;
Từ năm thứ hai đến năm thứ tư, đức Phật an cư ở thành Vương Xá. Mùa thứ năm ở thành Vệ Xá Li, thứ sáu ở Kosambi. Đến năm thứ bảy, đức Phật ở cõi trời Đao Lợi. Có rất nhiều tranh luận về giả thuyết năm này.
Truyền thống Phật giáo Bắc tông phân tích thêm, đây là thời điểm đức Phật nói kinh Địa Tạng cho thánh mẫu Ma Ya. Còn trong truyền thống của Nam tông cho rằng mối liên hệ giữa chư thiên, tức là người ngoài hành tinh với con người chúng ta thông qua việc học hỏi giáo pháp đức Phật là điều không thể phủ định về phương diện lịch sử, đặc biệt trong mùa an cư thứ bảy. Mùa thứ tám, đức Phật nhập hạ tại rừng Bagaha, một khu rừng xinh đẹp, khí hậu ôn hòa thuận lợi cho việc phát triển tâm linh, không quá xa thành thị nhưng cũng không quá gần, để mỗi sáng khi vào kinh thành khất thực, người tại gia có cơ hội học hỏi dựa trên sự an lạc, tĩnh tại từng bước chân đi hành hóa của những vị xuất gia. Ngược lại, người xuất gia cũng có cơ hội giảng kinh thuyết pháp cho những người hữu duyên. Mùa an cư thứ chín, đức Phật có mặt ở tại Kosambi.
Chín mùa an cư đầu, chúng ta thấy địa điểm đóng vai trò khá quan trọng. Trong các nơi này không nơi nào không có cảnh trí an lành thuận lợi cho việc phát triển đời sống thiền quán. Khoảng ba mươi sáu mùa an cư còn lại, đức Phật dành hai mươi bốn mùa an cư tại Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên. Ai đã từng có cơ hội chiêm bái Phật tích tại Ấn Độ và NePal sẽ thấy rất rõ khu vườn tuy bây giờ chỉ còn khoảng trên dưới 40 mẫu, trong quá khứ nó có thể rộng trên 100 mẫu.
Lý do tại sao đức Phật lại dành gần một nửa thời gian hoằng hóa của Ngài ở tại Kỳ Viên mà không phải một nơi nào khác? Kỳ Viên thuộc về miền Bắc Ấn Độ, khí hậu từ tháng năm đến tháng chín thường nóng và ẩm thấp rất cao. Tuy nhiên cảnh trí tại đây rất đặc biệt. Hiện nay cảnh đẹp ở đây không còn như xưa nhưng nếu tham quan, chúng ta vẫn có thể có tầm nhìn bao quát rằng nó hẳn là một nơi lý tưởng để đức Phật chọn lựa suốt một nửa thời gian hoằng hóa của Ngài.
Từ đó, chúng ta đặt vấn đề về tính chất hỗ trợ của không gian tâm linh đối với nội dung tâm linh mà các hành giả cần phải trải qua suốt ba tháng. Không gian đó là gì?
Tiêu chí không gian tâm linh
Trong các kinh điển Nam tông, đức Phật nêu ra ba tiêu chí để tất cả hành giả cần phải tự suy xét chọn lựa.
Tiêu chí một, những không gian giúp hành giả được nhiều tặng phẩm cúng dường của đàn na tín thí nhưng nếu nội dung tâm linh, sự tu tập, và những giá trị an lạc hạnh phúc không có mặt thì đức Phật vẫn khuyên các vị Tỳ kheo không nên lưu trú tại đây. Vì như thế sẽ dẫn đến tình trạng rơi vào chủ nghĩa lợi dưỡng, nghĩa là hưởng thụ trên nền tảng niềm tin và sự phát tâm cung kính của người tại gia. Từ lời chỉ dạy rất ngắn của đức Phật, chúng ta thấy người tại gia khi phát tâm cúng dường cho người xuất gia cũng phải hiểu rõ nên cúng cái gì, cúng như thế nào để người tiếp nhận đạt những giá trị hỗ trợ cần thiết, nhờ đó mà tinh tấn phát triển đời sống tâm linh tu tập một cách có kết quả. Chứ không phải hễ có phát tâm, có tấm lòng đem tới cúng là tốt. Đời sống tâm linh thường đi ngược với đời sống vật chất hưởng thụ. Trong thời hiện đại, cám dỗ của đời sống vật chất cao hơn rất nhiều so với thời đại ngày xưa của đức Phật.
