;
>Khởi nguyên của giáo lý Tịnh Độ trong PG Nguyên thuỷ và PG Đai thừa tại Trung Quốc
Lời nói đầu
Ngài pháp sư Tịnh Không, một cao tăng đương thời có nói: "Kinh Phật muôn đời vẫn mới mẻ, thích ứng với mọi thời đại. Từ ba ngàn năm trước, những kinh điển được giảng tại Ấn Độ khiến cho người Ấn Độ thời ấy được thọ dụng. Ba ngàn năm sau, đối với những kinh điển ấy, chúng sinh ngày nay vẫn được thọ dụng y hệt chẳng khác biệt gì. Nhưng vì hình thái ý thức, bối cảnh văn hóa, cũng như hoàn cảnh sống xưa nay rất khác nên cần phải có giải thích lại, nghĩa là hiện đại hóa địa phương hóa kinh Phật để thích ứng căn cơ đương thời."
Ngày nay cách Phật nhập diệt đã hơn 2500 năm, tức là đã đi sâu vào thời Mạt pháp[1], ma chướng nặng nề, nên đối với kinh Phật nói chung và pháp môn Tịnh độ[2] nói riêng, chúng sinh ngày càng tin tưởng ít, ngờ vực nhiều. Con tự xét sức học cạn cợt, tâm trí si ám, may nhờ cơ duyên gặp được pháp môn Niệm Phật, được hưởng sự an lạc trong pháp Phật, đội ơn sâu dày của Phật, trong tâm hằng mong được báo đáp chút phần nên cả gan, mạo muội biên soạn lại ít phần nghi vấn trong "Di Đà sớ sao" của Liên Trì đại sư, sách "Tịnh Độ thập nghi luận" của Trí Giả đại sư, "Tây Phương yếu quyết" của Khuy Cơ đại sư.... Nói theo lời ngài Ngẫu Ích, con chẳng dám ganh đua mà giải đáp cho khác các vị song cũng không nhất định phải giống hoàn toàn. Lời dạy của các vị Tổ sư như thuyền lớn độ tận hết thảy chúng sinh, lời lạm bàn thô kệch của con như chạy theo thuyền lớn mà gạt bèo gạt nước; chẳng dám chống trái lời dạy của các ngài mà hy vọng đem chút lời cùng làm sáng tỏ pháp môn Tịnh Độ kỳ diệu nhiệm mầu thì may mắn lắm.
Cúi mong Chư Phật gia hộ, hậu thân Thích Ca Trí Giả đại sư, Tổ sư Liên Trì, Khuy Cơ đại sư gia hộ cho con chẳng đến nỗi biến nước cam lộ giải thoát thành độc dược.
Nam mô A Di Đà Phật!
Lạm bàn:
Luận Trí Độ có nói: Biển Phật pháp mênh mông, hễ tin là vào được.
Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật dạy: Tất cả các kinh điển đại thừa đều phải do cửa Tín mà vào, chẳng phải do tự lực cửu giới [3] chúng sinh suy lường mà hiểu được.
Ngẫu Ích đại sư trong tác phẩm Di Đà yếu giải có nói: Các kinh đại thừa đều lấy Thật tướng[4] làm Chánh thể[5]. Thật tướng là cách gọi khác của Tự tánh[6], Tịnh tông gọi là Tự tánh Di Đà.
Kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ đều lấy Tự tánh Di Đà làm Thể. 48 Đại nguyện độ sanh của Phật Di Đà cũng đều từ Tự tánh thanh tịnh phát khởi ra.
Do đó nương theo Đại nguyện của Phật Di Đà khởi tu tức là trở về với Tự tánh Di Đà, tức là thành Phật. Do nơi Tự tánh chẳng thể nghĩ bàn nên suy lường chẳng thể vào được, phải vào bằng niềm tin thanh tịnh, sáng suốt.
Vậy nên ba món tư lương về cõi Tịnh là Tín, Nguyện Hạnh thì Tín đứng đầu; trong Ngũ căn , Ngũ lực thì Tín cũng đều đứng đầu. Nếu chẳng có Tín đâu thể vào được biển Phật pháp, có chăng chỉ là nghiên cứu chữ nghĩa suông mà thôi.
Có thể hình dung công phu tu hành như trồng cây, gieo nhân ắt hái quả. Một niệm phát tâm tu hành là gieo nhân. Nếu phát tâm tu cầu công danh ắt được công danh, cầu phú quý ắt được phú quý, cầu làm Thanh văn ắt được làm Thanh văn, cầu quả vị Phật ắt được quả vị Phật.
Nên kinh Hoa Nghiêm nói: Niềm tin là mẹ của tất cả chư Phật, xuất sinh tất cả hạnh lành.
Trong phạm vi nhỏ bé của cuốn sách, con xin được tổng hợp, biên soạn các điều nghi vấn trong pháp môn mà đức Thế Tôn dạy là "khó tin khó hiểu bậc nhất", dẫn lời khai thị vàng ngọc của các Tổ sư, đại đức; mong phần nào giải tỏa chút nghi ngờ cho người tu tập Tịnh nghiệp, được như vậy thật may mắn lắm.
Nam mô A Di Đà Phật.
Chú thích:
[1]: Là thời gian sau 2 thời Chánh và Tượng: Tức là thời thứ ba gọi là "Mạt pháp". Phật sử chép: Giáo pháp của đức Thích Ca truyền để ở thế giới này được phân làm ba thời kỳ: Từ ngày Phật nhập diệt về sau, một nghìn năm (1000) là "thời chánh pháp", đó là thời kỳ thứ nhất. Từ đó về sau, một nghìn năm (1000) là "thời tượng pháp", đó là thời kỳ thứ hai. Từ đó về sau một vạn năm là "thời mạt pháp" đó là thời kỳ thứ ba. Hiện nay (2014), sử Phật đã được 2577 năm mà Tổ sư Vân Thê sanh ra đời nhằm trong thời gian từ Gia Tĩnh đến Vạn Lịch (1522-1615) nhà Minh bên Tàu nên Tổ sư than lấy mình sanh nhằm đời mạt pháp, nghĩa: Giáo pháp đã đến thời kỳ chót ngọn rồi! Cũng như nói: sanh sau đẻ muộn thua kém đủ bề!
[2]: Tịnh: Trong sạch, không nhiễm dơ; Độ: Cõi nước, thế giới
Tịnh độ là thế giới hay cõi nước trong sạch, không có 5 thứ ác trược: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mạng trược. Tịnh độ là nơi an trụ của các hành Thánh giả như: A la hán, Duyên giác, Bồ tát và Phật.
Tịnh độ cũng được gọi bằng nhiều tên như: Phật địa, Phật giới, Phật quốc, Phật độ, Thanh tịnh độ, tịnh diệu quốc độ,...Trong mười phương thế giới có vô số cõi Tịnh độ cũng như vô số cõi uế độ (cõi ô nhiễm). Như Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà là cõi Tịnh dộ, còn thế giới của ta đang sống tên gọi Ta Bà là cõi uế độ.
Pháp môn Tịnh độ là pháp môn Niệm Phật cầu sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật Di Đà ở phương Tây.
[3]: Cửu giới chúng sinh: Mười phương thế giới được chia thành Thập (mười) pháp giới. Đó là:
- Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh, A tu la, Người, Trời (còn gọi là lục đạo luân hồi: 6 đường trong cõi luân hồi chết đi sống lại)
-Bốn pháp giới còn lại của Thánh là: A la hán, Duyên giác, Bồ tát và Phật.
Nói đến cửu giới là nói đến các chúng sinh từ địa ngục đến Bồ tát.
[4]: "Tín, Hạnh, Nguyện": Tín: đức tin. Có Lý và Sự. Lý: Tự tin mình sẵn có tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ. Sự: Thật có đức Phật A Di Đà lập thành nước Cực Lạc bằng 48 nguyên tắc đại nguyện để tiếp chúng sanh niệm Phật về ở đó. Hành là thật hành chấp trì danh hiệu của Phật để niệm cho đến "nhứt tâm bất loạn". Nguyện là nguyện đến khi lâm chung, tập trung tự lực, và thống nhấtt tha lực để được hóa thân Phật đến tiếp về Tịnh Độ, hoa khai kiến Phật, đắc vô sanh nhẫn, rồi trở lại cõi này, cứu độ chúng sanh, đền ơn đức Phật.
Tóm lại, Tín, Hạnh, Nguyện là công nghiệp để thành tựu về sự niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ nên gọi là Tịnh nghiệp.
[5]: "Căn" được hiểu dụ như loài thảo mộc có rễ, có thể sinh trưởng, mang ý nghĩa gìn giữ. Ngũ căn gồm:
-Tín căn: Tin vào chánh đạo và các pháp trợ đạo trong Phật pháp.
-Tinh tấn căn: có thể thực hành chuyên cần chánh pháp Phật dạy.
-Niệm căn: Tư duy, suy niệm về pháp Phật dạy.
- Định căn: sau khi tư duy nơi pháp, có thể nhiếp tâm vào Phật pháp, chẳng để tâm tán loạn, rong ruổi ra bên ngoài.
-Huệ căn: Từ Định có thể phát sinh Huệ, có thể xâm nhập, thấu hiểu giáo lý nhiệm màu của Phật pháp.
[6]: Ví như loài thảo mộc sinh trưởng thành cây có sức mạnh, cũng vậy "ngũ căn" tăng trưởng sẽ thành "ngũ lực". Tổ Ngẫu Ích có viết:
- Tín căn tăng trưởng, có thể phá nghi hoặc, phá sự mê tín và phiền não thì gọi là Tín lực.
-Tinh tấn căn tăng trưởng, phá các biếng nhác nơi thân, tâm, thành tựu đại sự xuất thế gọi là Tinh tấn lực.
-Niệm căn tăng trưởng, phá các Tà niệm, thành tựu hết thảy các công đức chánh niệm xuất thế, gọi là Niệm lực.
-Định căn tăng trưởng, phá các loạn tưởng, phát khởi được Sự lý Thiền định gọi là Định lực.
