;
Buổi phát hình này mang chủ đề «Ánh Hào Quang của Phật» (Lumières du Bouddha). Nữ ký giả của chương trình là cô Aurélie Godefroy phỏng vấn hai Ông Olivier Germain-Thomas và Christophe Boisvieux. Xin được nhắc thêm là chương trình Phật giáo trên đài truyền hình Pháp mang tên là «Trí tuệ Phật giáo» (Sagesses bouddhistes),vừa được Tổng hội Phật giáo Pháp ăn mừng sinh nhật 10 năm.
Cô A. Godefroy, nữ ký giả phụ trách chương trình
Ông O. Germain-Thomas (1943…), nhà văn, đã xuất bản nhiều sách về Phật giáo, đồng thời cũng là ký giả và phụ trách thiết kế nội dung các chương trình phát thanh của đài Văn Hoá Nước Pháp (France Culture)
Ông C. Boivieux (1960…), ký giả và nhiếp ảnh gia, từng chu du khắp thế giới, nhất là các nước Á châu, kể cả Việt Nam, đã xuất bản nhiều sách và hình ảnh về các chuyến du hành của ông, tác phẩm mới nhất là « Bénarès-Kyoto » cũng vừa trúng giải Renaudot năm 2007.
Sau đây là phần thoát dịch buổi phỏng vấn:
Aurélie Godefroy : Phật giáo ngày nay gồm khoàng 350 triệu tín đồ và đại diện cho một tôn giáo đứng vào hàng thứ tư của nhân loại (1). Từ những năm gần đây, Phật giáo cho thấy những đổi mới sâu xa, tại Âu châu này cũng như trên phần lục địa mà Phật giáo đã phát sinh : tức Á châu. Và chính hôm nay đây, chúng ta sẽ dừng lại với nhau trên phần đất đó của địa cầu. Chúng ta hiểu rằng Phật giáo đã hình thành trên lãnh thổ Ấn độ. Nhưng rồi tôn giáo ấy đã phát triển như thế nào, đã trở nên phong phú ra sao khi hội nhập với những ảnh hưởng đa dạng khác, qua chuỗi dài của nhiều thế kỷ ? Những truyền thống chính là gì ? Làm thế nào để xác định những truyền thống ấy ? Những lý do quan trọng nào đã tạo ra sức mạnh thu hút của Phật giáo tại Á châu, mãi cho đến ngày hôm nay ? Chúng ta sẽ bàn thảo về những vấn đề trên đây với hai vị khách của chương trình là hai ông : Olivier Germain-Thomas và Christophe Boivieux.
(Quay sang phía ông Christophe Boivieux). Xin chào ông Chistophe Boivieux, Ông là nhà báo và nhiếp ảnh gia. Tôi hiểu rằng ông đã chu du trên khắp thế giới từ hai mươi năm nay. Đặc biệt, ông đã chu du nhiều trên các phần đất Á châu. Ông hợp tác với nhiều tạp chí và ông đã cho xuất bản một số sách về du lịch. Xin cảm tạ ông vô ngần đã đến với chúng tôi.
(Quay sang ông Olivier Germain-Thomas). Xin chào ông Olivier Germain-Thomas. Tôi được biết ông là một người thật nổi tiếng, đã thiết kế các chương trên đài phát thanh “Văn Hoá Nước Pháp”, và cũng vừa đoạt giải Renaudot với tác phẩm mới nhất của ông, mang tựa đề “Bénarès-Kyoto” (từ Ca-tì-la-vệ đến Kyoto)do nhà xuất bản Rocher ấn hành. Xin cám ơn ông đã đến với chúng tôi. Và trong dịp này hai ông đến để giới thiệu quyển sách mới phát hảnh do hai ông viết chung có kèm nhiều hình ảnh, sách mang tựa đề là “Ánh hào quang của Phật” (“Lumières du Bouddha”), do nhà xuất bản Lodi ấn hành. Đây là một quyển sách hết sức đẹp, phác họa lại sự hình thành và quá trình tiến hoá của Phật giáo tại Á châu, đúng với tình trạng như ngày nay. Để khởi sự, tôi muốn được mời Ông Olivier Germain-Thomas giải thích cho biết Phật giáo phát sinh như thế nào tại Á châu, và đặc biệt là tại Ấn độ.
