;
Sabba
danam Dhamma danam jinãti
Hiến dâng Sự Thật vượt cao hơn những hiến dâng
khác
Kinh Pháp Cú (Dhammapada, 354)
Hoang Phong
Phật Giáo Ấn Độ và Tây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp" (tridharmacakra) hoặc còn gọi là ba lần Chuyển Pháp Luân. Không nên nhầm lẫn cách phân loại và hệ thống hoá kinh điển theo ba vòng quay này với các lần "ôn tập" hay "kết tập" (samgiti) Đạo Pháp được tổ chức sau khi Đức Phật tịch diệt, với mục đích chỉnh đốn và bảo tồn sự trung thực của giáo huấn của Ngài. Có ít nhất ba lần kết tập quan trọng được tổ chức trong giai đoạn Đạo Pháp còn được truyền khẩu và sau đó còn có thêm khoảng năm lần kết tập khác, và lần sau cùng đã được tổ chức ở kinh đô Rangoon của Miến Điện vào năm 1950.
Phật Giáo
Cách phân loại giáo huấn của Đức Phật
thành "ba vòng quay" của Phật Giáo Ấn Độ và Tây Tạng tỏ ra khá phù hợp
với các diễn tiến và biến đổi của Đạo Pháp theo dòng lịch sử, do đó bài viết
này sẽ dựa vào hệ thống trên đây để phân tích một vài đường nét "tiến
hóa" chính yếu của Đạo Pháp theo dòng thời gian, và nhân đó sẽ tìm hiểu
thêm về tính cách chính thống của kinh sách nói chung cũng như sự hình thành của
các tông phái và học phái khác nhau.
1- Vòng Quay Thứ
Nhất:
Bốn Sự Thật
khái niệm không có cái tôi
Đức Phật
khởi động bánh xe Đạo Pháp lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Mrgadava) ở Ba-la-nại
(Varanasi) với các bài thuyết giảng về Bốn Sự Thật
Khái niệm về Bốn Sự Thật
Bốn Sự
Thật
1- Sự thật về khổ đau
(duhkhasatya): đó là những thứ khổ đau do vô thường gây ra, như già nua, bệnh tật
và cái chết, khổ đau vì không thực hiện được đúng với sự mong muốn của mình, khổ
đau vì phải gánh chịu những gì mình không thích.
2- Sự thật về nguyên nhân của
khổ đau (duhkhasamudayasatya) : nguyên nhân gây ra khổ đau là sự thèm muốn
và mọi thứ xúc cảm bấn loạn phát sinh từ sự u mê và thiếu hiểu biết về bản thể
đích thật của chính mình và của mọi sự vật chung quanh.
3- Sự thật về sự chấm dứt khổ
đau (nirodhasatya): làm chấm dứt các nguyên nhân mang lại khổ đau là một việc
có thể thực hiện được. Loại bỏ được sự u mê tức là sự hiểu biết sai lầm của
mình là cách mang lại cho mình niềm an vui và sự an bình của Niết Bàn.
4- Sự thật của Con Đường
Khái niệm về Tám Điều Đúng Đắn (Margasatya)
Tám Điều
Đúng Đắn gồm có:
1- hiểu biết
đúng (samyag drsti)
2- suy nghĩ đúng (samyak samkalpa)
3- ăn nói đúng (samyag vac)
4- hành động đúng (samyak karmanta)
5- sinh sống đúng (samyag ajiva)
6- cố gắng đúng (samyag vyayama)
7- chú tâm đúng (samyak smrti) (có nghĩa là ý
thức đúng được bản chất của chính mình và mọi sự vật)
8- tập trung tâm thần đúng (samyak
samadhi) (có nghĩa là thiền định đúng)
Tám Điều Đúng Đắn trên đây liên quan
đến ba lãnh vực khác nhau: trí tuệ (điều 1 và 2), đạo đức (điều 3, 4 và 5), tâm
thần (điều 7 và 8). Đấy là ba lãnh vực tu tập chính yếu nhất của tất cả những người
Phật Giáo.