Chẳng hạn, mỗi một thầy hay một sư cô sử dụng ba tháng mới hết một ống kem đánh răng. Nếu ngày nào cũng có người phát tâm cúng một ống kem loại lớn thì 89 ống kem của 89 ngày hạ sẽ dùng vào việc gì? Tương tự, nếu mỗi ngày, các Phật tử phát tâm cúng dường mỗi thầy hay mỗi sư cô một bộ y hậu bằng những loại vải xịn nhất thì số lượng y hậu sẽ rất nhiều. Trong khi đó, đức Phật khuyên mỗi người xuất gia không mặc quá ba bộ gồm y thượng (áo choàng toàn thân bên ngoài), y trung (áo ngắn bên trong), và y hạ (quần sà rong). Hiện nay, hiểu theo nghĩa thoáng rộng hơn, ba y tức là ba bộ y, ba cái hậu, chưa kể ba cái áo tràng đi đường, ba cái áo để tiếp khách đến chùa… Người ta có thể tạm chấp nhận vì nhu cầu xã hội ngày nay cộng với sự hâm nóng toàn cầu nên việc thay đổi y phục xuất gia là cần thiết. Nhưng liệu trong 90 ngày hạ với 90 bộ vải để chuẩn bị may cho 90 bộ y có cần thiết đối với người xuất gia hay không?
Trong cách thức đặt câu hỏi đã hàm ý câu trả lời. Tương tự, nếu ngày nào cũng có người phát tâm cúng mỗi thầy một bao thư giá trị từ 100 ngàn đến 500 ngàn thì sau ba tháng an cư, quý thầy sẽ có một khoản tiền khá lớn. Liệu số tiền khá lớn đó có hỗ trợ tích cực cho việc tu học của các vị xuất gia trong thời hiện đại hay không? Câu trả lời có thể là hai: Có hoặc không. Có, nếu quý thầy tận dụng số tiền đó để mua kinh sách và các phương tiện phục vụ cho sự tu học. Không, nếu quý thầy nghĩ rằng đây là cơ hội để có thêm nhiều tặng phẩm cúng dường của đàn na tín thí. Dĩ nhiên không mấy người có suy nghĩ tầm thường như thế nhưng đôi khi vẫn có. Vì có nhiều người khi vào đạo không phát khởi được lý tưởng chân chính nên theo, nên dễ dàng rơi vào các thói quen hưởng thụ như khi còn ở tại gia.
Tiêu chí hai, những nơi chốn mà sự có mặt của người xuất gia tu tập, đặc biệt trong ba tháng an cư, vừa mang lại giá trị lợi dưỡng tức là sự phát tâm cúng dường của đàn na tín thí và vừa được học kinh điển, luật luận từ những bậc tâm linh đi trước. Trong tình huống này, đức Phật vẫn khuyên người xuất gia nên đặt nặng vế thứ hai. Vế đầu không có cũng chẳng quan trọng, còn vế thứ hai nếu đạt được thì sau ba tháng an cư, người xuất gia sẽ tích tụ được rất nhiều kinh nghiệm tu học cho bản thân, hoằng pháp cho tha nhân. Đây chính là mối quan tâm hàng đầu của nhiều vị xuất gia.
Nhiều vị Tăng Ni ở tỉnh lẻ cứ ba tháng an cư lại phát nguyện đến các thành phố lớn để nhập hạ. Mùa an cư kiết hạ năm 2009 tại chùa Phổ Quang đón nhận vài trăm thầy vì phương tiện tại đây đầy đủ, hội trường lớn, các vị giảng sư giỏi, các bậc tôn đức có kinh nghiệm tu học và có thời gian chuyển hóa tâm linh lâu dài. Đến đây nhập hạ thì cơ hội lắng nghe sẽ nhiều hơn các trường hạ thuộc tỉnh lẻ. Điều đó tạo ra sự lưu động, và lưu lượng người xuất gia có mặt tại các trường hạ trong nước di chuyển tùy theo các địa điểm an cư. Tuy nhiên như thế có cung ứng được các nhu cầu trong mối quan tâm vế thứ hai mà đức Phật đã đặt ra hay không?
Nơi nào có giảng sư giỏi, có tôn đức tu tập tốt thì nơi đó sẽ quy tụ nhiều hành giả hơn. Và trên phương diện nào đó, một cách rất tự nhiên như một sự hỗ trợ, nơi nào có nhiều người phát tâm cúng kính như thành phố Hồ Chí Minh thì trường hạ nơi đó luôn luôn đón nhận hành giả xuất gia tham dự nhiều hơn. Tuy nhiên mục tiêu vẫn nằm ở vế thứ hai, bằng không, nếu rơi vào vế đầu thì toàn bộ mùa an cư đó chỉ phục vụ cho mục đích lợi dưỡng như tiêu chí thứ nhất mà đức Phật đã răn nhắc.
Tiêu chí ba, những không gian, tùng lâm mà việc nhập hạ của người xuất gia chân chính dù không có bất kỳ một tín chủ nào phát tâm cúng dường nhưng nếu tại đó tâm của hành giả được an tịnh, đời sống đạo đức được tăng trưởng, những giá trị phụng sự xã hội trở thành đại nguyện lực và sau ba tháng an cư, hành giả trở nên tích cực hơn, năng động hơn, hiệu quả hơn trong hoằng hoá thì đức Phật khuyên các hành giả phải cố gắng vượt qua những khó khăn để trở thành con người xứng đáng sau ba tháng an cư.
