;
Khi tiến hành các động tác lễ Phật, ta phải thành kính, nhiếp niệm, thong thả, mắt nhìn vào tượng Phật, Bồ-tát hay từng chữ của Kinh, hoặc để tâm vắng lặng, giúp cho tâm được an tịnh.
Lạy Phật, Bồ Tát là lạy những phẩm hạnh cao quý của Chư Phật, Bồ Tát như Trí Tuệ - Từ Bi - Dũng Lực - Vị Tha - Mật Hạnh Ba La Mật….vv để chúng ta học hỏi thực hành theo những phẩm cao quý đó của Chư Phật, Bồ Tát và lòng biết ơn đấng trí tuệ siêu việt lòng từ bi bao trùm, trí giác ngộ viên mãn của Chư Phật, Chư Bồ Tát.
Ta lễ lạy tại gia được an lạc là đã thực hành pháp tu “độc giác” vừa “tự lực” vừa cầu “tha lực” thành tựu, giúp ta “tự tin” và tinh tấn hành trì, nếu sống một mình cũng được an ổn, khi sống sinh hoạt chung cùng chúng cũng dễ hòa hợp và phát triển đạo tràng vì lúc đó ai cũng chỉ lo nhiếp tâm lạy Phật, không bị cảnh bên ngoài chi phối, Phật tánh tự hiển lộ.
Dưới đây là các tư thế từ chắp tay, ngồi, quỳ, lễ Phật đúng mà Phật tử nên biết:
----------------------------------------------------
CHẮP TAY LẠY PHẬT
Chắp tay lạy Phật là cử chỉ quá thông thường của người Phật tử, có chi khó hiểu đâu mà cần băn khoăn suy nghĩ. Đa số chúng tôi đều tưởng thế, cho đến một buổi nghe pháp, giảng sư hỏi đại chúng:
-Tại sao lạy Phật lại chắp tay?
Chúng tôi đồng loạt trả lời:
-Thưa Thầy, chắp tay để bày tỏ lòng cung kính Phật.
Nhưng khi Thầy hỏi: “Còn gì nữa?” thì cả đạo tràng im lặng, ngơ ngác nhìn nhau, không ai tìm được thêm một lý do nào nữa vì nghĩ, lý do cung kính Phật là đúng quá rồi!
Khi ấy, Thầy giơ bàn tay trái trước đại chúng và hỏi:
-Đây là tay gì?
Dễ quá! mọi người nhất loạt trả lời:
-Dạ, tay trái ạ.
Thầy giơ tay phải, hỏi:
-Còn đây là tay gì?
Lại dễ nữa, nên không ai chậm trễ lên tiếng:
-Dạ, tay phải ạ.
Bấy giờ, Thầy chậm rãi chắp hai tay vào nhau, thành búp sen và nhẹ nhàng hỏi:
- Tay gì đây?
Lúc này thì đại chúng nhường nhau, người nọ chỉ mong người kia trả lời cho mình, nhưng câu nào cũng chỉ ấp úng:
-Dạ … tay …. A …. tay …..
Vẫn giữ tay búp sen, Thầy giải thích:
-Khi chúng ta chắp hai tay vào nhau thì không còn tay phải, không còn tay trái nữa, đúng không? Hai bàn tay, phải và trái chỉ còn là một. Một búp sen thơm. Cũng thế, khi chúng ta nhiếp tâm chánh niệm thì tâm phân biệt phải trái, hơn thua, xấu đẹp. giầu nghèo v…v.. không còn nữa mà chỉ còn tâm an lạc.
Không một cử chỉ nào trong đạo mà không hàm chứa lời dạy sâu sa. Vào chùa, chúng ta quỳ xuống là đang thực hành hạnh khiêm cung, vô ngã, không còn Cái Ta kiêu mạn nữa. Sau đó là chắp tay, xả tâm phân biệt, tự động cảm thấy thân tâm thoải mái.
Ngay sau hai cử chỉ đơn giản đó, chúng ta lập tức đạt được sự an lạc mà thường ít ai quán chiếu vì sao vào đến chùa là vơi bao phiền não.
Bài giảng hôm đó xoay quanh đề tài Pháp Hiện Thực.