Trước hết người tu tập phải thấu triệt
thế nào là Bốn Sự Thật
Khái niệm về
cái tôi (atman)
Khi ta trèo lên một
cái thang hay đứng trên sân thượng của một tòa nhà nhiều tầng và nhìn xuống đất
thì có thể sẽ bị chóng mặt vì sợ ngã, đấy là một hình thức phát lộ của "cái
tôi". Ngược lại khi ta đứng trên mặt đất bằng phẳng thì thể dạng ấy của
"cái tôi" không hiện ra, ta cảm thấy an tâm hơn, và đấy lại là
"cái tôi" trong một thể dạng khác đang hiển hiện. Khi băng qua đường
ta nhìn bên phải, bên trái, trông trước, trông sau để tránh xe cộ, thế nhưng nếu
thấy con đường vắng tanh thì ta an tâm hơn và cứ băng xéo qua đường để đến nơi
mình muốn nhanh hơn, đấy là cách phát lộ hai thể dạng của "cái tôi"
trong hai trường hợp khác nhau. Nếu một người nào đó vu khống hay nói những lời
xúc phạm đến mình thì ta bừng bừng nổi giận, hoặc ngược lại nếu người này nói
lên những lời tâng bốc thì sẽ khiến mình vui thích, hớn hở, đấy cũng là những cách
phát lộ khác nhau của các "cái tôi". Nếu một người thanh niên nói với
một thiếu nữ một câu tán tỉnh dịu dàng thì cô nàng đỏ mặt, đôi mắt chớp chớp, đấy
là sự phát lộ của cái tôi nơi người thiếu nữ. Một người thất tình và chỉ muốn tự
tử thì đấy là "cái tôi" đang xúi dục người ấy. Một người mất trí ngồi
khóc hay cười sằng sặc một mình thì đấy là một cái tôi lâm vào tình trạng
"điên loạn". Khi trông thấy những thức ăn ngon hay hàng hóa đắt tiền
bày bán trong các cửa hàng thì mình muốn được ăn những thức ăn ấy hay chiếm hữu
những vật ấy, đấy là "cái tôi" biểu lộ sự thèm khát của nó. Một thanh
niên trông thấy một cô gái đẹp, thì "cái tôi" sẽ hiện ra xuyên qua một
số ý nghĩ nào đó trong đầu. Một thiếu nữ ngắm nhìn chân dung mình trong gương,
nghiêng đầu, vén tóc, mỉm cười... để xem mình có duyên dáng hay không, thì đấy
cũng là cách cố tình biểu lộ "cái tôi" và lo lắng cho những cái
"của tôi" của chính mình, v.v. và v.v... Đối với các phản ứng đại loại
hiện ra liên tiếp trong tâm thức đưa đến những phản ứng và các cách hành xử thường
nhật như trên đây thì đấy là "cái tôi" hay cái "của tôi" của
chính mình.
Nếu có ai gọi đúng tên
mình thì mình quay đầu lại ngay, đấy là cách tự đồng hóa tên gọi của mình với "cái
tôi" của mình. Cha mẹ tùy hứng sinh ra ta và cũng tùy hứng đặt cho ta một
tên gọi. Càng lớn lên cái tên gọi ấy càng ăn sâu và in đậm trên dòng tiếp nối của
tri thức và trở nên "cái tôi" của chính mình. Ta tự buộc chặt mình
vào cái tên gọi ấy, bám vào nó như một thứ gì đó thuộc gia tài riêng của mình. Nó
tạo ra cho ta cái cảm tính chính mình là "chủ nhân ông" của cái tên gọi
ấy. Có những chàng mang tên rất oai hùng thế nhưng mỗi khi trông thấy ma hiện
hình thì mặt mày xanh mét. Có những nàng mang tên rất dịu hiền thế nhưng mỗi
khi cãi nhau tay đôi thì không thua ai cả. Nếu xem cảm tính về cái mớ hỗn tạp ấy
gồm có tên gọi và những thứ phản ứng như vừa kể trên đây là "cái tôi"
của chính mình thì đấy là một sự lầm lẫn to lớn.
Bám víu vào sự tạo dựng
sai lầm đó là cách tự giam mình vào những khổ đau của chính mình. Làm giảm bớt
đi tác động của các thứ xúc cảm níu kéo ấy và đồng thời phát huy được sự tỉnh
giác thì các hình thức ích kỷ mang tính cách bản năng sâu kín ấy của "cái
tôi" cũng sẽ giảm bớt đi. Nếu xóa bỏ được hình ảnh của "cái tôi"
do mình tạo dựng ra nhờ cách quán thấy được tính cách cấu hợp tạm thời của năm
thành phần (ngũ uẩn) tạo ra một cá thể con người thì tính cách ảo giác và giả tạo
của "cái tôi" và cái "của tôi" cũng sẽ hiện ra rõ rệt hơn.