O.GT. : Trước hết, phải nói rằng Phật giáo là tinh anh của nước Ấn. Người ta thường quên một điều là Phật giáo đã từng tồn tại suốt mười lăm thế kỷ trên đất Ấn, và vì lý do Ấn độ ngày nay chỉ còn dưới 1% dân chúng theo Phật giáo và Phật giáo được đón nhận vào phương Tây lại là Phật giáo Nhật bản và Tây tạng, do đó người ta đã không còn nhớ đến cái lò hun đúc ra Phật giáo. Cái lò ấy là nền tảng của các tư tưởng triết học, là tinh thần và kinh nghiệm tâm linh của cả nước Ấn. Như người ta đã biết, Phật giáo hình thành vào thế kỷ thứ V hay thứ VI trước Giê-su, trong vùng cao nguyên nằm giữa Hy-mã-lạp sơn và thung lũng sông Hằng. Khoảng thế kỷ thứ III trước Tây lịch, nhờ hoàng đế A-dục, Phật giáo bành trướng khắp nơi. Và xin đừng quên là Phật giáo đã từng lan rộng về phương Tây, tức là các vùng ngày nay thuộc vào các quốc gia như A-phú-hãn, Pakistan, Cachemire.
A.G. : Vậy có phải việc hoàng đế A-Dục quy y Phật giáo nhất thiết là một yếu tố quyết định cho việc bành trướng Đạo Phật hay không ?
O.GT.: Không thể biết chắc được. Nhưng dù sao, chính vua A-dục là người mong muốn Phật giáo được phát triển. Dù ít hay nhiều, ông vẫn còn là một người Ấn độ giáo, bởi vì dù sao phần đông dân chúng trong nước vẫn còn giữ đạo Bà-la-môn. Ông gởi sứ giả đi khắp nơi, từ Đông sang Tây và cả về phương Nam. Phương Nam gồm các quốc gia như : Tích lan, Miến điện, các nước Đông nam Á. Về phía Tây, qua vùng Cachemire, và dọc theo con đường tơ lụa, Phật giáo tiếp xúc thường hơn với Trung quốc và lan rộng vào phần đất này, sau đó đến lượt Triều tiên, rồi tiếp đến là Nhật bản, Tây tạng, Mông cổ, người ta đã biết rõ về giai đoạn lịch sử này. Nhưng nhiều khi người ta lại quên một chuyện khác là các trường phái chính của Phật giáo, dù đấy là Phật giáo Nguyên thủy Theravada, hay sau đó là Đại thừa Mahayana, và tiếp theo là Tan-tra thừa (Mật tông), tất cả đều phát xuất từ Ấn độ. Tan-tra thừa đã xuất phát từ đất Ấn có nghĩa là nền Phật giáo bành trướng ở Tây tạng dù thừa hưởng tinh anh của các truyền thống Tây tạng, nhưng các nguyên lý triết học của nền Phật giáo ấy đều đã được du nhập từ Ấn độ. Quả thật đây là một biến cố tuyệt vời đã xảy ra suốt một ngàn năm trăm năm trên đất Ấn, và vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay, đó là những gì hết sức lạ thường.
A.G.: Thưa ông Christophe Boisvieux, ông có thể cho biết thêm một cách chính xác hơn Phật giáo từ Ấn độ đã lan rộng ra như thế nào ?