Nói như thế không có nghĩa đức Phật khích lệ chủ nghĩa lý tưởng mà bỏ rơi thế giới hiện thực. Ở đây đức Phật muốn nhấn mạnh tầm quan trọng và mục đích của an cư không phải đơn thuần là tránh mưa và tránh cơ hội dẫm đạp các loài côn trùng vi tế như một số học giả Kỳ Na giáo đã cố tình lý giải. Họ cho rằng truyền thống an cư của đạo Phật có nguồn gốc và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ truyền thống an cư của họ.
Sao phải an cư mùa mưa?
Một trong các giả thuyết đã đặt ra trong tình huống này là vào khoảng năm thứ sáu, có nơi nói rằng năm thứ mười hai sau khi đức Phật thành đạo, tôn giả A Nan nhìn thấy cứ ba tháng mùa mưa, trung bình từ tháng 6 đến tháng 9 dương lịch, thì các tu sĩ của đạo Kỳ Na do sáng tổ Mahavira sáng lập, đều cấm túc một chỗ để tu hành. Điều đó đã trở thành thói quen văn hoá tâm linh tại đất nước Ấn Độ và được quan niệm như điểm tựa tinh thần cho những người tại gia cúng dường. Lúc đó ngài A Nan nghĩ rằng, sẽ rất hay nếu Như Lai đồng thuận và quy định bằng luật hẳn hoi rằng ba tháng mùa mưa, các tu sĩ Phật giáo cần phải ở yên một chỗ như truyền thống Kỳ Na giáo.
Lý giải đó xem ra có logic về lịch sử nhưng lại phi logic trong những giá trị chân lý. Đức Phật được gọi là bậc Vô Sư Trí tức là toàn bộ giá trị tâm linh Ngài đạt được không phải do học từ các vị thầy ở trường lớp mà là do Ngài phát minh. Hay nói cách khác, chân lý có giá trị muôn đời, quá khứ cũng thế, hiện tại không có gì thay đổi và tương lai vẫn là những chỉ số bất di bất dịch. Do đó, cách tiếp cận từ góc độ lịch sử này sẽ cho chúng ta thấy được tầm nhìn xa trông rộng về những giá trị tâm linh mà đức Phật quy định cho những vị xuất gia chân chính.
Trong một mùa an cư, đức Phật đã tuyên bố “Phụng sự chúng sinh tức là cúng dường chư Phật”, như vậy chúng ta không có lý do gì để hiểu một cách vật chất hóa rằng việc cấm túc an cư của người xuất gia nhằm tạo cơ hội cho đàn na tín chủ cúng dường. Mỗi ngày, những vị xuất gia vẫn đi thiền hành vào các ngõ ngách của xã hội, không đi hai ngày cùng một hướng, không dừng lại một cách cố ý để các tín chủ phát tâm và để có cơ hội tiếp nhận nhiều hơn mà chỉ phát xuất từ một tâm niệm rằng, mỗi bước chân đi an lạc, tĩnh tại, nhẹ nhàng và thảnh thơi của người xuất gia sẽ là bài học thiết thực về đời sống chuyển hoá tâm thức mà cốt lõi của nó là thiền quán. Trong sự bôn ba với sức ép của đời sống kinh tế vật chất, người tại gia có thể nương tựa vào những bóng dáng tu tập này để xử lý được cảm xúc thăng trầm, vinh nhục xuất hiện trong cuộc đời như là những thách đố. Rõ ràng trong sự tương tác như thế thì người xuất gia bỗng dưng trở thành một ruộng phước cho người tại gia gieo trồng và người tại gia xem đó là cơ hội hỗ trợ đời sống tâm linh cho người xuất gia, chứ không phải vì mục đích tiếp nhận cúng dường mà người xuất gia đi hành khất như đã nói trên.
Lại càng sai lầm hơn nếu chúng ta hiểu rằng ba tháng mùa mưa không đi ra khỏi chùa là để tránh đạp côn trùng nhỏ nhít phát sinh do ẩm thấp. Không ngôi chùa nào ở thời đại của đức Phật lại không có cây, cũng hiếm có ngôi chùa có diện tích quá nhỏ. Nơi đâu cũng là rừng cây, và đã là rừng cây thì chỗ nào cũng có côn trùng vi tế. Tránh dẫm đạp côn trùng vi tế ở bên ngoài chùa thì đồng thời chúng ta cũng phải dẫm đạp côn trùng vi tế ở trong chùa, điều đó có gì khác nhau? Cho nên lý giải “nhập hạ là để tránh đạp côn trùng” là hạ thấp tầm nhìn tâm linh của đức Phật và cũng là cách biến học thuyết nhập hạ Phật giáo như một bản photocopy của Kỳ Na giáo, mà vốn các nhà truyền đạo Kỳ Na giáo luôn cổ suý tầm ảnh hưởng của Mahavira lớn hơn nhiều so với đức Phật. Bên cạnh đó, cách lý giải này cũng có thể rơi hoàn toàn vào cái bẫy của những người theo Bà La Môn giáo rằng, học thuyết của Sa môn Cồ Đàm (tức đức Phật) chỉ là sự tích hợp tâm linh của Ấn Độ giáo chứ không có gì hay hơn, đặc biệt hơn như người ta đã tán dương Ngài.