Đức Phật bảo rằng tất
cả những thứ ấy không thật, không hiện hữu một cách tự tại và bất biến và cũng
không trường tồn. Chúng chỉ là những biểu lộ tạm thời phát sinh từ vô số cơ
duyên và điều kiện liên kết với nhau: từ bối cảnh bên ngoài cho đến các xung
năng và tác ý bên trong tâm thức cũng như sự vận hành chung của năm thứ cấu hợp
tạo ra mỗi cá thể con người.
Tu tập để loại bỏ sự
chi phối của "cái tôi" và cái "của tôi" chính là khía cạnh chủ
yếu trong giáo lý "vô ngã" mà Đức Phật đã thuyết giảng trong bài kinh
Anattalakkhana-sutta (Kinh về Giáo Lý Vô Ngã).
Khái niệm về vô thường
(anitya)
Ngoài giáo lý về "vô
ngã" trên đây Đức Phật còn cho chúng ta thấy một quy luật thiên nhiên vô
cùng phổ quát chi phối toàn bộ sự vận hành của thế giới, đấy là bản chất vô thường
của mọi hiện tượng, tức là bản chất thường xuyên biến động và đổi thay của mọi
sự vật. Bên trong sự chuyển động thường xuyên đó còn tàng ẩn một quy luật vô
cùng khắt khe là quy luật của nghiệp hay quy luật nguyên-nhân-hậu-quả luôn chi
phối và điều hành toàn bộ thế giới.
Nêu lên tính cách vô
thường của mọi hiện tượng là cách mà Đức Phật nhắc nhở chúng ta phải ý thức được
sự quý giá của thể dạng con người mà chúng ta đang hiện có, bởi vì trên dòng
luân lưu và biến đổi liên tục của tri thức, không mấy khi chúng ta hội đủ điều
kiện để đạt được thể dạng con người. Cái thể dạng ấy chỉ xảy ra và chỉ có thể hiện
hữu trong một khoảng thời gian thật ngắn. Long Thụ có nói như sau: "Một con thú muốn hội đủ điều kiện để trở
thành con người cũng khó khăn như một con rùa mù lòa lặn ngụp dưới đáy đại
dương muốn chui đầu vào một cái ách bằng gỗ nổi trôi trên mặt nước"
(trích trong Mulamadhyamaka- karika). Thể dạng con người thật khó để
có nó thế nhưng chỉ có thể dạng ấy mới hội đủ khả năng để hiểu được Đạo Pháp là
gì.
Tóm lại trong vòng
quay thứ nhất của bánh xe Đạo Pháp Đức Phật đã nêu lên bản chất khổ đau của sự
hiện hữu và các khái niệm liên quan đến luân hồi và niết bàn và các nguyên tắc
đạo đức liên quan đến hành vi của một cá thể. Các khái niệm này được thiết lập
trên nguyên tắc tương phản: tương phản giữa thể dạng trói buộc và khổ đau của "cõi
luân hồi" (samsara) và thể dạng an bình và giải thoát của "cõi niết
bàn" (nirvana); tương phản giữa tính cách tiêu cực và tích cực trong từng
hành động, ngôn từ và tư duy của mỗi cá thể. Sự tương phản phổ quát đó giúp cho
mỗi cá thể ý thức được thế nào là một hành động đúng, thế nào là một hành động sai,
hầu tự mình kiểm soát lấy hành vi của chính mình. Qua từng hành động, ngôn từ
và tư duy mỗi cá thể phải tạo ra những điều tích cực và đạo hạnh, đấy là những
gì sẽ tác động và ảnh hưởng đến dòng tiếp nối liên tục của tri thức của mình
trong hiện tại cũng như trong các kiếp sống tương lai. Đấy là căn bản giáo huấn
đầy đủ, trọn vẹn và thiết thực của vòng quay thứ nhất nhằm giúp cho mỗi cá thể nhận
thấy Con Đường mà mình phải bước theo.
Căn bản giáo huấn trên
đây được gom chung vào hai tạng kinh là Vinayapitaka
(Luật Tạng) và Suttapitaka (Kinh Tạng). Hai tạng kinh này làm nền tảng cho toàn bộ giáo huấn của
Phật Giáo "Nguyên Thủy" còn gọi là Phật Giáo "Tiểu Thừa". Thật
ra cả hai thuật ngữ khá quen thuộc và thông dụng này đều không được chính xác lắm,
do đó tốt hơn hết nên gọi tông phái này là Phật Giáo Theravada.