-Huệ căn tăng trưởng, có thể ngăn chặn các lậu hoặc chung và riêng, phát khởi vô lậu chân thật thì gọi là Huệ lực.
CHƯƠNG I: 9 điều khó tin trong Di Đà sớ sao
Tổ thứ tám của Tịnh độ tông là Liên Trì đại sư, trong tác phẩm Di Đà sớ sao, nói lược ra những điều khó tin ở những điểm sau:
1. Ở cõi Ta bà uế độ này, chúng sinh đã nhẫn chịu đã nhiều đời nhiều kiếp [1] rồi; nay bỗng nghe cõi nước Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh, tất sẽ nghi là không có sự thật ấy. Đó là khó tin thứ nhất.
2. Dù có tạm tin có nước kia (tức Tây Phương Cực Lạc) nhưng lại nghi trong kinh nói cõi ấy cách Ta bà xa đến 10 muôn ức [2] cõi Phật, làm sao mà sanh về cõi đó được. Đó là điều khó tin thứ 2.
3. Dù có tạm tin có thể sanh về nhưng lại nghi ta phàm phu tội chướng sâu nặng [3], làm sao đủ thiện căn phước đức sanh được về đó? Đó là điều khó tin thứ 3.
4. Dù tạm tin có thể sanh về cõi đó, nhưng lại nghi phải tu pháp môn kỳ diệu gì, và nhiều công hạnh mới có thể được; làm sao chỉ có "Tín nguyện trì danh" lại có thể vãng sinh? Đó là điều khó tin thứ 4.
5. Dù tạm tin pháp trì danh có thể vãng sinh, nhưng lại nghi rằng phải tu trì nhiều năm nhiều kiếp mới được thành tựu, làm sao chỉ niệm từ một đến bảy ngày mà được vãng sinh? Đó là điều khó tin thứ 5.
6. Dù tạm tin trong thời gian ngắn tu pháp Trì danh có thể vãng sinh, nhưng lại nghi kẻ sơ tâm vào đạo gặp nhiều chướng duyên phải thối lui, làm sao có thể chỉ sinh về cõi đó mà được Bất thối [4], quyết định thành Phật được? Đó là điều khó tin thứ 6.
7. Dù tạm tin như vậy, nhưng lại nghi pháp Trì danh chỉ là quyền biến, chỉ dành cho kẻ tối dốt, chứ bậc thượng trí sáng suốt phải tu diệu pháp tự lực như Thiền, Mật tông hay Duy thức, Pháp hoa... mới đúng lẽ chứ? Đó là điều khó tin thứ 7.
8. Dù tin pháp Trì danh nhiếp thọ mọi căn cơ từ thượng trí tới hạ ngu, nhưng Tịnh độ lấy lâm chung làm kỳ hạn, như vậy làm sao biết chắc mình có được vãng sinh hay không? Nếu chẳng được vãng sinh thì chẳng phải uổng một đời tu không? Trong khi các pháp môn khác nếu dốc sức tu hành đều có thể trong đời hiện tại nhận biết được? Đó là điều khó tin thứ 8.
9. Dù tin pháp Trì danh bậc thượng trí cũng tu hành, nhưng kinh khác khi nói các cõi Phật đều không, khi lại nói Duy tâm Tịnh độ, chẳng phải cầu đâu xa, rồi trong tâm hồ nghi chẳng quyết định. Đó là điều khó tin thứ 9.
Đó là chín điều khó tin, chẳng phải theo hàng ngang mà thành tầng tầng lớp lớp bao phủ người tu Tịnh nghiệp vậy. Thế nên đức Phật mới than rằng:
“Thân người khó được, Phật khó gặp
Trí huệ nghe pháp khó trong khó.”
Vậy nên nói pháp khó tin là vì: chẳng những người ngu mê khó tin mà cả bậc hiền trí còn nghi hoặc; chẳng những kẻ sơ cơ khó tin mà bậc tu lâu còn nghi hoặc, chẳng những bậc phàm phu khó tin mà bậc Thánh giả Nhị thừa còn nghi hoặc, nên nói là pháp tất cả thế gian khó tin vậy.
Hỏi rằng: Nếu đã nói là pháp tất cả thế gian khó tin, vậy đức Phật còn nói ra làm gì?
Đáp: Ấn Quang đại sư có nói:
Cửu giới chúng sinh rời pháp môn này thời chẳng thể viên thành Phật quả.
Thập phương chư Phật bỏ pháp môn này quyết không thể độ khắp chúng sinh.
Vì rằng phải là người đầy đủ phước đức nhân duyên có thể tin nhận. Đó là để hiểu rằng: Nếu như người thấy nghe mà không tin là do người tự bỏ, còn người nào tin là người có duyên. Mặc dù nay không tin, nhưng một phen nghe lọt tai cũng tạo được hạt giống đạo muôn đời.
Đại sư Thiện Đạo đời Đường nói: Sở dĩ Phật Thích Ca xuất hiện ở đời để nói Di Đà hải nguyện.
Cũng lại phải nói rằng vì pháp môn Tịnh độ khó tin, khó nhận nên đời nào cũng có cao tăng, đại đức viết lời giải thích, giải đáp cặn kẽ, lại đưa ra những tấm gương vãng sinh cụ thể, mà saoTín tâm của ta vẫn chẳng được thành tựu. Ấy là do chúng ta dùng cái tâm hời hợt mà đọc tụng, giống như nhìn mây bay trên trời, rốt cuộc chẳng đọng lại chút gì trong tâm. Vì rằng niềm tin chẳng do từ bên ngoài mang tới, cũng như thấy người ăn mình chẳng thể no. Cần phải tự mình suy xét xem mối nghi ngờ của mình của mình là gì, phải chính mình giải tỏa mối nghi của chính mình. Tức là niềm tin chẳng phải tin suông, mê tín, người nói gì cũng nghe mà phải qua trải nghiệm, thử thách để lòng tin được kiên cố vững vàng. Khi ấy mới có thể tăng trưởng Tín tâm chân thật mà phát ra được Đại nguyện vãng sinh.
Nghi vấn thứ 1. Cõi Tây phương Cực lạc có thật không?
Xin dẫn lời pháp sư Khoan Tịnh khi Ngài được Bồ tát Quán Thế Âm dẫn đi thăm thế giới Tây phương Cực lạc
Ngài hỏi Bồ Tát Quán Âm:
- Người ở trái đất vãng sanh về thế giới Cực Lạc này rất đông, tại sao thân quyến của họ đều không nhìn thấy vậy? Bồ Tát Quán Âm bảo:
- Người địa cầu phần nhiều còn vọng nghiệp che lấp, rất nhiều cái gần hơn còn chưa nhìn thấy, nếu họ chịu nhất tâm niệm Phật không dấy vọng tưởng, tâm như hư không, thì người địa cầu cũng có thể nhìn thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc được.
Và còn nhiều vị Tổ Tịnh độ và những người vãng sinh được ghi trong quyển “Mấy điệu sen thanh” của Hòa thượng Thích Thiền Tâm đều xác thực điều này.
Hơn nữa, người học Phật, tin đức Phật thật sự có thật cũng phải tin Bồ tát Quán Thế Âm thật sự có thật. Nhất là đối với người dân Việt Nam, Bồ tát Quán Thế Âm thậm chí còn được biết đến nhiều hơn cả đức Phật Thích Ca. Mà trong kinh Bi Hoa, Phật Bảo Tạng thọ ký cho Bồ tát Quán Thế Âm thành Phật hiệu Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sang Vương Như Lai, tại cõi Cực Lạc sau khi Phật A Di Đà niết bàn. Khi ấy cõi Cực Lạc lại đổi tên là: “Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”, y báo càng tốt đẹp hơn trước đến bội phần.
Hơn nữa, nếu không có Phật A Di Đà tiếp dẫn, tại sao nhiều người niệm Phật khi sắp chết biết trước ngày giờ, thấy các cảnh tướng Tây Phương, cùng Phật, Bồ Tát hiện thân đón rước? Nếu cõi Cực Lạc là hư huyễn, tại sao có những vị tu Tịnh Độ trong lúc hiện tiền bỗng tâm được khai mở, thấy rõ ràng cảnh Tây Phương trang nghiêm thanh tịnh y như lời Phật nói? Đệ tử của Phật hay người muốn học Phật mà không lấy lời Phật dạy trong kinh làm mực thước, thử hỏi còn lấy chi để làm chỗ tựa nương? Cho nên do theo Thánh Ngôn Lượng và Hiện Chứng Lượng (cách suy lường dựa theo lời Phật nói và sự hiện chứng của người tu), ta phải tin rằng những sự trang nghiêm ở Cực Lạc đều có thật.
Vả chăng, nếu cõi Tây Phương không thật có, là quyền biến, là phương tiện thì vô số tấm gương vãng sinh như Tổ Huệ Viễn, Tổ Ngẫu Ích, Tổ Ấn Quang,.. là dối gạt chúng sinh hay sao? Lời phát nguyện vãng sinh của các Bậc đại sĩ Văn Thù, Phổ Hiền là hư vọng hay sao?
Vì cõi đó quá xa xôi, sợ đời sau sinh lòng nghi mất lợi ích lớn, trong kinh Vô Lượng Thọ, phẩm Từ Thị (tức Bồ tát Di Lặc) thuật chỗ thấy, đức Thế Tôn đã phải bao lần hỏi đi hỏi lại ngài Di Lặc và ngài A Nan rằng các ông có thấy cõi nước đó không, có thấy nhân dân ở đó sinh hoạt thế nào không.. để dứt trừ lòng nghi của người học đời sau.
Được nghe và tin nhận pháp môn này thật không gì khó hơn.
Nghi vấn thứ 2: Làm sao có thể sinh được về cõi Tây Phương xa xôi như vậy?
Trong một lần đàm đạo với ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân, Thiên Hoàng có hỏi: Vấn đề Phật tiếp dẫn về cõi Cực Lạc nên hiểu như thế nào?
