Lam, Nguyên Sa, Nghiêu Minh, Nguyễn Mạnh Trinh, Luân Hoán, Vi Khuê… Ngoài những thi phẩm chất chứa tình quê, nỗi nhớ nhung quá khứ êm đềm, còn ẩn dụ trong tư duy sâu thẳm, lối đi về thiên cổ vượt tới bến bờ Bát Nhã Chân Như trong những trang thơ nguồn thiền như huyễn của Thi sĩ Nghiêm Xuân Hồng :
     … Học người Đồng Tử miền Hoa Tạng
    Túy lúy càn khôn một lỗ lông
    Thấy Sái - Cam Lồ bừng chiếu sáng
    Hào quang muôn trượng - dạ thong dong
    Đáy nước mò trăng trăng nào thấy
    Chỉ thấy muôn vàn đốm lửa yêu
    Hãy mò Tâm để quang lồng lộng
    Một điểm không hư vạn kiếp đầy 
Từ ngày ở quê nhà, nữ thi sĩ Tuệ Nga đã tạo hướng thơ độc đáo tỏa ngát hương Đạo Từ Bi, bàng bạc nét vẽ Thiền Môn Tịnh Lạc. Ở hải ngoại, hơn hai mươi năm qua, cõi thơ Tuệ Nga vẫn tiếp tục lên đường với hành trang đầy đạo hạnh và chứa chan tình tự quê hương :
    … Chiều về mây trắng đan tơ
    Mây nghiên thung lũng nghe bơ vơ sầu
    Thoảng xa chợt tiếng kinh cầu
    Gió chiều thanh thản nhiệm mầu Nam Mô
    Đêm về kệ biến thành thơ
    Dòng xanh xanh ngát lờ hoa Chiên Đàn
    Nam Mô Vô Lượng Thọ Quan
    Lại nghe thanh thoát ngân vang chuông hiền
    Như dòng suối mát triền miên
    Búp Lan Vừa Nở cánh trên giấy hồng
    Đất trời một thoáng Hư Không
    Lời Thơ Tiếng Kệ bềnh bồng hoa mây
       (Búp Lan Vừa Nở)
Tập thơ đầu tiên cũng là tập thơ duy nhất của nhà văn Mai Thảo "Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền" ấn hành ở hải ngoại có nhiều bài ảnh hưởng sâu xa tư tưởng Lão và Phật Giáo. Cái thân chẳng khác căn nhà trú tạm ở thế gian. Cuộc rong chơi đầy men say và văn chương lý thú, khắp cùng với bằng hữu cho đến ngày mỏi mệt và nằm dưới bóng mát Phật Đài vĩnh hằng cực lạc :
   
     Nằm đây dưới bóng cây xanh
    Nhìn qua lá biếc lại xanh sắc trời
    Mát thơm đất trải bên người
    Nghe trong ẩm lạnh da người cũng thơm
    Đất lên hương, thấm qua hồn
    Nghe Vui thoáng đến với Buổi thoảng đi
    Giữa giờ trưa nắng uy nghi
    Bóng vây vây nhẹ hàng mi cúi đầu
    Người nằm nghe đất bao lâu
    Tai nương ngợ tiếng đời sau thở dài
    Lung linh sóng nắng đan cài
    Cõi Trong điệp điện Cõi Ngoài mang mang
    Chợt đâu rụng tiếng phai tàn
    Rơi ngưng nửa dáng nắng vàng trôi qua
    Linh hồn thiếp giữa triều hoa
    Bóng hình thôi đã nhạt nhòa quanh thân
       (Nghe Đất) 
Vốn dĩ đã có Phật tính trong tâm hồn, nên cho dù ở cõi thơ nào của sáng tạo, những nhà thơ Việt Nam đều chuyên chở những ý niệm Phật giáo, như trường hợp Du Tử Lê đã biểu lộ trong bài Sơn Tự Thi khi tỏ tình với người yêu bằng triết lý hiện sinh đầy giây oan trói buộc. Ông không thánh hóa tình yêu vào những trang kinh mầu nhiệm, những thi sĩ cảm nhận sự hiện hữu "cành hoa tay Phật : lòng Ca Diếp" tuyệt vời ở chung quanh đời sống :
     … Người trốn vô kinh vẫn thấy đời
    Khắp cùng sơn tự ảnh hình tôi
    Đừng quên sẽ chẳng bao giờ nhớ
    Ai khảo ra mà ngươi cung khai
    Nếu hiểu rồi ra là cát bụi
    Kinh nào uyên áo hơn vô ngôn
    Sơn tự là tôi em hãy trú
    Có cũng xong. Mà không cũng xong
    Hãy khép trang kinh trả lại đời
    Cứ gì sơn tự mới an vui
    Ủ hương cuối kiếp cho nhân loại
    Ngã mạn đời sau, em của ta
    Diện bích ngàn năm vẫn bất an
    Nhờ em thưa lại với Quan Âm
    Cõi tâm tôi trụ nơi nào nhỉ
    Phải chính tình em ? Chính mắt em…
   Thế giới thi hóa tình yêu là ngôn ngữ vượt thoát tới đỉnh cao tuyệt vời của nghệ thuật, của sự thăng hoa đích thực chân thiện mỹ, vì thơ là sứ giả của Tình Thương và Hòa Bình đã đưa nhân loại gần gũi nhau hơn.
   Những ý thức sâu xa bén rễ từ máu huyết tư tưởng Phật giáo hơn hai mươi thế kỷ, Dân Tộc Việt Nam đã từng biểu hiện bản chất hiền hòa, nhân hậu, không thù hận lâu dài. Lấy tình thương xóa bỏ hận thù. Không có chiến công nào oanh liệt bằng chiến thắng tự lấy tâm mình. Trong kinh Pháp Cú đã dạy : "Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả.  Nếu đem tâm thanh tịnh tạo nghiệp kéo đến như bóng theo hình".
Chúng ta hãy tưởng tượng một cách hạnh phúc, một ngày nào đó trên quê hương Việt Nam, đích thực có mùa Xuân thanh bình Tự Do Dân Chủ thực sự, sớm chiều tiếng chuông ngân vang, tiếng trống trường khua giữa tiếng cười trẻ em rộn rã vào lớp học. Chuyện đầu sông hay cuối sông không còn là nỗi ly cách triền miên.
Người đã gặp lại người như câu chuyện trùng phùng lịch sử của đàn con yêu dấu Mẹ Âu Cơ. Những bão tố đau thương sẽ tan đi, tâm sẽ lắng đọng như mặt hồ tĩnh lặng. Tất cả rồi sẽ tan chìm trong mỗi phút giây đời sống phù trầm oan nghiệt. Cuộc đời sẽ tươi đẹp hơn, rực rỡ hơn, tương lai êm đềm như suối nghe kinh, chim cúng trái, hoa Vô Ưu tỏa ngát hương trần gian.
Mùa xuân đạo hạnh chứa chan trong lòng nhân thế, mọi giấc mơ an lành hôm nay chúng ta hãy cầu nguyện sớm trở thành sự thật.
Thái Tú Hạp Nguồn : Vanhoaphatgiao