Ngoài hai tạng kinh trên
đây, vòng quay thứ nhất còn gồm thêm một tạng thứ ba là Abhidhammapitaka (Luận Tạng).
Abhidhammapitaka không hẳn là một tạng
kinh, bởi vì những gì ghi chép không phải là những lời giảng huấn của Đức Phật
mà chỉ là những lời bình giảng về giáo huấn của Ngài do các vị đại sư sau này soạn
thảo. Có một giả thuyết cho rằng một phần những lời bình giảng trong Luận Tạng có nguồn gốc rất xưa, từ những
thời kỳ truyền khẩu, thế nhưng phần lớn những lời bình giảng đều là những trước
tác sau này. Dù sao thì Phật Giáo Theravada vẫn xem các văn bản trong Luận Tạng là những gì thật thiết yếu giúp
thấu triệt giáo huấn của Đức Phật, và do đó đã chấp nhận toàn bộ ba tạng kinh trên
đây và xem đấy là một nền tảng giáo huấn đầy đủ và mạch lạc, không cần phải
ghép thêm bất cứ một kinh sách nào khác. Ba tạng kinh trên đây được gọi chung
là Tam Tạng Kinh (tiếng Pa-li là Tipitaka, tiếng Phạn là Tripitaka). Dù sao đi nữa thì tất cả các
tông phái và học phái Phật Giáo khác cũng đều thừa nhận Tam Tạng Kinh của vòng quay thứ nhất là nền móng giáo huấn của Đức
Phật và do chính Đức Phật thuyết giảng.
2- Vòng quay thứ hai của bánh xe Đạo Pháp:
Tánh không và Quy Luật Tương Liên
Nếu
vòng quay thứ nhất nêu lên bản chất khổ đau của thế giới, các nguyên tắc vận
hành của mọi hiện tượng và hậu quả do hành vi của mỗi cá thể tự tạo ra cho mình
với mục đích giúp mỗi cá thể ý thức được Con Đường cần phải bước theo, thì vòng
quay thứ hai cũng vẫn tiếp tục khai triển sâu rộng hơn căn bản giáo huấn trên
đây thế nhưng đồng thời cũng đưa ra nhiều cách diễn đạt mới về căn bản giáo huấn
trên đây và do đó cũng đã đưa đến một số đổi thay nhất là trên phương diện tu tập.
Thật vậy vòng quay thứ hai trùng hợp với sự lớn mạnh của Đại Thừa Phật Giáo và
sự hình thành của một tông phái mới là
Trên
phương diện giáo huấn, sự kiện quan trọng nhất đã xảy ra trong vòng quay thứ
hai là sự hình thành của
Khái niệm về tánh không
(sunyata)
Khái niệm về tánh không không phải đơn
giản chỉ là một thể dạng quán thấy của tâm thức, cũng không phải là một lý tưởng
mà người tu tập phải đạt cho bằng được, mà đúng hơn là một phương tiện cụ thể
và "thiện xảo" (upaya) giúp người tu tập phát huy khả năng quán thấy cách
hiện hữu đích thật của mọi hiện tượng. Thể dạng hiện hữu ấy vượt lên trên sự khẳng
định cũng như phủ định, có nghĩa là khi nhìn vào một hiện tượng chúng ta không
thể bảo rằng nó "có" hay "không có", bởi vì "có"
hay "không có" cũng chỉ là những biểu hiện tạm thời lệ thuộc vào sự
tương tác của vô số các hiện tượng khác. Lúc thì "có" lúc thì
"không có" chính là tánh không của tất cả mọi hiện tượng. Quán thấy được
tánh không ấy sẽ khiến cho tâm thức của một cá thể không còn bám víu vào sự "hiện-hữu"
cũng như "không-hiện-hữu" của mọi sự vật và không còn xem mình là trung tâm của thế giới. Đây cũng là cách mở rộng tình
nhân ái và lòng từ bi hầu giúp một cá thể phát huy trí tuệ của mình.