Ngài đáp:" Pháp Nhiên này tuy không phải là loại căn khí, có thể ra mắt Điện Hạ (Thiên Hoàng) nhưng do Điện Hạ triệu vào. Hai lần vào ra mắt không phải là do khả năng của tôi, mà do sức của Thiên Hoàng, huống gì là sức của Đức Phật A Di Đà!
Chuyện Ngài lai nghinh để tiếp dẫn người xưng Danh là Bổn Nguyện của Ngài, điều nầy thật dễ hiểu.
Những người tội chướng vô trí, không nên hoài nghi vãng sinh. Nếu mà nghi ngờ là hoàn toàn không biết gì về Phật Nguyện cả. Bổn Nguyện được phát ra là để cứu những người tội chướng vậy. Bởi thế hãy nỗ lực xưng Danh chớ nghi ngờ. Chỉ sợ không ưa cõi Cực Lạc, không tin Niệm Phật thì sẽ chướng ngại vãng sinh.
Vì vậy gọi là “Tha Lực Nguyện”, là “Siêu Thế Nguyện”".
Tổ Ngẫu Ích cũng nói: "Phải tin tưởng sâu xa rằng mười vạn ức cõi Phật thật sự chẳng ra ngoài một tâm niệm nhỏ nhoi của ta trong hiện tiền, bởi một niệm tâm tánh của chúng ta quả thật chẳng có gì ra ngoài nó được.
Hơn nữa, cậy vào Phật lực từ trong tâm tánh tiếp dẫn, khó gì mà chẳng sanh ngay sang cõi Cực Lạc. Giống như trong gương chiếu mấy chục tầng núi sông, lầu các, tầng nào tầng nấy rành rành, quả thật chẳng có gần hay xa, hễ vừa soi liền trọn đủ, chẳng thấy có trước hay sau. Hãy nên biết rằng từng chữ trong kinh A Di Đà đều là Hải Ấn tam muội, là kinh văn thiêng liêng giảng về Đại viên kính Trí [5]."
Nghĩa là tâm tịnh tức cõi Phật tịnh, cõi Tây Phương vốn ngay trước mặt, chỉ vì con mắt u mê chấp trước chẳng thấy được mà thôi. Vãng sinh Tây Phương vốn là trở về nhà cũ, đâu có khó gì?
Nghi vấn thứ 3: Tôi phàm phu tội chướng sâu nặng, làm sao đủ thiện căn phước đức sanh được về đó?
Bình thường ta hay nhầm lẫn phước đức với thiện căn. Như ta đang sống ở Việt Nam phải tiêu bằng tiền VND, sang Mỹ phải tiêu bằng USD. Cũng vậy phước đức thì ở thế gian dùng, còn muốn vãng sinh lại cần đến thiện căn.
Sao lại có sự khác biệt giữa thiện căn và phước đức như vậy?
Ngài pháp sư Tịnh Không nói rằng: “Đạo Phật không phải là tôn giáo, càng không phải là triết học, mà là sự giáo dục chân chính, là con đường sáng suốt đưa ta trở về bản tánh, tìm lại bộ mặt xưa nay của chính mình.”
Những việc ta làm trên con đường trở về bản tánh ấy tạo nên thiện căn, còn các việc tốt khác trong thế gian tạo ra phước đức.
Cần biết rằng: “Phước đức dễ biết, thiện căn khó thấy”.
Ta ít phước dễ nhân thấy bởi ta nghèo khó, vất vả mưu sinh, nhiều bệnh tật đâm ra tự ti. Còn thiện căn của ta, ta làm sao thấy hết được.
Ta lại thấy rất nhiều người giàu có nhưng không tin Phật pháp, cũng nên biết rằng họ có thể hơn ta phước đức nhưng thiện căn không bằng ta.
Đến đây xin lấy ví dụ rất cụ thể. Mọi người có để ý thấy sao các nước Tây Âu theo Thiên chúa giáo lại giàu có như vậy, mà các nước châu Á theo đạo Phật lại nghèo không? Có gì không ổn ở đây chăng? Hay đạo Phật lại có phần thua sút đạo Thiên chúa chăng?
Thật ra theo ý của tôi các nước Tây Âu theo đạo Thiên chúa tu chú trọng về phước đức, họ làm việc thiện cầu phước, nên có quả báo phước dồi dào để hưởng nên giàu có.
Còn đạo Phật lại khác, ta tu chú trọng phần thiện căn, tích luỹ thiện căn để giải thoát chứ không chú trọng nhiều về phước đức. Vì đạo Phật giác ngộ rằng thế gian vốn vô thường, đau khổ, ngũ dục vốn là nhân của ba đường ác [6] nên không ham hưởng thụ. Đó chính là sự khác nhau căn bản đạo Phật với các đạo khác. Nhận thức được như vậy, mong mọi người đừng nghi mình không được vãng sinh, cũng không nên thấy sự giàu có bên ngoài mà sinh tâm ham muốn mà tự hại chính mình.
Cần biết Đại nguyện thứ nhất trong 48 Đại nguyện của Phật A Di Đà là tiếp nhận tất cả chúng sinh chín cõi, từ Bồ tát Đẳng giác cho đến cõi địa ngục, không bỏ sót. Chúng sinh trong 3 đường ác không có hay rất ít phước, tuy nhiên nếu có đủ thiện căn gặp được pháp môn này tin nhận cũng được vãng sinh.
Trong truyện “Đường mây trên đất Hoa”, ngài Hư Vân kể có một con két biết nói, lúc trước cũng ăn thịt, sau được ngài khai thị, dạy Niệm Phật nó cũng bắt chước niệm Phật theo rồi từ đó không ăn thịt nữa. Một thời gian sau nó bị một con chim ưng bắt đi, nó vẫn liên tục niệm Phật, không kêu gì khác.
Theo ý của tôi, con két ấy chắc chắn vãng sinh. Từ đó có thể thấy dù là súc sinh ít phước, nhưng đủ thiện căn nên gặp được Thánh tăng, lại dạy cho nó pháp môn Niệm Phật vãng sinh. Thiện căn nó thậm chí còn lớn hơn nhiều chúng sinh ở cõi Trời Người.
Lại cần hiểu sâu hơn, thiện căn là gốc, phước đức là ngọn; gốc có thể sinh ngọn chứ ngọn chẳng thể sinh gốc. Thiện căn có thể gìn giữ và phát triển chứ phước đức thì không. Lại nữa, thiện căn có thể liễu thoát sinh tử, chứ đối với sinh tử phước đức chẳng thể cứu.
Như vậy mình có thể phước mỏng nghiệp dày nhưng thiện căn không nhỏ.
Tóm gọn lại, thiện căn của người tu Tịnh nghiệp chính là tin chắc Phật Di Đà tiếp dẫn tất cả chúng sinh chẳng bỏ sót một ai. Muốn biết mình có đầy đủ thiện căn, phước đức để vãng sinh hay không chỉ cần tự mình quán xét mình đã có niềm tin vào pháp môn Trì danh Niệm Phật này hay chưa? Vì có niềm tin chân thật mới có thể khởi nguyện tha thiết vãng sinh. Có khởi được nguyện thiết mới có thể hành trì liên tục không gián đoạn. Có thể hành trì liên tục không gián đoạn mới có thể nhập tâm hay nói cách khác là thâm nhập được vào Tạng bí mật của Như Lai, hưởng được hương vị giải thoát để chứng thực được niềm tin phát khởi ban đầu. Niềm tin ban đầu được chứng thực thì lời nguyện lại càng tha thiết, nguyện càng thiết thì hành trì càng miên mật, hành trì càng miên mật thì trí huệ phát sinh; trí huệ phát sinh thì có thể độ vô lượng chúng sinh cùng đồng sanh cõi Cực Lạc.
Hãy nên biết rằng nếu thiện căn chẳng sâu dày sẽ chẳng thể tin nhận pháp môn Niệm Phật này được. Con đường vãng sinh xin chớ nghi.
Nghi vấn thứ 4 : Dù tin có thể sanh về cõi đó, nhưng lại nghi phải tu pháp môn kỳ diệu gì, và nhiều công hạnh mới có thể được; làm sao chỉ có tín nguyện trì danh lại có thể vãng sinh?
Đại sư Ngẫu Ích, bậc thượng căn đại triệt đại ngộ bên Thiền tông, sau quay về hoằng dương Tịnh Độ có dạy: "Nguyên vì chư Phật nghĩ thương xót quần mê, tùy theo từng căn cơ mà lập cách hóa độ. Trở về nguồn thì chẳng hai, nhưng phương tiện có nhiều cửa. Trong hết thảy các phương tiện, cầu lấy một phương tiện thẳng chóng nhất, viên đốn nhất thì không gì bằng Niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Lại nữa, trong hết thảy các pháp môn Niệm Phật cầu lấy một pháp đơn giản nhất, dễ dàng nhất ổn thỏa nhất, thích đáng nhất thì không gì bằng "Tín, Nguyện, chuyên trì danh hiệu Phật"".
Thật ra, bản thân tôi ban đầu cũng nghĩ pháp môn Tịnh Độ đơn giản chỉ với 6 chữ hay 4 chữ Hồng danh làm sao có thể giải quyết nổi việc lớn Sinh tử đời người được, vì thế ban đầu tôi đọc sách Thiền là chính. Về sau được đọc Di Đà Yếu giải của Ngẫu Ích đại sư mới thấy pháp môn Niệm Phật này sâu thẳm không thể dò nổi. Di Đà Yếu giải của Ngẫu Ích đại sư giống như tòa lâu đài nguy nga, ngài xây nó trong vòng chín ngày mà một người bình thường tu tập cả đời chưa chắc đã lãnh ngộ hết được ý vị trong đó.
Nên biết một niệm tư duy của bậc đã chứng ngộ không có giới hạn. Chúng ta cần phải biết kiếp trước của Phật A Di Đà là Tỳ kheo Pháp Tạng cũng đã là bậc Pháp thân đại sĩ, thế mà còn phải mất 5 kiếp tư duy mới phát ra được 48 Đại nguyện độ sanh. Vậy còn có thể nói pháp môn Tịnh độ là nông cạn, đơn giản ư?
Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật. đức Từ Tôn dạy rằng:
"Chư Phật đã dùng Phật nhãn quán sát khắp mười phương, thấy rõ nghiệp lực chúng sanh lành dữ không đồng đều, thấy thân tướng và cảnh giới của chúng sanh xấu tốt có sai biệt. Nhưng điểm sanh khởi chẳng rời sát-na tâm sanh diệt, chỗ hội quy cũng không rời sát-na tâm sanh diệt. Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát-na tâm sanh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là pháp NIỆM PHẬT.
Diệu-Nguyệt cư sĩ, nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào, đủ lòng tin thì chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi, thì hiện tiền chiêu cảm được Y báo, và Chánh báo [7] của Phật A-Di-Đà ở cõi Cực-Lạc. Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, lập tức vào Phổ-đẳng Tam-muội của đức A-Di-Đà được Phật tiếp dẫn về Tịnh-độ Tây-phương. Vĩnh viễn xa lìa các đường ác, không còn luân hồi sanh tử. Đó gọi là quả vị Bất-thối-chuyển. Từ lúc ấy nhẫn nại về sau, vượt qua Thập-địa [8], chứng Vô-thượng-giác."
Hơn nữa:
Muốn vãng sanh Cực-Lạc chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ. Vì danh hiệu chính là biểu tướng của Pháp Thân cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp Thân Phật vậy. Và người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa. Vì ngay nơi danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật luôn luôn chứa đựng vô lượng vô biên công đức, vô lượng vô biên diệu dụng, vô lượng vô biên quang minh, tướng hảo, uy lực ... không thể nghĩ bàn".
Chính lời vàng từ kim khẩu của đức Thích ca nói ra như vậy, ai dám nói rằng
Danh hiệu Phật là ít công hạnh.
Nên biết rằng pháp môn Niệm Phật là Phật thừa. Vì sao? Vì chẳng còn dứt lìa đối đãi, phân biệt nên là Phật thừa. Tại sao nói chẳng còn phân biệt? Ví như ghế gỗ, ghế đá cho đến ngai vàng cũng chỉ là chiếc ghế. Vạn vật tánh Không nhưng chẳng phải rốt ráo Rỗng Không nên còn lại Danh tự. Vì chẳng còn phân biệt nên mọi vật đều quy về Danh tự.
Cũng do lẽ đó nên có thể nói tất cả công đức, phương tiện giáo hoá chúng sinh của mỗi vị Phật đều được nhiếp trọn trong Danh hiệu Phật.
Vậy nên kinh Địa tạng nói nếu có chúng sinh nào thoảng nghe danh hiệu một vị Phật mà còn có phước đức vô lượng trong trăm ngàn kiếp huống là tin tưởng Trì danh đó ư?
Do đó nên biết pháp môn Trì danh quả thật là pháp môn viên đốn [9] đến tột bậc, đơn giản, dễ dàng, ổn thoả thẳng chóng nhất vậy. Vì sao vậy? Vì Danh hiệu Phật dứt hết phân biệt nên chẳng thể nghĩ bàn, lìa mọi sự đo lường so sánh, vượt quá sự đo lường so sánh.
Vậy nên pháp môn Tín Nguyện Trì danh cũng gọi là pháp môn Chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật vậy.
Nghi vấn thứ 5: Dù tin pháp trì danh có thể vãng sinh, nhưng lại nghi rằng phải tu trì nhiều năm nhiều kiếp mới được thành tựu, làm sao chỉ niệm từ một đến bảy ngày mà được vãng sinh?
Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, tiền bối của Ngài Đại Pháp sư Tịnh Không, trong sách Chú giải Phật thuyết Vô Lượng Thọ Bình Đẳng Giác Kinh có viết: Pháp Trì danh đây lấy "Tâm này là Phật, Tâm này làm Phật" khởi tu, lấy Qủa giác vô thượng làm Nhân để phát tâm tu hành nên được thành tựu nhanh chóng. Mà nhận lấy "Tâm này là Phật, Tâm này làm Phật" khởi tu chính là pháp Thiền đốn ngộ trực chỉ Chân tâm của Lục tổ Huệ Năng. Vì thế nên nói pháp Thiền tự thân đã nằm trong pháp Trì danh Niệm Phật; cũng lại vì thế mà pháp Trì danh được các bậc Tổ sư ngợi ca là siêu viên, siêu đốn, chẳng thể nghĩ bàn; khó tin khó hiểu bậc nhất là vậy.
Trước hết, ta hãy xem xét vấn đề sau:
5.1 Niệm mười niệm dễ hay khó?
Ta bảo đứa trẻ lên ba nói mười câu “A Di Đà Phật” nó cũng nói được. Nhưng đến bây giờ tôi mới nghiệm ra niệm được mười niệm thật khó vô cùng, không gì khó hơn. Lên Trời còn dễ hơn rất nhiều!
Xin kể lại truyện xưa:
Xưa khi có ông cụ trong thời Phật tại thế đến tăng đoàn xin xuất gia nhằm lúc Phật đi vắng. Ngài Xá Lợi Phất tiếp ngài, quán xét thấy trong tám vạn kiếp ông cụ không trồng nổi một căn lành nào nên không đồng ý tiếp nhận (Ngài Xá Lợi Phất là đại đệ tử trí tuệ bậc nhất của đức Phật, đã đắc A la hán[10] có túc mạng thông biết rõ các kiếp trước của người khác trong vòng tám vạn kiếp). Ông cụ rất buồn, định đi ra thì gặp Phật về. Đức Phật liền tiếp nhận ngài vào tăng đoàn. Ngài Xá Lợi Phất thắc mắc một người không trồng nổi căn lành nào sao có thể xuất gia, tu hành đắc đạo được?
Phật nói: “A la hán các ông chỉ có thể quán trong tám vạn kiếp. Người này trước kia ngoài tám vạn kiếp từng là người thợ rừng. Một hôm, ông vào rừng gặp một con hổ lớn. Ông ta nhanh chân trèo lên một cái cây. Con hổ đuổi theo, quyết không tha con mồi, lấy móng sắc cào vào thân cây cho đổ. Ông ta sợ quá liền hét to: “Nam mô Phật”. Con hổ giật mình rồi bỏ đi. Ông ta thoát nạn nhưng từ đó đến nay cũng không trồng thêm được căn lành nào. Chỉ duy có nhân này khiến ông ta đời này gặp được ta và được xuất gia tu hành”.
Sau đó không lâu ngài đắc đạo thành bậc A la hán.
Vậy mà chúng ta trôi nổi luân hồi trong vòng sinh tử bao nhiêu kiếp rồi? Không thể tính nổi! Các con số tỷ tỷ, tỷ tỷ tỷ, tỷ tỷ tỷ tỷ,... đều có thể tính, số cát sông Hằng (ở Ấn Độ) có thể tính, duy số kiếp chúng sinh luân hồi không thể tính.
Nếu chỉ một lần trong hàng tỷ tỷ tỷ... kiếp trước ta niệm được một câu Nam mô Phật thì ta đã đắc đạo giải thoát rồi, đâu phải đến bây giờ vẫn trôi nổi thế này? Trong vô lượng kiếp trước chắc chắn nhiều lần ta cũng được sinh lên cõi Trời rồi. Vậy nên tôi mới nói niệm được mọt câu Nam mô A Di Đà Phật còn khó hơn lên Trời nữa.
Vậy niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật có dễ không?
Vậy sao bây giờ ta có thể niệm dễ dàng hàng ngàn hàng vạn câu như thế?
Tôi tin rằng ta đã tích luỹ thiện căn của rất nhiều kiếp trước nên đời này mới được gặp pháp môn Niệm Phật và tin nhận nó.
5.2. Sao lại có chuyện phát nguyện về cõi Tây phương, chí thành niệm mười niệm là có một hoa sen báu mang tên ta nở ra trong ao sen ở cõi Tây phương được?
Trả lời:
Phải biết rằng đại nguyện của Phật A Di Đà là tạo nên một cõi nước trong suốt như gương rộng lớn vô cùng tận chiếu sáng khắp mười phương pháp giới. Ta cứ mải mê quên mất chính mình. Nay chỉ cần quay đầu lại (tức quy y Tam bảo) soi lại chính mình trong gương tức thì bộ mặt thật mà bấy lâu ta quên mất hiện lên, thấy được bản tánh thật sự của mình, tìm lại được đường về nhà.
Cũng thế chỉ cần quy y Tam bảo, phát nguyện vãng sinh, chí thành niệm mười niệm tức thì sen báu mang tên ta nở ra đón ta về nhà. Đó gọi là cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn.
Bây giờ với công nghệ hiện đại, người ta còn tạo ra những điện thoại cảm ứng, hay những chiếc máy điều khiển bằng giọng nói, ý nghĩ; huống chi sức diệu xảo của Như Lai.
Nghi vấn thứ 6: Dù tin trong thời gian ngắn tu pháp Trì danh có thể vãng sinh, nhưng lại nghi kẻ sơ tâm vào đạo gặp nhiều chướng duyên phải thối lui, làm sao có thể chỉ sinh về cõi đó mà được Bất thối, quyết định thành Phật được?
Đề cập đến nghi vấn nầy, chúng ta nên biết tu các pháp môn khác chỉ hoàn toàn nương nơi tự lực, cho nên phải khó. Riêng đường lối Tịnh Độ có hai năng lực, là tự tâm lực và Phật tiếp dẫn lực, nên sự thành công rất dễ. Ví như một người chân yếu, muốn tự mình lên tận đỉnh núi cao là điều rất khó. Nhưng nếu kẻ ấy được một vị đại lực sĩ khoác cánh tay phăng phăng đưa bước tiến lên, thì kết quả đăng phong nào có khó chi! Về môn Tịnh Độ cũng thế, khi ta chuyên tâm niệm Phật tức là lúc tâm lực phát triển. Niệm đến một lòng không loạn là lúc tâm lực hoàn toàn hiện bày. Đang khi ấy nghiệp lực bị hàng phục không còn làm chướng ngại, lại được thêm Phật lực tiếp dẫn nên tuy nghiệp chưa trừ dứt, mà được vãng sanh. Khi sanh về Tây Phương rồi, sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ [11] kiếp, sự không thối chuyển cho đến khi thành Phật là một điều hiển nhiên dễ hiểu.