Dĩ nhiên những người con Phật không tranh luận với cuộc đời, không nhất thiết phải chứng minh rằng đức Phật hơn các vị lãnh tụ tôn giáo khác, ở đây nó thuộc về vấn đề lịch sử mà chúng ta cần tôn trọng, để thấy rất rõ những đóng góp về giá trị tâm linh mà đức Phật đã khai sáng cho con người.
Ai dám khẳng định rằng ngoài ba tháng mùa mưa, những tháng còn lại không có côn trùng vi tế? Mùa nắng có côn trùng vi tế của mùa nắng, mùa xuân, mùa thu cũng có côn trùng vi tế của mùa xuân, mùa thu. Mỗi mùa có mỗi loại chủng vật với những sự sống khác nhau và mỗi bước chân đi của chúng ta đều phải dẫm đạp lên chúng, làm cho chúng chết. Đây chính là lý do mà phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm đã khuyên rằng mỗi buổi sáng, các vị xuất gia khi đặt chân xuống giường là phải phát nguyện chuyển năng lượng của lòng từ bi đến tất cả mọi loài chúng sanh. Hãy quán tưởng rằng mình hoàn toàn vô tình tạo ra cái chết không toàn thây của các loài côn trùng vi tế và mong cho chúng được siêu sinh thoát hoá.
Mùa mưa, mùa nắng, sáng hay ngày, bất cứ nơi đâu, tất cả người xuất gia đều làm như thế cả. Do đó, không nên giới hạn giá trị của an cư mùa mưa vào mục đích hạn chế nghiệp sát đối với các côn trùng mà chủng loại chúng thường được sinh trưởng vào mùa mưa ẩm thấp này. Từ đó, khắp nơi trên thế giới ngày nay đã chọn tháng an cư không nhất thiết là mùa hè. Ví dụ ở Úc, các thầy chọn mùa đông làm mùa an cư, tức là tháng sáu, tháng bảy, tháng tám vì rất lạnh giá, mọi hoạt động Phật sự khó có thể được thực hiện. Các Phật tử đến chùa cũng khó khăn do lái xe trên đường tuyết phủ sẽ không an toàn và gặp nhiều trở ngại. Năng lượng xăng dầu tiêu phí vào mùa đó cũng rất cao, cho nên nếu đến chùa tu học thì khá tổn thất về kinh tế. Ba tháng đó, ở chùa phần lớn chỉ có tu sĩ, còn người tại gia đến chẳng là bao. Đối với những vùng như Bắc Mỹ thì tháng mười một, mười hai và tháng giêng dương lịch là mùa cực lạnh, có nơi âm đến 30 độ, nên việc nhập hạ vào ba tháng đó trở thành nhập đông chứ không còn là nhập hạ nữa. Do đó giá trị của nó sẽ được lý giải khác hoàn toàn với việc tránh dẫm đạp các côn trùng.
Nói cách khác, dưới tầm nhìn và kinh nghiệm tâm linh của đức Phật, dù chư Tăng có phụng sự xã hội cỡ nào đi chăng nữa cũng đừng bao giờ trải nghiệm những giá trị an lạc, tĩnh tại của bản thân, như kinh Pháp Cú đã nói:
“Lợi người bao nhiêu,
Đừng quên phần tự lợi,
Người trí tự chuyên chế,
Hạnh phúc sẽ lâu dài”.
Ở đây, đức Phật nói rất rõ về tính khả thể trong vấn đề đóng góp của mỗi con người là có giới hạn và đừng lao theo tính khả thể đó đến độ quên mất bản thân trong thất niệm. Phụng sự cho tha nhân mà bản thân mình bệnh tật rồi khổ đau, không an lạc hạnh phúc thì giá trị phụng sự đó có giới hạn và không bền. Cho nên cần phải bồi dưỡng đời sống nội tâm để dấu ấn đóng góp trở thành cái gì đó khó quên ở mọi người, và sự tiếp nhận chắc chắn phải an lạc, hạnh phúc một cách lâu dài, chứ không chỉ đơn thuần là kinh nghiệm chứng đắc hay trải nghiệm. Người xuất gia chân chính dưới sự hướng dẫn của đức Phật và thực tập một cách có hiệu quả sẽ đạt được cùng lúc cả hai nội dung: kiến thức Phật pháp và kinh nghiệm tâm linh. Hai nội dung này truyền đạt lại cho thế gian thì người tiếp nhận sẽ cảm nhận một cách rất sống động và thực hiện theo dễ dàng.
An cư bao lâu là đủ?
