;
Khóa tu “bảy ngày niệm Phật” là hình thức học hỏi từ Phật giáo Đài Loan, nhưng về nội dung và cách thức tổ chức thì theo truyền thống tu học Phật giáo Việt Nam.
Vì sao lại là khóa tu “bảy ngày niệm Phật” mà không phải một pháp môn hành trì khác? Theo ý tưởng của chúng con, có bốn lí do sau đây:
1. Dựa vào kinh A Di Đà, có câu:
“Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A-Di-Đà Phật, chấp trì danh hiệu: nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn.”
“Xá-lợi! Thầy xem đấy quý không,
Nếu như ai có thực lòng,
Trai lành gái tốt đều không phân bì,
Được nghe nói A-di-đà Phật,
Là tên Ngài liền chấp trì ngay
Một ngày luôn đến bảy ngày,
Một lòng chẳng rối tức thời thành công.”
(Kinh Nhật Tụng, kinh A Di Đà, chùa Hoằng Pháp)
Theo đoạn kinh này, người nào khi nghe đến danh hiệu Phật A Di Đà, “chấp trì” từ một ngày cho đến bảy ngày, thì sẽ “nhất tâm bất loạn”. Về chữ “chấp trì”, Hòa thượng Trí Tịnh có giải như sau:
“Tôi nói với mấy huynh đệ về chữ "chấp trì danh hiệu". Chấp nghĩa là cầm, còn trì là giữ lại. Giống như tôi nắm quyển sách không buông ra vậy, hễ bỏ ra là không trì. Khi mình xưng danh hiệu ‘Nam Mô A Di Đà Phật’, làm sao trong tâm mình chỉ có ‘Nam Mô A Di Đà Phật’ mà thôi. Đừng có cái gì khác, đừng cho một niệm gì xen vào hết. Trong lúc niệm Phật mà còn niệm những thứ khác nữa thì không phải niệm Phật. Nếu chấp trì được danh hiệu như Phật Thích Ca nói thì nhất định vãng sanh. Làm không đúng thì không có kết quả. Lời Phật nói không khi nào sai cả, chỉ tại mình hiểu chưa đúng, mà khi hiểu đúng thì cũng không hẳn đã làm đúng”.
2. Dựa vào kinh Tăng Chi Bộ I, bài kinh Niệm Phật, đức Phật dạy rằng:
“Có một pháp, này các Tỳ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật. Chính một pháp này, này các Tỳ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn.”
(Tăng Chi Bộ I, chương Một. Một Pháp, XVI. Phẩm Một Pháp, 1-10. Niệm Phật)
Giải về đoạn kinh này, Hòa thượng Đạo trưởng Tổ đình Hoằng Pháp có chỉ dạy:
“Niệm Phật, không có nghĩa là chỉ niệm danh hiệu Phật nơi cửa miệng mà còn phải nghĩ tưởng đến hảo tướng, đức hạnh, ba nghiệp thanh tịnh, trí tuệ siêu việt và sự chính niệm, tỉnh giác của đức Phật. Lúc nào cũng nhớ Phật, niệm Phật, nghĩ tưởng đến Phật, tâm của chúng ta sẽ được thanh tịnh và dần đi vào thiền định.”
Về mục đích của thực hành pháp môn niệm Phật như vậy là quá rõ ràng!
3. Tích truyện Pháp Cú bài kệ số 2
“Ý dẫn đầu các Pháp,
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình.”
Câu chuyện này kể về thanh niên Bà-la-môn Maṭṭhākundali đang hấp hối, chỉ nhờ nghe danh của đức Phật (Buddho) mà sinh lòng kính tin, liền ngay đó sinh thiên sau khi từ giã cõi đời.
“Ngài quán sát với Phật nhãn mở rộng đến mười phương thế giới, và thấy Maṭṭhākundali đang nằm hấp hối ngoài thềm nhà. Ðấng Ðạo sư biết ngay là anh ta vừa từ trong nhà được khiêng ra đặt nằm đó, và cũng biết rằng anh ta có nhân duyên với Phật, đặt niềm tin nơi Phật, sẽ chết và sẽ tái sinh lên cõi trời ba mươi ba, sống trong lâu đài bằng vàng, có một ngàn thiên nữ theo hầu.”
(Tích Truyện Pháp Cú, truyện số 2 Khóc Đòi Những Chuyện Trên Trời, Thiền viện Viên Chiếu dịch)
4. Phật tử Việt Nam đã quen với pháp môn Tịnh độ
Phật giáo Việt Nam mấy mươi năm qua đã thấm nhuần tư tưởng vào giáo lý Tịnh độ, cả về cách thức lẫn sự hành trì tu tập. Pháp môn thực hành là phương tiện giúp chúng ta định tâm và phát sinh trí tuệ. Người Phật tử Việt Nam đã quen hành trì pháp môn Tịnh độ thì việc có niềm tin và tiếp tục tinh tấn là chuyện đương nhiên trên bước đường tu học. Giáo nghĩa Tịnh độ dạy rằng cõi Cực Lạc (Sukhāvatī) được thiết lập bởi nguyện lực của đức Phật A Di Đà từ khi ngài còn là Tỳ-kheo Pháp Tạng (Dhammakara).
Trong nguyên điển Sanskrit của Kinh Bi Hoa (Karuṇāpuṇḍarīka śūtra), phẩm III Dāna-visargas tṛtīyaḥ, vua Vô Tránh Niệm (Āraṇemin) đã phát nguyện và được Phật Bảo Tạng ấn chứng sẽ thành Phật A Di Đà, làm giáo chủ cõi Cực Lạc ở phương tây.
Theo thiển ý của chúng con (người viết), dựa trên nguyện lực của đức Phật A Di Đà mà trong kinh điển đề cập, những hành giả Tịnh độ cũng phát nguyện sinh về cõi Cực Lạc Tây Phương, từ đó sẽ cùng tạo nên sự cộng hưởng đại thiện tâm, tác thành y báo và chánh báo cho kiếp lai sinh. Như câu chuyện về tiền thân của Đế Thích (Sakka) và các vị thiên khác trên cung trời Đao Lợi (Tavatimsa). Vì sao trời Đao Lợi có tên là trời Ba Mươi Ba? Vắn tắt mà nói, là do nguyện lực của ba mươi ba người trong tiền kiếp cùng làm việc thiện với nhau, khi mất được cộng sinh một xứ sở.
Những lí do trên có thể tuy không đầy đủ chính xác và khái quát được rõ ràng nội dung muốn truyền tải, tuy vậy, bằng một chút tìm hiểu của bản thân, chúng con mong mỏi mọi người sẽ hiểu được phần nào, từ đó vững vàng niềm tin tu tập. Nguyện cho chư thiện hữu và hành giả ngõ hầu đi mãi trên con đường đạo an vui và hạnh phúc. Chúng con xin mượn một bài kệ để làm lời kết cho bài viết:
“Những người cùng tôi đồng một hạnh
Cầu được sinh chung các cõi nước
Thân, khẩu, ý, nghiệp đều đồng nhau
Tất cả hạnh mầu cùng tu tập.”
(Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quảng – Đệ tứ Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam)
Tâm Cung