Nghi vấn thứ 7: Môn Tịnh độ là pháp cơ sở, chỉ để cho kẻ ngu dốt, căn trí thấp kém hành trì. Những người căn tính cao phải tu thiền hay duy thức mới hợp lý. Vả lại bậc trượng phu phải có chí hùng cường tự lập, nên căn cứ nơi mình mà giải thoát; nếu muốn cầu mong tha lực, chẳng tỏ ra hèn yếu lắm ư?
Với lời hỏi này, trước tiên xin nói về căn cơ, sau sẽ trả lời đến yếu tố tự lực tha lực.
Pháp môn Tịnh độ không phải chỉ để cho bậc trung hạ căn, mà còn thâu nhiếp cả bậc thượng thượng căn. Bậc trung, hạ căn niệm Phật sẽ dứt được phiền não nghiệp chướng, phát sinh phước đức trí huệ, lần lần đi đến định cảnh, tùy công phu thấp cao mà vãng sinh về chín phẩm sen nơi Cực Lạc. Bậc thượng căn vừa khởi câu niệm Phật, liền thâm nhập vào cảnh giới định huệ, đi đứng nằm ngồi đều trong niệm Phật tam muội [12], khi lâm chung sinh về thượng thượng phẩm liên bang. Trong hàng tiên đức đã có vị vào cảnh giới này, và trình thuật với câu:
Nắm lấy chuỗi tràng trần niệm dứt,
Nghiễm nhiên thành Phật đã từ lâu.
Cho nên, câu niệm Phật thâu nhiếp hết ba căn, với người cao nó thành cao, với người thấp nó thành thấp.
Trong kinh lại nói: “Chí thành xưng danh hiệu Phật A Di Đà, sẽ được tiêu tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử”. Người niệm Phật hằng giữ định tâm, tất sẽ phát huệ đồng như lối tu của các pháp môn khác. Hơn nữa, trên định tâm mà xưng danh hiệu Phật A Di Đà, thì tự tiêu nghiệp chướng, sinh phước huệ càng cao thắng chóng mau. Vì thế, Liên Trì Đại Sư đã khen pháp niệm Phật là: Đại thiền định, đại trí huệ, đại phước đức, đại thánh hiền. Theo Quán kinh: Người tạo tội ngũ nghịch thập ác [13] khi lâm chung tướng địa ngục hiện, nếu chí thành xưng danh hiệu Phật A Di Đà cho đến mười niệm, thì ngài liền hiện thân tiếp dẫn sinh về Cực Lạc. Từ một kẻ cực ác, chỉ dùng mười niệm mà được vãng sinh, lên ngay ngôi bất thoái chuyển thật là điều rất hy hữu. Ấn Quang Đại sư đã khen: “Pháp niệm Phật bậc cao niệm đến một lòng không loạn, chứng vào tam muội, kẻ cực thấp chỉ đúng mười niệm thành công, là điểm đặc sắc mà chưa pháp môn nào có”.
Về vấn đề tự tha lực, nếu như hiểu môn Tịnh độ chỉ hoàn toàn nương nơi tha lực là sai lầm lớn. Người niệm Phật phải đem hết sức tự lực nhằm tăng trưởng Tín Nguyện, dứt trừ nghi hối, trì niệm cho đến cảnh giới tâm mình và tâm Phật tương ưng. Từ cảnh giới đó hiện đời hành giả được Phật phóng quang tiếp dẫn vãng sinh. Sự tiếp dẫn mới là yếu tố chính của tha lực, vì thế giới Cực Lạc cách xa cõi Ta bà này đến mười muôn ức Phật độ, không phải sức thần thông đạo lực tầm thường có thể đến được, huống nữa là phàm phu! Vì thế cần phải nhờ tha lực tức thần lực của Phật hoặc chư thánh tiếp dẫn. Ví như một học sinh, tự mình biết gắng hết sức chuyên học, dĩ nhiên là điều đáng quý. Nếu trên sự học ấy, lại được vị giáo sư giỏi kèm theo chỉ dạy, tất mức học vấn càng cao thâm, kết quả thi đỗ sẽ là phần đảm bảo. Trên tự lực của hành giả, thêm tha lực của Phật gia trì tiếp dẫn cũng lại như thế. Vậy sự kiện chính mình đã gắng hết sức để tu, lại cầu thêm tha lực cho kết quả mau chóng có phải là một điều hèn yếu lỗi lầm chăng? Sự cao diệu của môn Tịnh độ chính các bậc đại Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, các vị Tổ sư như Vĩnh Minh, Trí Giả, Triệt Ngộ, Liên Trì, cho đến nhiều đấng tôn túc ở các tông, đều khuyến nguyện vãng sinh. Chê niệm Phật là thấp kém chỉ để cho bậc hạ căn tu hành tức là chê chư Bồ Tát, Tổ sư và các vị cao đức đã nói trên. Bảo niệm Phật là hèn yếu, chỉ nương nơi tha lực, tức là chưa hiểu biết về môn Tịnh độ.
Có câu chuyện đệ tử Nhất Hiền Chân hỏi ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân: Thưa Thầy! Để mau chóng lìa khỏi sinh tử, thì Chân Ngôn (Mật Tông), Chỉ Quán (Thiên Thai), Hoa Nghiêm, Phật Tâm (Thiền Tông) phải thâm diệu hơn Tịnh Độ chứ?
Ngài đáp: Pháp môn thì vô lượng nhưng luận về chỗ cấp yếu, thì tối thượng là Tịnh Độ. Các giáo pháp tuy nhiều nhưng xét đến chỗ cương yếu, thì Tha Lực Đốn Giáo thù thắng hơn cả. Vì dễ tu mà công cao, dễ hành mà lý thâm. Bởi thế Tổ Huệ Viễn nói rằng: “Các môn Tam Muội tuy nhiều nhưng công cao mà dễ tu thì Niệm Phật là hơn cả”.nguoiphattu.com
Ngài Nguyên Chiếu nói rằng: “Niệm Phật Tam Muội là pháp để hạng phàm phu lè tè sát đất trong sát na [14] siêu việt thành Phật. Cho thấy rằng Tịnh Độ Giáo Pháp, Niệm Phật Tam Muội là Đại Thừa, Chí Cực, Tốc Tật, Giải Thoát”.
Trong Di Đà Yếu giải, Ngẫu ích đại sư cũng nói:
"Bậc thượng căn chẳng thể vượt ngoài cửa ải này, mà kẻ hạ hạ căn cũng có thể đạt cảnh giới ấy, do công phu tu tập của mỗi người mà đỗi với mỗi tầng công phu cảm được đức Phật Di Đà và cõi Tây Phương càng thù thắng hơn, cũng chẳng phải nhất loạt giống nhau".
Nghi vấn thứ 8: Dù tin pháp Trì danh nhiếp thọ mọi căn cơ từ thượng trí tới hạ ngu, nhưng Tịnh độ lấy lâm chung làm kỳ hạn, như vậy làm sao biết chắc mình có được vãng sinh hay không? Nếu chẳng được vãng sinh thì chẳng phải uổng một đời tu không? Trong khi các pháp môn khác nếu dốc sức tu hành đều có thể trong đời hiện tại nhận biết được?
Trong Pháp Bảo Đàn kinh, Lục Tổ Huệ Năng có nói: Một niệm giác là Phật, một niệm mê là chúng sinh. Thật ra nếu dũng mãnh tu Tịnh độ, quyết định vãng sinh thì ta hoàn toàn có thể xoay chiếu lại bản tâm để biết mình đã chắn chắn vãng sinh hay chưa. Nếu tự mình vượt qua tất cả mối nghi, thì khi ấy Tín tâm đã qua trải nghiệm, thử thách, vững chắc như vàng đã đúc thành khối thì sự vãng sinh đã chắc chắn ngay lúc này.
Cho nên khi xưa ông Vương Trọng Hồi hỏi một vị thiện trí thức: "Làm sao quyết chắc được sanh về Cực Lạc?" Vị ấy đáp: "Chỉ tin nhận sâu, là chắc chắn được vãng sanh." Ông ghi nhận và ngộ giải lời nói ấy, quả nhiên về sau được toại thành như ý nguyện.
Trong Ẩn tu ngẫu vịnh của thầy Thích Thiền Tâm cũng có nêu cảm nhận:
Ẩn tu thời mạt nhớ Kinh ghi
Học đạo muôn ngàn ít ngộ kỳ
Duy niệm Hồng-danh cầu Tịnh-độ
Hiện đời giải thoát rất ly-kỳ.
Vậy thì đâu phải chỉ lúc lâm chung mới biết mình có được vãng sinh hay không?