Truyền thống Phật giáo Nam tông có nơi khích lệ đến bốn tháng và thời điểm bắt đầu cũng có phần khác nhau, chia ra làm hai: an cư sớm và an cư muộn.
An cư sớm là nhập hạ từ nửa tháng đến một tháng trước mùa an cư chính thức mà các chùa thường tiến hành. Trong truyền thống Nam tông, an cư sớm được hiểu là ngày mùng 1 tháng 6, trong khi ngày 15 tháng 6 mới là thời điểm chính thức an cư. Còn an cư muộn thì thay vì bắt đầu từ ngày 15 tháng 6, có nơi lại bắt đầu từ ngày 15 tháng 7 hoặc mùng 1 tháng 7. Tuỳ theo điều kiện không gian, thời gian và phương tiện thuận lợi hay không mà việc an cư sớm hay muộn vẫn được cho phép.
Điều đó cho phép chúng ta thêm một lần nữa lý giải rằng, truyền thống an cư của đức Phật không phải vì mục đích tránh mưa. Nếu tránh mùa mưa thì phải diễn ra ngay đúng thời điểm mùa mưa chứ không được trước cũng không được sau.
Đối với truyền thống Bắc tông, thời điểm bắt đầu an cư từ ngày Rằm tháng 4 và kết thúc vào ngày 14 tháng 7 âm lịch để chuẩn bị lễ Tự tứ lớn nhất trong năm. An cư sớm có thể trước mười lăm ngày, và an cư muộn có thể kết thúc vào mùng 1 tháng 8.
Trong thời hiện đại, khoảng thời gian từ chín mươi đến một trăm hai mươi ngày an cư rất khó có thể thực hiện được, đặc biệt các chùa ở phương Tây. Khi các cộng đồng châu Á sang truyền đạo và giới thiệu những hình thái tâm linh cho người phương Tây chọn lựa một cách phong phú và có lợi lạc thì mùa an cư phần lớn ở hải ngoại chỉ mười ngày, có nơi chỉ bảy ngày. Bỏ ngôi chùa đi nhập hạ mười ngày là một thách đố lớn mà những người xuất gia thời hiện đại khó có thể vượt qua. Phật tử chỉ đến chùa vào ngày thứ bảy, chủ nhật, nếu cả ba tháng tức mười hai tuần lễ không có thầy/ sư cô trụ trì thì có lẽ Phật tử sẽ không đến chùa nữa. Tình trạng này đồng nghĩa ngôi chùa sẽ bị đóng cửa vì hiếm có ngôi chùa nào ở hải ngoại sau khi cất xong có thể trả hết nợ như các ngôi chùa tại Việt Nam. Có chùa thiếu nợ đến 90% tiền xây dựng, chùa nhẹ nhất cũng 20%, và phải trả từ năm năm đến hai mươi năm mới dứt. Do đó các thầy trụ trì buộc phải ở ngay chùa của mình để sinh hoạt đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng quần chúng, nhờ đó quần chúng bá tánh mới phát tâm.
Nhiều người phát tâm có điều kiện, nghĩa là khi các dịch vụ yêu cầu về đời sống tâm linh như khoá lễ cầu an, cầu siêu, cầu phước, cầu thọ, cầu tài được thực hiện thì họ mới phát tâm cúng dường. Còn nếu không có những điều đó thì hiếm ai phát tâm cúng dường mặc dù dư thừa về tài sản và tiền bạc. Là Phật tử chân chính, chúng ta nên phát tâm vô điều kiện vì thấy rất rõ việc phát tâm cúng kính là nhu cầu cần thiết cho sự tiến triển đời sống tâm linh của những người xuất gia.
Thử hình dung nếu một nhà sư hay sư cô cứ mười tiếng trong một ngày lo kinh tế hay đồng áng thì cái đầu của vị thầy hay sư cô này sẽ bị bê tông hoá, tài chính hoá hay thế tục hoá. Đó là chuyện hiển nhiên phải diễn ra. Còn nếu các thầy, các sư cô không phải bận tâm về những chuyện kinh tế thì toàn bộ thời gian còn lại sẽ dành cho việc tu tập, giá trị tâm linh cũng theo đó mà phát triển.
Thấy được như thế, người tại gia nên phát tâm cúng dường, không cần chờ đến khi có nhu cầu nào đó cần đáp ứng thì mới đền tạ công đức. Việc đền tạ công đức trong tình huống này cũng giống như “tiền trao cháo múc”, hết việc Phật sự thì vẫy tay chào với ngôi chùa luôn.
Do đó, chúng ta phải thông cảm đồng thời có cái nhìn thấu rõ bản chất văn hoá và đời sống tự do kinh tế ở hải ngoại để không lấy những quy định truyền thống để bắt nạt các vị xuất gia trong thời cận hiện đại rằng “Tại sao không thể nhập hạ hơn mười ngày?” Vấn đề đặt ra là trong thời gian dù bảy hay mười ngày, thậm chí ba tháng hay bốn tháng, tất cả những vị xuất gia có mặt trong giới trường cần phải làm gì?