Pháp kề cận chúng ta hàng ngày, trong từng hành động chánh niệm. Cứu một con kiến, rải một hạt cơm cho con chim cũng là phát khởi tâm TỪ BI. Thực hiện được tâm từ bi là đã tạo cho mình phước đức, chứ không đợi phải làm được điều chi lớn lao mới có phước đức. Tất nhiên nếu có khả năng làm được nhiều điều tốt hơn thì phước đức sẽ nhiều hơn.
HỶ cũng thế, thành tâm chia vui với cái vui của người chính là ta đang diệt trừ tâm tỵ hiềm, ganh ghét.
Rồi XẢ bỏ tâm sân hận chính là đang quét dọn bụi bặm ô nhiễm để thấy được gương tâm sáng trong.
Chúng ta có thể thực hành Tứ Vô Lượng Tâm TỪ BI HỶ XẢ ngay trong sinh hoạt hàng ngày nếu ta biết giữ chánh niệm.
Mọi sự thành công hay thất bại dường như đều khựng lại ở chữ NẾU. Làm sao biến chữ “nếu” này hướng đến điều ta mong cầu?
Không có gì dễ, không có gì khó, nhưng giữa dễ và khó có một điểm chung, là quyết tâm và kiên trì.
NẾU QUYẾT TÂM VÀ KIÊN TRÌ sẽ đi đến thành công, lâu hay mau tùy môi trường và hoàn cảnh.
NẾU KHÔNG QUYẾT TÂM VÀ KIÊN TRÌ, chắc chắn sẽ đi đến thất bại mau lắm!
Trong pháp môn Tịnh Độ, hành giả nào cũng mong niệm Phật tới Nhất Tâm Bất Loạn. Nhưng, để niệm niệm nối nhau trong chánh niệm thì “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhơn duyên đắc sanh bỉ quốc” (*), chẳng phải chút ít căn lành, phước đức mà sanh về Cõi Tịnh được.
Giảng sư lại nhắc rằng, khi chúng ta tụng kinh, niệm Phật chính là ta đang trì giới.
Phật tử tại gia thường thọ tam quy ngũ giới. Tam quy là quay về với Phật, với Pháp, với Tăng. Ngũ giới là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không uống rượu.
Vậy thì, khi chúng ta ngồi trước ban thờ Phật, một tay chuông, một tay mõ, mắt nhìn vào trang kinh, miệng xướng tụng lời kinh, tai nghe âm thanh những lời Chư Phật, Chư Bồ Tát giảng dạy thì thân, tâm còn chừa chỗ nào để có thể phạm giới? Chỉ còn Ý, như con vượn chuyền cành nhưng nó lại bị Thân và Tâm đang tụng kinh niệm Phật cột giữ lại.
Khi chưa đủ quyết tâm và kiên trì thì Ý có thể dễ dàng dẫn ta lang thang vào vọng tưởng; nhưng khi quyết tâm dần tăng, kiên trì dần vững là khi con-vượn-ý bị khuất phục dần.
Thử áp dụng bài pháp vào thực tế đời-thường, như khi đối trước thị phi ác ý, hãy tạm kềm tâm sân hận rồi lặng lẽ chắp tay.
Quán chiếu hai lòng bàn tay đang úp vào nhau, ta thấy ngay búp sen thơm ngát. Chính búp sen này tạo được nguồn năng lượng tuy vô hình nhưng rất lớn, vì hình ảnh búp sen sẽ giúp ta chuyển hóa sân hận thành từ bi.
Khi cảm nhận hương sen đó từ hồ-tâm-ta vừa hé nở, chứ chẳng phải từ cõi nước xa xôi nào, ta sẽ lập tức có được niềm hoan lạc vô bờ, vì ta đang thấy ta đã thành công trong việc ngăn chặn tâm sân hận bằng hành động của tâm-từ.
Sự ngăn chặn đó là nở sen thơm thay vì bùng lửa giận.
Sau đó sẽ còn lại gì?
Đức Phật dạy rằng “Thị phi do kẻ khác ném tới, ta không nhận, tất sẽ quay về người gửi.”
Nếu không có cơ may được nghe giảng-sư khai triển và chỉ dẫn thực hành những lời Phật dạy thì hành giả dễ nản chí khi tu hoài mà an lạc đâu không thấy, chỉ phiền não bủa vây mỗi lúc mỗi chập chùng thêm.
Xin cùng nhau chia xẻ những đốm lửa soi đường, để bước chân tìm về trung-đạo thêm tự tin và vững chãi.
TN Huệ Trân
(*) Kinh A Di Đà