Điểm căn yếu của pháp môn Niệm Phật là: Tín, Nguyện, Hạnh. Ba điều này tương quan với nhau như cái kiềng có ba chân, thiếu một tất phải sụp đổ. Trong đây Tín lại là nền tảng, nếu thiếu nhu yếu này, thì không thể khởi sanh Nguyện và phát động Hạnh tu trì cho thiết thật. Riêng về điểm Tín, đại khái có ba điều: Trước tiên, phải tin lời đức Thế Tôn nói, nhận chắc cõi Cực Lạc từ nhân vật đến cảnh giới đều có thật. Kế đó, phải tin đức A Di Đà không có lời nguyện dối, chúng sanh dù nghiệp nặng, nếu niệm đến danh hiệu Ngài, quyết định sẽ được tiếp dẫn vãng sanh. Thứ ba, phải tin ta niệm Phật, nguyện về cõi Phật, quyết sẽ được thấy Phật được vãng sanh, nhân nào quả ấy không thể sai lạc. Ba điều này chỉ là khái yếu, nếu suy diễn ra rộng, trong ấy gồm có sáu phần: tin mình, tin Phật, tin nhân, tin quả, tin sự, tin lý. Điều thứ nhất bao gồm tin lời Phật và tin sự, lý Tịnh Độ đều có thật. Điều thứ hai bao gồm tin đại nguyện của Phật A Di Đà và tha lực tiếp dẫn của Ngài. Điều thứ ba bao gồm tin tất cả chúng sinh đều sẵn có Phật tánh, đều là Phật sẽ thành, lấy tín tâm đó mà niệm Phật cùng với nguyện lực mình, và nhân cùng quả của công hạnh niệm Phật. Nhận chắc ba điều vừa nói, mới gọi là tin sâu. Lại tin sâu không phải thuộc lời nói bên ngoài hay ý nghĩa phân biệt mà là sự thể nhận, là tâm trong sạch không còn một điểm nghi ngờ.
Ngay đó hoa sen trong ao báu cõi Tây Phương đã ghi danh chờ sẵn rồi, chẳng chút mảy may sai lầm.
Nghi vấn thứ 9: Kinh Kim Cang nói: "Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bóng, bọt". Thế thì cảnh Ta Bà đã huyễn, mà cõi Cực Lạc cũng là huyễn. Sao không đi ngay vào bản tâm chân thật, còn cầu về cảnh huyễn làm chi?
Trong kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục tổ bảo: “Người Phương Đông tạo tội, niệm Phật cầu sinh Tây Phương, Người Tây Phương tạo tội, niệm Phật cầu sinh về cõi nào?Như thế thì chỉ cốt làm sao diệt được tội, cần gì niệm Phật cầu vãng sinh?
Trong quyển Niệm Phật thập yếu, thầy Thích Thiền Tâm có viết: "Thật ra các cõi Uế Độ và Tịnh Độ trong mười phương đều dường mộng huyễn; nhưng khi nào chứng được Như Huyễn Tam Muội, mới thấy đó là hư giả. Bằng chưa được như thế, vẫn thấy nó là thật, vẫn bị nó chi phối, vẫn còn biết khổ vui, vào mùa nắng vẫn khó chịu về sự nóng bức, cho đến việc rất nhỏ như con kiến, con muỗi cắn đốt cũng vẫn còn bị đớn đau. Như vậy sao được gọi là Huyễn? Nên biết môn Tịnh Độ là phương tiện nhiệm mầu của Phật, mượn cảnh như huyễn an vui, để đưa chúng sanh thoát khỏi cảnh như huyễn thống khổ dẫy đầy chướng duyên và hiểm nạn. Rồi từ cảnh an vui như huyễn đó tiến tu dễ dàng, để mau chứng vào cõi chân tâm thường tịch.
Lấy một thí dụ như tại cõi Ta Bà này, cảnh gia đình hay nơi thị tứ ồn ào là huyễn, cảnh chùa am hoặc chốn núi non vắng vẻ cũng là huyễn. Nhưng tại sao người tu giải thoát, lại bỏ cảnh gia đình thị tứ tìm nơi chùa am thanh vắng ở núi non? Có phải tại chốn gia đình nhiều bận buộc, cảnh huyên náo khó nhiếp tâm, mà nơi chùa am hay chỗ núi non thanh vắng dễ tu chăng? Cho nên cảnh phàm tình cùng cảnh thánh chứng khác nhau, phàm tình mà đặt mình vào cảnh thánh chứng là điều xa vời trái với thật tế. Ta còn phàm phu hãy cứ theo phận phàm phu mà tuần tự tiến tu, đừng vội đem con mắt thánh nhìn nói quá cao xa, thành ra vọng ngữ và có hại.
Khi xưa cũng có một Thiền giả cho cõi Cực Lạc là huyễn mộng, niệm Phật cầu vãng sanh vô ích. Triệt Ngộ đại sư nghe lời này, liền bảo: "Không phải thế đâu! Từ bậc Thất Địa Bồ Tát trở về trước, đều tu hành ở trong mộng. Đến như đối với mộng lớn vô minh, thì bậc Đẳng Giác vẫn còn say ngủ. Duy riêng chư Phật mới có thể tôn xưng Đại Giác, là những bậc hoàn toàn thức tỉnh mà thôi. Khi tự thân đã ở trong mộng, thì sự vui khổ vẫn uyển nhiên, vui cũng thấy vui, khổ còn biết khổ, sao được gọi mình là người tỉnh mơ, cảnh là huyễn mộng? Thế thì thay vì ở trong cảnh mộng khổ của Ta Bà, sao bằng về cảnh mộng vui nơi Cực Lạc! Huống chi mộng ở Ta Bà là từ mộng vào mộng, bị cảnh duyên nghiệp lực lôi cuốn, mãi luân hồi sống chết chìm mê. Còn cảnh mộng ở Cực Lạc là từ mộng đến giác, lần lượt sẽ thức tỉnh hoàn toàn chứng lên quả Phật. Cho nên mộng huyễn vẫn đồng, mà duyên cảnh mộng ở hai nơi thật chẳng đồng vậy. Thế thì sự niệm Phật cầu vãng sanh chẳng là cần thiết lắm ư!""
Đức Lục Tổ và các vị cao đức bên Thiền tông đứng trên cương vị truyền bá tông chỉ duy tâm, nên mỗi lời nói phải căn cứ theo chỗ lập pháp của mình, đều chỉ ngay vào bản tính, và đều lấy tâm làm chủ. Ý Ngài muốn bảo: Nếu tâm được thanh tịnh, thì tuy ở Ta bà cũng được tự tại giải thoát, tâm không thanh tịnh dù ở Tây Phương vẫn bị khổ não luân hồi. Thật ra người tu Tịnh độ hiểu đạo lý, lời nói của Tổ chỉ có tác dụng khuyến tấn, bảo phải niệm Phật đến chỗ tịnh tâm không còn chấp chướng, chớ không phải bác niệm Phật cầu vãng sinh. Đức Thế Tôn, chư Phật khắp mười phương, chư đại Bồ tát và chư Tổ sư đều khuyên niệm Phật vãng sinh Tây Phương. Hai vị Tổ bên Thiền tông ở Thiên Trúc là Mã Minh, Long Thọ đã chứng sơ hoan hỷ địa, vãng sinh về Cực Lạc. Nếu đức Lục Tổ có ý bài bác sự niệm Phật, thì chẳng hóa ra bài bác Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Chư Bồ tát, các vị Tổ sư và cả hai vị tiền bối trong tâm của mình là Mã Minh, Long Thọ hay sao? Cho nên nếu hiểu lầm rồi đem lời này chê bai niệm Phật chính là bài xích và gieo mối oan cho đức Lục Tổ vậy.
Lại hành môn nào cũng có lý và sự. Lời của đức Lục Tổ là nói về lý, ngoài ra còn có sự tướng của đường tu, cần phải nghĩ đến. Ta thử đặt câu hỏi “Người ở ngoài đời tạo tội, vào chùa am xuống tóc ăn chay giữ giới, tìm nơi thanh vắng tu hành. Người ở chùa am mà tạo tội tìm nơi nào để tu?” Nếu chỉ y theo lý mà bác sự như vậy, thì việc xuất gia đến chùa am, phải ăn chay giữ giới cho đến tụng kinh, niệm Phật, trì chú, tham thiền đều là lỗi lầm hết sao? Pháp tu Tịnh độ cũng thế, thật ra chẳng phải người ở Đông Phương do tạo tội mới niệm Phật cầu sinh Tây Phương, mà niệm Phật cầu về Tây Phương chính là muốn mượn cảnh thắng duyên tu hành, để mau chứng lên quả vô sinh giải thoát. Dù người đã tạo nhiều tội, biết hồi tâm sám hối niệm Phật cầu vãng sinh, cũng là vì muốn sớm thoát sinh tử, vẫn không ngoài mục đích này. Còn người ở Tây Phương Cực Lạc cũng không tạo tội, bởi khi đã về cõi ấy, trên có Phật Bồ tát, dưới có các bậc thượng thiện nhân, xung quanh mình tiếng chim nói pháp, tiếng nhạc giỏi kinh, không còn nhọc lòng lo đến vấn đề ăn mặc ở và các sự đau bệnh tai nạn oán thù, đường đạo chỉ thêm tiến lên, đâu còn có duyên gì để tạo tội.
Kết lại, câu nói của đức Lục Tổ nên hiểu chỉ lời khai thị về lý tính thanh tịnh để khuyến tấn mà thôi không nên nghĩ lầm đem nó để bác sự tướng. Người niệm Phật nghe lời này, càng nên cố gắng niệm cho đến trình độ tâm "Không dính mắc" mới hợp với ý của Tổ.
Chú thích chương I.
[1]: Kiếp có 3 hạng:
1. Tiểu kiếp: là 16 triệu năm (16.000.000 năm).
2. Trung kiếp: bằng 20 tiểu kiếp, là 3 trăm hai chục triệu năm (320.000.000 năm).
3. Đại kiếp: bằng 4 trung kiếp, là một nghìn 2 trăm 80 triệu năm.
[2]: Số ức, dịch từ chữ "Na do tha" có ba hạng:
1. Một ức bằng 10,000. 2. Một ức bằng 100,000. 3. Một ức bằng 1,000,000.
Na Do Tha, tiếng Phạm Nayuta.
[3]: Hay còn gọi là cụ phược phàm phu: Phiền não nó trói người đời, đem buộc trong lao ngục sinh tử, gọi là phược; người mà đủ có phiền não, gọi là cụ phược, tức là tất cả phàm phu. Kinh Anh Lạc chép: "Chúng cụ phược phàm phu chưa biết ngôi Tam bảo". Tức như hiện nay những người mà không biết Phật, Pháp, Tăng, cứ mê sa trong vũng bùn ngũ dục chính là cụ phược phàm phu vậy.