C.B.: Thưa vâng, từ lúc đầu, khi Đức Phật thuyết giảng, chưa có chữ viết trong vùng thung lũng Sông Hằng. Đấy chỉ là cách truyền khẩu. Và vào thời đại Thiên chúa giáo, các văn bản mới được ghi chép và truyền tụng, từ thầy đến đồ đệ (2). Đây là một nguyên tắc thật căn bản. Trong một số các đường hướng tu tập Phật giáo, đặc biệt tôi muốn nêu lên trường hợp của Phật giáo Tây tạng, đối với nền Phật giáo này, sự truyền thụ từ thầy sang đồ đệ thật là chủ yếu. Về sau, một số các vị thầy đã đảm trách vai trò chủ yếu trong việc bành trướng Đạo Pháp. Tôi cũng nghĩ đến trường hợp Trung quốc, tức nghĩ đến ngài Bồ-đề-đạt-ma đã mang Đạo Pháp vào Trung quốc từ thế kỷ thứ VI (3). Và sau đó, một vị thầy khác đã tạo được một tầm ảnh hưởng quyết định cho Tây tạng vào khoảng thế kỷ thứ VII : đó là vị thầy đầy mầu nhiệm tên là Liên Hoa Sinh (Padmasambhava). Chính sự rạng rỡ của các vị thầy như trên đây đã giúp cho Phật giáo lan rộng.
A.G.: Ta có thể nói rõ hơn một chút để giải thích về ảnh hưởng địa lý trong sự bành trướng của Phật giáo hay chăng ? Theo tôi hình như có hai cửa ngõ khác nhau ?
C.B.: Đúng vậy, thứ nhất là con đường tơ lụa đi về phương Bắc, tôi muốn nói là con đường của các đoàn du mục xuyên qua sa mạc, tuy đây là con đường thương mại, nhưng đồng thời cũng là con đường của tín ngưỡng. Chính bằng cửa ngõ này Phật giáo đã đến với Trung quốc trước hết, sau đó từ Trung quốc đến Triều tiên. Triều tiên lại tiếp tục trở thành đầu cầu cho Phật giáo lan truyền vào Nhật bản. Tiếp theo, về phương Nam lại có con đường hàng hải, nối liền một trong những trung tâm quan trọng của Phật giáo là Tích lan với các nước Đông Nam Á, như Thái lan, Miến điện, Cam-pu-chia. Phật giáo còn lan tràn sang cả In-đô-nê-xia, nhưng ngày nay đã suy tàn. Trước đây Phật giáo hết sức phát triển trên phần đất này.
A.G.: Để có thể nắm vững hơn về Phật giáo trong tình trạng hiện nay, có thể chúng ta cần nói thêm về lịch sử Phật giáo và ba truyền thống chính là Phật giáo Nguyên thủy, Đại thừa và Kim cương thừa. Ông có thể giải thích thêm vài nét chính về các truyền thống ấy hay chăng ? Ta hãy bắt đầu với Phật giáo Nguyên thủy ?
O.GT: Phần cốt lõi phát xuất từ nước Ấn, nhưng sau đó chính khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác. Thật ra, những dị biệt giữa các học phái, hay là giữa các thừa Phật giáo khác nhau, chỉ vỏn vẹn liên quan đến hai điểm : thứ nhất là truyền thống văn hoá của quốc gia mà Phật giáo phát triển, thứ hai là các văn bản mà các vị thầy đã sử dụng. Đối với trường hợp Phật giáo Nguyên thủy, các vị thầy căn cứ vào các văn bản tiếng Pa-li. Đối với Phật giáo Đại thừa, các văn bản sử dụng là tiếng Phạn. Và đối với Phật giáo Tan-tra, các văn bản lúc đầu là tiếng Phạn, nhưng ngày nay là tiếng Tây tạng. Nói như thế để hiểu rằng khi du hành trong các xứ đó, nếu có hai vị thầy gặp nhau, và khi họ gạt ra ngoài những tập quán văn hoá, thì cả hai đều nhận ra rằng họ đã cùng xuất phát từ một cội nguồn chung, đây quả thật là những gì hết sức tuyệt vời (4). Tuy thế, người ta vẫn phải thừa nhận trong thừa Tan-tra có nhiều điều thần bí, trong khi đó, thiền tông Zen chẳng hạn, lại tượng trưng cho những gì đơn giản nhất. Nhưng khi đã tu tập bằng thiền định, người ta cũng có thể hình dung bên trong mỗi người chúng ta những gì hiển hiện lên đều rất gần với nhau.