An cư là để truyền trao kinh nghiệm hoá độ
Nhiều bản kinh thuộc truyền thống Pali đặc biệt là kinh Trường Bộ và Trung Bộ cho thấy các giả thuyết của Kỳ Na giáo và Bà La Môn giáo về mục đích tránh mùa mưa là không đứng vững. Đối với rất nhiều vị xuất gia trẻ với tâm nguyện lớn muốn đóng góp tài mọn của mình nhưng không đủ năng lực thuyết phục và hướng dẫn cặn kẽ cho những người đang thắc mắc hay có nhu cầu tìm đến đạo Phật, thì mùa an cư kiết hạ là cơ hội quý báu để tăng chúng khắp nơi hội tụ về nhằm chia sẻ những khó khăn trong vấn đề truyền bá, vấn đề đối thoại liên tôn giáo, liên triết học và muốn lắng nghe kinh nghiệm giải quyết vấn đề của những bậc cao túc.
Chẳng hạn thời đức Phật, có lần một vị Tỳ kheo với năng lực lý luận rất vững, nhưng khi bị một người Bà La Môn đặt vấn đề rằng: “Nhân quả mà Sa môn Cồ Đàm thuyết giảng là bản sao của học thuyết Bà La Môn chúng tôi. Nếu không phải như vậy thì xin ông hãy trình bày một đặc điểm gì trong học thuyết nhân quả là của đức Phật. Còn không trình bày được thì đức Phật của ông cũng chỉ là người ăn cắp học thuyết của chúng tôi thôi”. Vị Tỳ kheo này nghe cảm thấy khó chịu nhưng không đủ sức biện minh. Sau đó ông về tường trình lại với đức Phật và được Ngài giải thích. Ba nội dung khác biệt mà đức Phật nêu ra như sau.
Thứ nhất, nhân quả của đạo Phật không dựa hoàn toàn trên nền tảng quá khứ. Đức Phật nói: “Ai lý giải mọi sự diễn ra trong hiện tại có dây mơ rễ má với quá khứ thì người đó sẽ đánh mất cơ hội làm mới cuộc đời và cơ hội an vui hạnh phúc ngay trong hiện tại”. Mặc dù không giải thích thêm nhưng chúng ta phải hiểu đức Phật ngầm ám chỉ rằng, người như thế dễ dàng chấp nhận có một định mệnh an bài như một số phận và mọi nỗ lực thay đổi nó chỉ là trò đùa đành hanh trước thượng đế quyền uy tối thượng. Nếu nói theo Nho giáo: “Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt”, ai có nỗ lực cỡ nào chăng nữa cũng bị dính trong lưới trời đã được phủ trùm mà thôi. Cho nên đức Phật nói, hãy phân tích mọi thứ chính yếu trên nền tảng nhân quả hiện tại. Dĩ nhiên việc liên hệ nó với quá khứ không hoàn toàn bị tước bỏ.
Thứ hai, nghiệp đã được gieo trồng sẽ không nhất thiết trở thành cái quả cố định. Từ lúc nghiệp được gieo cho tới lúc trổ quả, nó vẫn có thể thay đổi tùy theo tình huống và hoàn cảnh khác nhau.
Thứ ba, có những loại hành động được gọi là vô hiệu nghiệp với hai nguyên nhân. Trước là, năng lực của hành động đó mạnh hơn gấp nhiều lần so với năng lực nghiệp đã được gieo trồng trước đó. Tự thân của hai loại nghiệp đối lập này sẽ diễn ra theo cách thế loại trừ lẫn nhau. Cái nào mạnh sẽ khống chế, do vậy những nghiệp trước đó yếu hơn sẽ bị hòa tan và mất đi hiệu lực trổ quả. Kế tiếp là, có rất nhiều các loại nghiệp hay hành động của con người không có cơ hội trổ quả vì hoàn toàn không có điều kiện thuận lợi về môi trường. Cũng như một hạt đậu bỏ trên nền xi măng thì sau một trăm năm nó vẫn là hạt đậu khô thậm chí bị mối mọt ăn nếu dưới nhiệt độ ẩm thấp. Sẽ không bao giờ có cây vì hạt đậu không có ngòi nảy mầm.
Trong khi đó, học thuyết nghiệp của Bà La Môn giáo là chủ nghĩa an bài. Nói theo Nguyễn Du là:
“Bắt phong trần, phải phong trần.
Cho thanh cao mới đặng phần thanh cao”.
Nếu chịu khó phân tích thêm, nghiên cứu thêm những bài kinh khác mà đức Phật dạy về nghiệp trong Pali, A Hàm và Đại thừa, chúng ta sẽ thấy còn hàng trăm vấn đề rất khác so với truyền thống nghiệp của các tôn giáo bạn.