[4]: Nói đủ là Bất thối chuyển, phiên âm tiếng Phạn là A bệ bạt trí; là một địa vị tu tập đi thẳng đến địa vị Phật, chẳng còn bị lui sụt xuống phàm phu hay Nhị thừa..nguoiphattu.com
[5]: Trí gương tròn lớn. Chỉ cho trí tuệ của Phật. Trí Phật biết hết thảy các pháp một cách như thực, giống như tấm gương tròn lớn có khả năng ánh hiện tất cả hình tượng. Mật giáo gọi là trí Kim cương. Theo tông Duy thức, sau khi thành Phật, phiền não chuyển thành trí tuệ được chia làm bốn loại, loại thứ 4 (tức là thức A lại da) chuyển biến thành trí thanh tịnh, đó là trí Đại viên kính. Mật giáo đem Pháp giới thể tính trí thêm vào bốn trí của Duy thức thành năm trí.
[6]: là ba con đường: Địa ngục, ngã quỷ, súc sinh.
[7]: "Y báo chánh báo". Y: là y báo, tức là tất cả sự vật gia quốc giữa thế gian, gọi là y báo vì là: cảnh (sở y) của thân tâm. Chánh báo: tức là (thân ngũ ấm) vì do nơi sức tạo nghiệp của đời trước mà cảm chịu lấy cái thân tâm đời nay nên gọi chánh báo. Đã có cái thân năng y, tất có cái cõi sở y nên với quốc độ cũng là nghĩa quả báo. Phẩm Hạnh Nguyện lời Sớ Sao nói: "Y là quốc độ sở y của phàm thánh, như thân của người, trời, tại gia nam, tại gia nữ, ngoại đạo, chư thần quỉ, Bồ Tát và Phật. Đều có y báo và chánh báo cả, nhưng mỗi mỗi đều khác nhau; y là "cảnh", chánh là "tâm". Song tâm Phật và cảnh của Phật thì khác hẳn không phải như tâm và cảnh của Bồ Tát; tâm và cảnh của Bồ Tát khác hẳn không phải như tâm và cảnh của chúng sanh v.v...
[8]: tính từ quả vị thứ 41 đến 50 trong 52 quả vị (gồm Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác) tu hành của vị Bồ Tát. Thập Địa là 10 quả vị được thuyết trong Phẩm Thập Địa của Kinh Hoa Nghiêm, gồm có Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa, Diệm Huệ Địa, Cực Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện Huệ Địa và Pháp Vân Địa, và được gọi là Hoa Nghiêm Thập Địa.
[9]: "Viên Đốn Giáo": Viên nghĩa là viên dung, viên mãn; Đốn nghĩa là đốn cực, cực nhanh, lập tức. Các pháp vốn viên dung nên một pháp cũng viên dung tất cả pháp. Dùng nghĩa rằng: chỉ một niệm mở tỏ tự tánh, hoàn toàn quả Phật bằng cách lập tức, gọi là Viên Đốn giáo, là Thật giáo chí cực của Đại Thừa. Đời Hậu Ngụy, ngài Quang Thống Luật Sư đề xướng lập ra cái danh Viên Đốn giáo.
[10]: A la hán: âm dịch là Ứng Cúng, Phước Điền, Sát Tặc, Vô Học, là người đã đoạn tận hết tất cả phiền não, đã hoàn thành tất cả những việc mình nên làm. Là một vị thánh giả tối cao của đệ tử Phật (Thanh Văn), vị này chứng quả A La Hán thứ 8 của tứ hướng và tứ quả (quả vị được phân loại thành 8 giai đoạn theo cảnh giới mà vị ấy đạt được). Bên cạnh đó đây còn là một trong mười danh hiệu của một đấng Như Lai. Cho nên A La Hán còn được dùng chỉ cho tự thân của đức Phật, trong trường hợp này từ ứng cúng được dùng nhiều hơn. Nguyên gốc của từ này có nghĩa là “người có tư cách”, vì vậy người này xứng đáng để thọ nhận sự cúng dường về y thực, v.v., của hàng tín đồ. Cho nên được gọi là ứng cúng. Hơn nữa, nhờ có sự cúng dường của hàng tín đồ mà có công đức to lớn, người này được ví dụ như là mảnh ruộng ban phước cho tín đồ, nên được gọi là phước điền. Lại nữa, người này đã giết hết loại giặc phiền não nên cũng được gọi là sát tặc. Vị này đã đoạn sạch hết tất cả phiền não không còn gì để học nữa nên được gọi là vô học. Trong quyển I của Kinh Tạp A Hàm giải thích người đã chứng quả A La Hán là “Ngã sanh dĩ tận, phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ tác, tự tri bất thọ hậu hữu ( nghĩa là: mạng sống của ta đã hết, phạm hạnh đã thành lập, những điều nên làm đã làm, tự biết không còn thọ sanh về sau nữa),” và gọi người ấy là người đã đạt được tận trí, vô sanh trí. Sau này trong A Tỳ Đạt Ma, tùy theo trí tuệ và căn cơ của vị A La Hán, người ta phân ra làm sáu loại gồm: Thối Pháp, Tư Pháp, Hộ Pháp, An Trú Pháp, Kham Đạt Pháp và Bất Động Pháp.
[11]: A tăng kỳ: còn gọi là Vô lượng, vô số kể ; có 47 con số “không” theo sau số “một” làm thành một A Tăng Kỳ.
Cũng gọi Tam đại a tăng kì kiếp, Tam kiếp a tăng xí da, Tam a tăng kì, Tam kì, Tam vô số đại kiếp, Tam vô số kiếp, Tam kiếp. Ba kiếp a tăng kì, tức là khoảng thời gian mà vị Bồ tát phải trải qua kể từ khi phát tâm tu hành đến khi đạt thành quả Phật viên mãn. A tăng kì (Phạm: Asaôkhya) nghĩa là vô lượng số; Kiếp là đơn vị thời gian rất lâu xa, có đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp khác nhau. Trong 3 kiếp a tăng kì, đức Thích ca đã được gặp vô số Phật. Theo luận Đại tì bà sa quyển 178, trong kiếp thứ nhất, Ngài phụng sự 7 vạn 5 nghìn đức Phật; trong kiếp thứ 2, Ngài phụng sự 7 vạn 6 nghìn đức Phật và trong kiếp thứ 3, Ngài phụng sự 7 vạn 7 nghìn đức Phật. Về việc phối hợp 3 kiếp với các giai vị tu hành,trong kinh luận có nhiều thuyết khác nhau. Trong Tứ giáo nghĩa quyển 4, Đại sư Trí khải tông Thiên thai, phối hợp 3 kiếp với các giai vị của Thanh văn như sau:1. Kiếp a tăng kì thứ nhất: Phối với vị Ngoại phàm, tức chứng được các giai vị Biệt tướng niệm xứ và Tổng tướng niệm xứ trong Ngũ đình tâm. 2. Kiếp a tăng kì thứ hai: Phối với Noãn vị của Nội phàm, tức giai vị dùng trí tuệ của pháp Noãn tu tập 6 độ. 3. Kiếp a tăng kì thứ ba: Phối với Đính vị, tức giai vị siêng tu 6 độ, quán xét và hiểu rõ Tứ đế.Theo thuyết của Nhiếp đại thừa luận bản quyển hạ thì: 1. Kiếp a tăng kì thứ nhất: Phối với các giai vị Bồ tát Địa tiền, tức 40 giai vị: Thập tín, Thập trụ, Thập hành, Thập hồi hướng. 2. Kiếp a tăng kì thứ hai: Phối với các giai vị từ Sơ địa đến Thất địa. 3. Kiếp a tăng kì thứ ba: Phối với các giai vị từ Bát địa đến Thập địa.
Phẩm Tu tam thập nhị tướng nghiệp trong kinh Ưu bà tắc giới quyển 1 (Đại 24, 1039 thượng) ghi: Đại Bồ tát tu xong nghiệp này rồi thì gọi là Mãn tam a tăng kì kiếp, sẽ lần lượt được Vô thượng chính đẳng chánh giác. Thiện nam tử! Thủa xưa, ở nơi đức Phật Bảo đính ta đã đầy đủ kiếp a tăng kì thứ nhất;nơi đức Phật Nhiên đăng ta đã đầy đủ kiếp a tăng kì thứ hai và ở nơi đức Phật Ca diếp ta đã đầy đủ kiếp a tăng kì thứ ba. [X. luận Đại trí độ Q.4; luận Du già sư địa Q.48; luận Câu xá Q.18; Thiên thai tứ giáo nghi tập chú Q.trung; Hoa nghiêm ngũ giáo chương Q.2, 3; Câu xá luận quang kí Q.18].
[12]: Theo Đại Sư Huệ Viễn trong Liên Tông Thập Tam Tổ, niệm Phật Tam Muội là nhớ chuyên và tưởng lặng.
1) Nhớ Chuyên: Tâm trí lúc nào cũng chuyên nghĩ nhớ đến Đức Phật A Di Đà, chớ không bị chia chẻ nhiều lối, do đó mà được vào trong cảnh “chí một, tâm đồng.”
a) Chí một: Đây là tâm chỉ có duy nhất một chí quyết, ấy là “cầu vãng sanh Cực Lạc.”
b) Tâm Đồng: Tâm giống y hệt như tâm của chư Phật, tức là tâm hoàn toàn lặng lẽ, thanh tịnh.
2) Tưởng Lặng: Tất cả các tư tưởng phù phiếm của chúng sanh đều bị lặng chìm hết cả. Làm được như vậy là được vào trong cảnh “khí thanh, thần sáng.” Hai điều nầy tự nhiên thầm hợp, nương về mà phát sanh ra diệu dụng.
a) Khí Thanh: Khi khí thanh thì trí huệ phát sanh. Trí nầy có khả năng soi ngộ đến tất cả các đạo lý nhiệm mầu.
b) Thần Sáng: Thần sáng có nghĩa là tinh thần chiếu suốt các nơi tăm tối, không chỗ tối tăm nào mà chẳng được soi tới.