A.G.: Ông Christophe Boisvieux, ông cũng biết khá nhiều về Phật giáo Nguyên thủy, vậy ông có gì để trình bày thêm hay không ?
C.B.: Theo tôi thấy những gì lý thú và gây nhiều ấn tượng nhất trong Phật giáo Nguyên thủy, chính là sự kết hợp giữa tăng lữ và thế tục : tăng lữ không thể tồn tại nếu không có thế tục, toàn thể xã hội thế tục phục vụ cho tăng lữ, nhất là các phật tử cúng dường hàng ngày cho các nhà sư, đây là một giới hạnh được ghi chép từ những lời giảng huấn của Phật : một nhà sư, hay một tỳ kheo, phải tự mình khất thực. Giới hạnh này không thấy khuyến khích trong các truyền thống khác. Tôi nghĩ đến trường hợp của Kim cương thừa, đến Phật giáo Tây tạng chẳng hạn. Nhất định là có việc cúng dường cho tăng lữ, nhưng không phải dưới hình thức như trên đây. Cách cúng dường trên đây là một tập quán đã ăn sâu vào đời sống thường nhật, quả là những cử chỉ tuyệt đẹp. Thật hết sức xúc động khi nhìn thấy, vào buổi sớm tinh sương, các tín đồ đi chân đất để tỏ sự cung kính, đứng đợi trước ngưỡng cửa, chờ những nhà sư đi ngang để cúng dường thực phẩm.
A.G.: O.GT : Ông có thể cho chúng tôi biết các điểm đặc thù của Đại thừa hay chăng và nếu có thể, cả về Kim cương thừa nữa, Kim cương thừa có vẻ như là sự tiếp nối của Đại thừa ?
O.GT.: Điểm mới mẻ và nổi bật nhất của Đại thừa là sự xuất hiện của các vị Bồ-tát, đó là những sinh linh đã, hoặc có đủ khả năng để đạt được Phật tính, có nghĩa là thể dạng của Phật, nhưng họ lưu lại làm người để hướng dẫn kẻ khác trên đường đưa đến Giác ngộ và chấm dứt khổ đau. Vì thế, so với Phật giáo Nguyên thủy, đây là một hình ảnh mới được xuất hiện thêm. Nói như thế, nhưng người Phật giáo Đại thừa sẽ giải thích ngay cho chúng ta biết là chính Đức Phật đã thuyết giảng về Đại thừa trên đỉnh Linh Thứu, nhưng những lời thuyết giảng ấy được giữ bí mật (5), vì lẽ những người Phật giáo Đại thừa sẽ không chịu nhận là Phật giáo Tiểu thừa có trước. Đây chỉ là những tranh luận giữa các học phái có thể bỏ qua dễ dàng. Dù sao chăng nữa, trên bình diện tổng quát, người ta có thể bảo rằng hầu hết những biểu tượng trung gian là các thần linh, lần lượt được xuất hiện khi bước vào Đại thừa, và nhất là khi bước vào Kim cương thừa. Tuy nhiên, trong Đại thừa vẫn có những đường hướng tu tập hết sức đơn giản : đó là Thiền học. Thiền học xuất phát từ cách tu thiền trong Phật giáo gọi là định (dyana), từ đó phát sinh Thiền tông ở Trung quốc và học phái Zen ở Nhật bản, và cũng chính trong Thiền tông các biểu tượng trung gian trở nên kém quan trọng hơn, bởi vì phần chính yếu là đi tìm thực tính bên trong của mỗi người. Như quý vị thấy, tất cả những thứ này khá phức tạp, nhưng phần cốt yếu như đã nói trên đây, là những gì truyền thụ từ thầy đến đồ đệ, đó là những gì hệ trọng hơn tất cả những biểu tượng bên ngoài.