Cho nên, ba tháng an cư là cơ hội rất quý để những người xuất gia trẻ học được độ sâu trong học thuyết mà đức Phật đã khám phá và truyền bá; học sâu được những cách thức giải quyết vấn đề trong các cuộc đối thoại liên tôn giáo, đối thoại liên triết học mà không phải hễ ai hiểu đạo Phật là có thể làm công việc đó thành công.
Có rất nhiều cuộc đối thoại lắt léo mà chỉ cần một mẹo vặt nhỏ là có thể khai thông, hoặc điểm tâm được người đang bị bế tắc, hoài nghi, khống chế và có thái độ ngang tàng nghĩ rằng mình là số một trên cuộc đời. Do đó nó đòi hỏi chủ nghĩa kinh nghiệm và nghệ thuật phân tích vấn đề mà đức Phật và các bậc Thánh tăng xưa đã từng làm.
An cư để trưởng dưỡng đạo tâm
An cư dẫn đến trạng thái an tâm khi chúng ta bớt tiếp xúc với thế giới tại ngoại, hạn chế giao tiếp với xã hội xung quanh khi không thật sự cần thiết. Các hành giả có điều kiện tăng trưởng đời sống nội tâm của mình lớn hơn mức bình thường. Vì khi dấn thân ra xã hội, thời gian dành cho sự tu tập sẽ ít hơn thời gian chúng ta ẩn tu một mình, đó là điều hiển nhiên. Tuy nhiên việc các tu sĩ Phật giáo phải đóng cốc trên núi rừng và tu một mình là điều không được Phật khích lệ. Vì tu như thế, dù một trăm năm cũng không lợi ích gì cho ai ngoài lợi ích cho bản thân. Cùng lắm là được thiên hạ cung kính và phát tâm vì nghĩ rằng đây là bậc chân tu thật học. Chỉ chừng đó thôi. Cho nên, trong ba tháng an cư, đức Phật vẫn cho phép người xuất gia đi giảng kinh, thuyết pháp, làm Phật sự, thăm viếng người thân bị bệnh tật hoặc những nhu cầu xã hội vốn không thể thiếu vắng sự đóng góp của họ.
Có sáu truyền thống Luật học, mỗi truyền thống có những quy định khác nhau về tính gia giảm thời gian cho phép đi ra ngoài trong ba tháng an cư. Theo truyền thống Nam tông ở một số nước hiện nay, thời gian tối đa vắng chùa về ban đêm là bảy ngày, có nơi cho phép mười bốn ngày. Còn đối với truyền thống luật học Bắc tông, có nơi cho phép đến một tháng, do công tác Phật sự giúp người cứu đời. Trong cuộc đối thoại đặc biệt với Hòa thượng Thích Trí Quảng, cố Hòa thượng Thích Trí Thủ đã nói rằng: “Nếu không đi thuyết giảng trong ba tháng an cư, nơi tất cả chư Tăng ở nhiều tỉnh thành hội tụ thì sau này có muốn thuyết giảng để chia sẻ và truyền đạt cũng khó có cơ hội”.
Ngày xưa, đức Phật cho phép thời gian trung bình là nửa tháng, còn một số tình huống đặc biệt thì có thể vượt hơn nửa tháng. Như vậy, tính bắt buộc người xuất gia phải ở một chỗ không phải là tiêu chí tiên quyết. Chúng ta thấy rõ việc ở yên một chỗ nhằm tạo cơ hội phát triển nội tâm chứ đâu phải là phương tiện duy nhất của vấn đề. Khi nhận ra được điều đó thì chúng ta vẫn có thể tu trong lúc đang ở trên xe.
Mỗi khi Hòa thượng Thích Trí Quảng đi đâu, có quần chúng Phật tử đi cùng trên chuyến xe thì trên xe thường tụng kinh chứ không ngồi nói chuyện hay ngủ gật. Hòa thượng rất khích lệ việc cùng tụng kinh trên xe. Đó là tâm niệm an cư mặc dù không phải mùa an cư nhưng toàn bộ chiếc xe vẫn được xem là đang an cư trong lúc nó di chuyển với tốc độ 60Km/giờ. Thậm chí nếu sau này chúng ta cùng đi trên một chuyên cơ, toàn bộ hành giả có mặt trên đó cũng tụng niệm, hành trì như thế thì dù tốc độ bay là 1000Km/giờ, chúng ta vẫn được gọi là đang an cư, tức là ngồi yên một chỗ về phương diện tâm.