[13]: Tội ngũ nghịch: Chỉ cho 5 cái tội cực ác trái với đạo lí. Cứ theo thuyết của Tiểu thừa thì 5 tội nghịch là: 1. Hại mẹ, cũng gọi giết mẹ. 2. Hại cha, cũng gọi giết cha. 3. Hại A la hán, cũng gọi giết A la hán. 4. Ác tâm làm thân Phật ra máu, cũng gọi làm thân Phật ra máu. 5. Phá tăng, cũng gọi Phá hòa hợp tăng, Đấu loạn chúng tăng. Trong 5 tội trên đây, 2 tội trước là bỏ ruộng ân nghĩa, 3 tội sau là hủy hoại ruộng đức, vì thế gọi là Năm tội nghịch, Năm tội nặng. Vì hành vi của 5 tội là nguyên nhân làm cho người vi phạm phải rơi vào địa ngục Vô gián nên cũng gọi là Năm nghiệp Vô gián, gọi tắt là Năm vô gián hoặc 5 tội không cứu được. Ba tội trước là tội cố ý giết hại cha, mẹ và A la hán. Còn tội Phá hòa hợp tăng thì chia làm 2: a) Phá yết ma tăng: Li khai giáo đoàn mà mình vốn là 1 thành viên để thành lập giáo đoàn mới thực hành các việc bố tát, yết ma riêng rẽ. b) Phá pháp luân tăng: Tôn thờ thầy khác, lập học thuyết khác, tổ chức giáo đoàn riêng.
Tội thập ác: còn gọi là Thập Ác Nghiệp Đạo, Thập Bất Thiện Nghiệp Đạo, Thập Bất Thiện Căn Bổn Nghiệp Đạo, Thập Hắc Nghiệp Đạo; là 10 hành vi ác, không tốt của ba nghiệp thân, miệng và ý; gồm:
(1) Sát sanh;
(2) Trộm cắp;
(3) Tà dâm;
(4) Nói dối;
(5) Nói hai lưỡi, tức nói lời ly gián;
(6) Nói thô ác, tức mắng nhiếc thậm tệ, nói lời ác độc;
(7) Nói lời thêu dệt;
(8) Tham dục;
(9) Sân si;
(10) Tà kiến.
Tu tập Thập Thiện Nghiệp để chuyển hóa 10 nghiệp ác kể trên. Theo Tân Hoa Nghiêm Kinh quyển 35, Phẩm Thập Địa, có nêu lên quả báo của 10 nghiệp ác như sau:
(1) Quả báo sát sanh, ở trong loài người thì bị đoản mạng, nhiều bệnh.
(2) Quả báo trộm cắp, ở trong loài người thường bị bần cùng, tài của không có.
(3) Quả báo tà dâm, ở trong loài người thường bị vợ không trinh tiết, không có quyến thuộc tùy ý.
(4) Quả báo nói dối, ở trong loài người thường bị mọi người phỉ báng, khinh khi.
(5) Quả báo nói lời hai lưỡi, ở trong loài người thường bị quyến thuộc xa lìa, thân tộc tệ ác.
(6) Quả báo nói lời thô ác, ở trong loài người thường nghe tiếng ác, nói lên thường bị tranh cãi, kiện tụng.
(7) Quả báo nói lời thêu dệt, ở trong loài người thường nói ra không ai tin, nói không rõ ràng.
(8) Quả báo tham dục, ở trong loài người thường tâm không biết đủ, tham nhiều không bỏ.
(9) Quả báo sân si, ở trong loài người thường bị người khác gây tổn hại.
(10) Quả báo tà kiến, ở trong loài người thường sanh vào nhà tà kiến, tâm khúc mắc, không ngay thẳng.
[14]: âm dịch là xoa nô, ý dịch là niệm, niệm khoảnh (khoảnh khắc của niệm). Ở Ấn Độ, nó được dùng như là đơn vị biểu thị thời gian ngắn nhất. Thông thường người ta cho rằng đối với một người có sức mạnh thì trong một khoảng khảy móng tay đã trải qua 65 sát na. Theo Câu Xá Luận, 120 sát na là 1 Đát Sát Na, 60 Đát Sát Na là 1 Lạp Phược, 30 Lạp Phược là 1 Mâu Hô Lật Na, 30 Mâu Hô Lật Na là một ngày đêm. Theo đó, ta thấy rằng 1 Sát Na là 1/75 giây, thể hiện thời gian rất ngắn đến nỗi không thể có cảm giác biết được.
CHƯƠNG II: TỊNH ĐỘ THẬP NGHI LUẬN
Ngài Trí Giả đại sư, hậu thân Phật Thích Ca, là tổ tông Thiên Thai bên Trung Hoa, đã trước tác tác phẩm "Tịnh Độ thập nghi luận" giải quyết nghi vấn của người thời bấy giờ đối với pháp môn Tịnh độ sâu mầu, để tỏ rõ chí nguyện độ sanh của chư Phật đối với tất cả chúng sinh.
Nghi vấn 10: Chư Phật Bồ Tát lấy đại bi làm sự nghiệp. Vậy người đã phát tâm Bồ Đề, nếu muốn cứu độ chúng sanh, chỉ nên nguyện sanh trong ba cõi, ở nơi đời ngũ trược, vào ba đường ác mà cứu khổ cho các hữu tình. Tại sao chúng ta đã học theo Phật, lại xa rời chúng sanh, tự sống riêng một cuộc đời yên ổn? Đó có phải là thiếu lòng từ bi, chuyên lo tự lợi và trái với đạo Bồ Đề chăng?
Lạm bàn: Xin được nhắc lại vể việc phát Bồ Đề tâm!
Thế nào là phát Bồ Đề tâm? Bồ Đề là phiên âm tiếng Phạn, ta dịch là giác ngộ. Như vậy chúng ta phát Bồ Đề tâm là phát tâm giác ngộ, mà giác ngộ cái gì?
Giác ngộ có hai bậc: Tiểu giác ngộ và Đại giác ngộ.
Tiểu giác ngộ là giác ngộ thế gian này là Khổ, Không, Vô thường Vô ngã.
Đại giác ngộ là giác ngộ tất cả chúng sinh đều sẵn có Phật tánh, tất cả chúng sinh bốn loại sáu đường [1] đều là con của Phật, đều là Phật sẽ thành. Tất cả chúng sinh vốn sẵn có Phật tánh nhưng chẳng thể tự thấy biết, phải nhờ vào lực tiếp dẫn hộ niệm [2] của chư Phật thì Phật tánh mới được hiển lộ. Lực tiếp dẫn này bình đẳng khắp cửu giới chúng sinh, trên là Đẳng giác Bồ tát, dưới là chúng sinh ngũ nghịch thập ác ở Vô gián địa ngục, chỉ cần phát khởi Tín Nguyện đều được lực tiếp dẫn này nhiếp thọ về thế giới Tây Phương Cực Lạc, một đời thành Phật.
Nhưng muốn phát khởi được Đại giác ngộ này cũng cần phải nhờ đến Tiểu giác ngộ. Cũng như muốn học Đại học phải học Tiểu học trước tiên.
Phải do phát khởi Tiểu giác ngộ, quán Tứ niệm xứ [3] mới tin nhận được tất cả lời Phật dạy mà phát khởi Đại giác ngộ. Phải biết rời bỏ thế gian, chán lìa sinh tử, mới hay ta có thể dự phần trong Hải hội Bồ tát cõi Cực Lạc, nhận ra Chân tâm Phật tánh bị lãng quên vô thỉ kiếp.
Pháp Thiền đốn ngộ bên Trung Hoa phác họa pháp thiền qua 10 bức tranh chăn trâu, theo thứ tự từ thấp đến cao như sau:
1: Tầm ngưu (Tìm trâu). 2: Kiến tích (Thấy dấu). 3: Kiến ngưu (Thấy trâu). 4: Đắc ngưu (Được trâu). 5: Mục ngưu (Chăn trâu). 6: Kỵ ngưu qui gia (Cỡi trâu về nhà). 7: Vong ngưu tồn nhân (Quên trâu còn người). 8: Nhân ngưu câu vong (Người trâu đều quên), với bức tranh vòng tròn. 9: Phản bổn hoàn nguyên (Trở về nguồn cội). 10: Nhập triền thùy thủ (Thõng tay vào chợ).
Sau khi trở về nguồn cội mới tự tại vào chốn uế độ chẳng dính mắc. Cùng một ý nghĩa với người tu Tịnh độ cầu vãng sinh, sau đó quay về Ta bà độ hết thảy người thân kẻ oán. Đâu phải là thiếu lòng từ đâu?
Vậy nên Trí giả đại sư dạy:
Bồ Tát có hai hạng. Thứ nhất, bậc tu Bồ Tát Đạo đã lâu, chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn [4]. Với những vị nầy, đem lời đó trách thì đúng. Thứ nhì, bậc chưa chứng Vô Sanh và hàng phàm phu mới phát tâm Bồ Tát. Những vị sau nầy cần phải thường không rời Phật, mới thành tựu được nhẫn lực và có thể ở trong ba cõi, vào nơi đời ác để cứu độ chúng sanh. Cho nên Luận Trí Độ nói: 'Hạng phàm phu còn đủ mọi sự ràng buộc, dù có lòng đại bi, nhưng vội muốn sanh trong đời ác để cứu chúng hữu tình khổ não, đó là điều không hợp lý.' Tại sao thế? Vì trong cõi đời ác trược, nghiệp phiền não mạnh mẽ lẫy lừng. Khi ấy, mình đã không có nhẫn lực, tất tâm sẽ tùy cảnh mà chuyển, rồi bị sắc, thanh danh, lợi trói buộc, sanh ra đủ nghiệp tham, sân, si. Chừng đó tự cứu đã không rồi, nói chi là cứu chúng sanh? Giả sử được sanh trong cõi người thì cảnh xấu ác kẻ tà ngoại dẫy đầy, người chánh chơn khó g