A.G.: Để bổ túc cho buổi phát hình này, hiện nay người ta đang chứng kiến tình trạng thăng tiến hay là thụt lùi của Phật giáo, tùy theo từng quốc gia, chẳng hạn như Hàn quốc ?
C.B.: Tại Hàn quốc, đúng ra là đang thoái lùi. Các nhà truyền giáo Phúc âm đã thực hiện những cố gắng thật lớn lao trong việc truyền giáo, dù rằng Phật giáo vẫn rất sinh động và giữ được truyền thống. Trái lại, tôi nghĩ rằng cái nắp vung úp lên các xứ cộng sản đang được hé mở dần dần, và ta thấy những xứ như Trung quốc ngày nay đang đổi mới thật quan trọng, nếu tôi có thể nói như thế, người ta thấy những ngôi chùa chật ních người. Và rồi, thật là kỳ thú khi trở lại những gì mà ông bạn Olivier vừa trình bày. Ngay trên đất Ấn, và từ khi nước này dành được độc lập, tuy rằng vẩn còn là thiểu số, đã có hàng loạt người thuộc giai cấp cùng đinh trở về với Phật giáo. Mỗi năm, nhiều chục ngàn người thuộc giai cấp bần hàn xin quy y tập thể, họ muốn thoát ra khỏi hệ thống phân chia giai cấp muôn đời của họ. Chính đó là nguồn gốc của sức mạnh Phật giáo, sức mạnh đó đã làm nổ tung cả hệ thống hết sức gò bó và chai cứng của hệ thống giai cấp, sức mạnh đó là sức mạnh của giải thoát. Chính như vậy, ngày nay người ta lại tìm thấy trên đất Ấn sự hồi sinh đó của sức mạnh Phật giáo.
A.G.: O.GT : Để kết thúc buổi phát hình hôm nay, tôi nghĩ rằng ông có một thí dụ hùng hồn, đó là trường hợp của Trung quốc ?
O.GT.: Vâng, tôi đã đi khắp Trung quốc, bằng xe hỏa hoặc bằng xe ô tô chở khách, và tôi thường đến viếng những ngọn núi thiêng liêng, và rồi tôi đã đến được một hòn đảo nhỏ, gọi là Pu-ko-chan, có thể nói là Núi Athos (6) thu nhỏ, nằm ngoài khơi của Thượng hải, đi tàu phải mất một đêm. Hòn đảo hoàn toàn dành riêng để thờ một vị Bồ tát biểu hiện bằng một hình ảnh nữ giới (7). Tôi thấy hàng ngàn phật tử, đàn bà, trẻ con, thanh niên, thiếu nữ, kéo nhau đi bộ hay quỳ xuống đất và đi bằng hai đầu gối, dọc theo con đường thật dài đưa lên ngôi chùa trên đỉnh của hòn đảo, để lễ Phật, nhất là để đãnh lễ vị Bồ tát với gương mặt nữ giới. Những gì ngoạn mục nhất, chính là nghĩ đến ngày hôm nay, theo những con số mới nhất, Trung quốc có 10% người theo Phật giáo. Nếu như Phật giáo có thể trở lại như là một thứ gì thật thiết yếu cho Trung quốc, thì nhất định bộ mặt của Á châu, và kể cả thế giới nữa, rồi sẽ hoàn toàn đổi mới. Vậy, chính nơi đó, sẽ xảy ra một thứ gì hết sức quan hệ, và dù sao đi nữa đấy cũng là một trường hợp vô cùng phấn khởi.
A.G.: Xin vô vàn cám ơn hai ông đã đến với chúng tôi hôm nay.
________________
Ghi chú của người dịch:
1- Cho đến đầu thế kỷ XX, Phật giáo là tôn giáo lớn nhất của nhân loại. Đầu thế kỷ XXI, Phật giáo tụt xuống hàng thứ tư.