Như vậy, an cư nằm ở chuyển hóa tâm, làm cho tâm an lạc, hạnh phúc, bình an, nỗi khổ niềm đau được giải phóng ở cách thức trọn vẹn nhất chứ không đơn thuần ở yên một chỗ. Trạo cử là khái niệm tâm lý học Phật giáo cho thấy sự dao động của tâm chứ không đơn thuần là sự lóc chóc của thân, như đi đánh đòng đưa, ngồi rung đùi, vừa cười vừa nói, dáng dấp thiếu sự đĩnh đạc trang nghiêm. Trạo cử thực chất chỉ sự dao động trong tâm, đang ngồi chỗ này mà tâm nghĩ chỗ khác, không có hiện tại lạc trú, không có chánh niệm tỉnh thức, không có nhất tâm bất loạn, không có thân, khẩu, ý nghiệp giao cảm nhau trong sự giao cảm tâm linh với đức Phật. Tất cả những người như thế đều được gọi là đang bấn loạn tâm. Lúc đó, dù có mặt trong ba tháng an cư, ở một nơi lý tưởng cỡ nào đi nữa, người đó vẫn được xem là thất bại vì tâm an chưa được thiết lập.
Tại sao cần có nhiều thành phần khác nhau cùng đến an cư? Vì nội dung an cư là điều chúng ta phải quan tâm. Nếu mỗi thầy, mỗi sư cô an cư tại các tỉnh thành hoặc các huyện của mình, không có sự giao lưu giữa nhiều vùng khác nhau thì sự thông cảm về phương diện Phật sự sẽ gặp khó khăn. Nhờ ba tháng sống chung, chư Tăng ở vùng A, vùng B có điều kiện hiểu rõ thêm phong tục tập quán, có thể truyền giao những kinh nghiệm giảng kinh, thuyết pháp và làm Phật sự. Miền Bắc hiện nay đã được nhà nước ủng hộ bằng tâm chân thành. Đây là thời điểm chưa từng có trong lịch sử Phật giáo Việt Nam ngoài triều đại nhà Trần và nhà Lý.
Do đó, khi nhập hạ chung, chúng ta có thể chia sẻ những kinh nghiệm có giá trị. Tại miền Bắc, số lượng nhân sự làm Phật sự giảng kinh, thuyết pháp, giáo dục và lĩnh vực văn hoá từ thiện hầu như là nắng hạn. Trong khi đó, tại Sài Gòn và nhiều tỉnh thành khác lại dư thừa nguồn nhân sự cho các Phật sự này. Nếu trong lúc nhập hạ, chúng ta có thể chia sẻ và thiết lập được mối cộng thông với nhau, kết hợp việc thỉnh mời chư Tăng ở miền Nam ra miền Bắc và thỉnh mời chư Tăng ở miền Bắc vào miền Nam để giao lưu, thì chúng tôi tin chắc rằng lợi lạc của nó rất cao. Không có những mùa an cư như thế, chúng ta khó có thể thiết lập nhịp cầu cảm thông về Phật sự và hỗ trợ lẫn nhau.
***
Tóm lại, mùa an cư kiết hạ là một phương tiện cộng tu, là không gian tâm linh để các hành giả cộng tu được an lạc hạnh phúc. Đó cũng là nơi trao đổi kinh nghiệm hoằng pháp, và là phương tiện rất tốt để người tại gia được phát tâm cúng dường vào ruộng phước, người xuất gia tiếp nhận nó, nêu cao tâm nguyện tu tập và truyền bá.
Các tổ Trung Hoa trong phương diện này đã dạy người xuất gia những câu tâm niệm rất sâu sắc: “Kiếp này tu tập không đạt kết quả thì kiếp sau phải mang lông đội sừng để đền trả nợ của đàn na”. Tức là người xuất gia khi tiếp nhận phẩm vật cúng dường của người tại gia không nên hãnh diện tự hào mà lúc nào cũng phải nghĩ mình có đủ công đức, phước báu để tiếp nhận nó hay không. Tiếp nhận như việc vay nợ ngân hàng, người tại gia rộng lượng cho vay nợ mà không lấy lãi, người xuất gia khi tiếp nhận phải có Phật sự xứng đáng hơn để đền bù. Tài thí, pháp thí lưỡng toàn mới là các Phật sự tốt đẹp. Khi tiếp nhận, người xuất gia phải làm sao ban bố những bài pháp thiết thực, lợi ích cho người tại gia để đền trả sự vay nợ này.
Một vị tổ khác cũng đã khuyên những người xuất gia chúng tôi là, mỗi lần tiếp nhận phẩm vật cúng dường thì phải quan niệm rằng: người xuất gia giống như viên đá mài, người tại gia như là cây kéo, con dao, cái búa… Cứ sau mỗi khi cúng, con dao, cái kéo, cái rựa của người tại gia bén hơn, đồng thời viên đá mài của người xuất gia chúng tôi mòn đi chút ít.
Nếu không tinh tấn tu hành thì viên đá mài này, sau mấy mươi năm nhận cúng dường sẽ chỉ còn con số 0. Nếu tu tốt thì từ một viên đá mài sẽ sinh sôi thành hàng trăm, hàng ngàn viên đá, có mài thoải mái, mài vô cùng cũng không bao giờ tận hết. Đó là ý nghĩa vô tận tạng trong đạo Phật. Như vậy, việc tu tập trong mùa an cư là cơ hội cho tất cả chúng ta cùng