2- Điều này không được đúng lắm. Tiếng Phạn cổ đã có từ thế kỷ XIV trước Tây lịch, bộ kinh Rig Veda (bộ kinh thứ nhất trong bốn bộ kinh của Ấn độ giáo) viết bằng tiếng Phạn được soạn thảo vào năm 3 900 trước Tây lịch. Những lời giảng huấn của Phật được vua A-dục sai khắc vào các trụ đá và bia đá từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch.
Theo truyền thống xưa ở Ấn độ, những gì truyền khẩu mang tính cách thiêng liêng, sinh động và mầu nhiệm, khác hẳn với những gì lưu giữ dưới dạng chữ viết. Trong Ấn độ giáo cũng thế, các bộ kinh cũng phải học thuộc lòng. Đối với Phật giáo, qua nhiều thế kỷ, những lời giảng của Phật được học thuộc và truyền khầu cho nhau, từ cha đến con, từ thầy đến trò, từ thế hệ này đến thế hệ khác. Vì thế phần lớn kinh Phật rất dài, lập đi lập lại liên tục, mỗi câu có khi chỉ thay một chữ, mục đích cho dễ nhớ. Kinh còn viết ở dạng thể thơ hoặc kệ để dễ học thuộc lòng. Chuông mõ đánh nhịp cũng là một phương tiện giúp trí nhớ khi tụng niệm. Hình thức truyền khẩu vẫn còn giữ đến ngày nay trong Tan-tra thừa (Mật tông).
Có giả thuyết cho rằng các lời giảng của Phật đã được ghi chép vào kỳ kết tập Đạo Pháp lần thứ hai sau khi Phật tịch diệt, nhưng không có tài liệu cụ thể nào chứng minh cho giả thuyết này.
3- Điều này không được đúng lắm, Phật giáo đã du nhập vào Trung quốc từ thế kỷ thứ I. Ngài Bồ-đề-đạt-ma chỉ đem Thiền Ấn độ vào Trung quốc.
4- Đúng vậy, đối với tất cả các tông phái và học phái Phật giáo, chưa hề có những cuộc tàn sát lẫn nhau hay chiến tranh triền miên, kể cả những hiềm khích hay hận thù, dù ở cấp bậc nhỏ cũng vậy. Người trong tất cả các tông phái đều là con của Phật, người phật tử chân chính đều ý thức được rằng tất cả chúng sinh đều sống trong vô minh, cái vô minh dầy đặc của ta chưa chắc đã sáng hơn cái vô minh u mê của kẻ khác, giúp nhau chưa đủ, ta đâu có xem cái vô minh của ta cao hơn, đúng hơn và trội hơn cái vô minh của kẻ khác. Đây là một đặc thù của Phật giáo mà ngưởi ta thường “quên”, (xin được phép mượn chữ “quên” do hai vị khách được phỏng vấn đã dùng đến trên đây).
5- Kinh điển Đại thừa bằng tiếng Phạn xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ I trước Tây lịch, kinh điển tiếng Pa-li xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ I trước Tây lịch, sự chênh lệch rất ít, do đó không thể nói Tiểu thừa hay Đại thừa xuất hiện trước. Theo truyền thống, Phật giảng tùy theo xu hướng, trình độ và năng khiếu của từng người hay từng nhóm người nghe giảng. Kinh sách Tiểu thừa ghi chép những buổi giảng đông đảo có tính cách đại chúng, trong khi đó kinh sách Đại thừa ghi chép những buổi thuyết giảng thu hẹp hơn.
6- Athos là một vùng núi linh thiêng ở Hy lạp, được thành lập vào thế kỷ thứ X với ít nhiều tự trị, gồm các tu viện thuộc Chính thống giáo. Đặc điểm của nơi này là cấm kỵ mọi sinh vật giống cái, trừ gà mái vì gà mái cho trứng nuôi các vị tu sĩ.
7- Tức là Quán thế âm Bồ tát hay Phật Quan Âm.