Đức Phật thuyết giảng giáo huấn về
tánh không trên đỉnh Linh Thứu ở Rajagrha, và những lời giảng này đã được ghi
chép lại trong bộ kinh thật đồ sộ là Prajnaparamita-sutra
("Kinh về sự hiểu biết siêu nhiên",
dịch âm là Kinh Bát Nhã Ba
Khái niệm về
sự tương liên (pratityasamutpada)
Thật ra thì khái niệm này cũng đã được
chính Đức Phật nêu lên trong các kinh Nidana
và Mahanidana-sutta (Kinh ngắn và Kinh dài về Lý Duyên Khởi), thế nhưng Long Thụ đã triển khai rộng
rãi khái niệm này và đặt vào một vị trí thật quan trọng trong giáo lý của
Một cách vắn tắt là tất cả mọi hiện
tượng đều mang tính cách cấu hợp nhờ vào sự tương liên và tương kết của vô số
hiện tượng khác mà có, và chính các hiện tượng này lại tạo ra những điều kiện cần
thiết để làm phát sinh ra các hiện tượng khác. Tóm lại là các hiện tượng níu
kéo nhau, xô đẩy nhau để cùng vận hành và chuyển động, tương tự một chuỗi dài các
hiện tượng móc nối nhau trong một tình trạng đổi thay bất tận. Sự kiện trên đây
cho thấy mọi hiện tượng trong thế giới không do sức mạnh của một vị Trời tối
thượng và trường tồn nào cả đã tạo ra, mà chỉ là hậu quả tất yếu mang lại từ sự
tương tác giữa các nguyên nhân và các điều kiện liên hệ với những hiện tượng ấy.
Điều này cho thấy rằng chẳng những các hiện tượng đều là cấu hợp và vô thường
mà cả các nguyên nhân và điều kiện tạo ra chúng cũng mang bản chất cấu hợp và
vô thường.
Khái niệm về
hai sự thật (dvasatya)
Nói chung Phật giáo nhìn sự hiện hữu
hay hiện thực dưới hai góc cạnh khác nhau gọi là "hai sự thật" hay
"hai hiện thực": "hiện thực tương đối" và "hiện thực
tuyệt đối". Tất cả các học phái lớn như Theravada, Vaibhasika (Tì-bà-sa luận),
Sautrantika (Kinh lượng bộ) thuộc vòng quay thứ nhất, Madhyamaka (
"Hiện thực tương đối"
(samvrtisatya) nguyên nghĩa của nó là "hiện thực bao bọc bên ngoài"
còn gọi là "hiện thực quy ước", tức là cách biểu lộ bên ngoài của mọi
hiện tượng, hay nói một cách đơn giản hơn thì đấy là những gì "nhìn thấy bằng
mắt". Thật ra thì những thứ ấy chỉ là những biểu hiện tạm thời phát sinh từ
sự tương liên và tương tạo giữa các hiện tượng, chi phối bởi quy luật
nguyên-nhân-hậu-quả. Tất cả các hiện tượng nhận biết được qua các biểu hiện bên
ngoài như trên đây đều thuộc vào lãnh vực của sự thật tương đối.
"Hiện thực tuyệt đối"
(paramarthasatya) hay "hiện thực tối hậu" chỉ định bản chất đích thật
của mọi hiện tượng. Những người bình dị thường không nhận biết được sự khác biệt
giữa hai sự thật tương đối và tuyệt đối của mọi sự vật, bởi vì họ chỉ cảm nhận
được duy nhất hiện thực tương đối xuyên qua các giác quan của họ. Cũng xin nhắc
lại là Phật Giáo xem tâm thức cũng là một giác quan và do đó các đối tượng của nó
là tư duy và xúc cảm cũng chỉ là những sự thật tương đối.
Cũng xin lưu ý là các cách định
nghĩa và giải thích khác nhau về hai sự thật hay hai hiện thực là một trong những
nguyên nhân và lý do chính yếu nhất đã làm phát sinh ra các tông phái và học
phái khác nhau. Đây là một chủ đề khá phức tạp không thể giải thích chi tiết trong
khuôn khổ của bài viết này và sẽ chỉ được nhắc lại một cách sơ lược khi trình
bày về một số tông phái lớn mang tính cách triết học trong các phần sau.
Khái niệm về
người Bồ-tát (bodhisattva)
Khái niệm về người bồ-tát là một trong những
khái niệm tiêu biểu của "Đại Thừa" nói chung, tuy nhiên Phật Giáo
"Nguyên Thủy" hay Theravada cũng có nêu lên khái niệm này, thế nhưng lại cho rằng phép tu tập của người
bồ-tát nhằm đạt được sự Giác Ngộ tối thượng của một vị Phật toàn thiện sẽ vô
cùng khó khăn, trong khi đó phép tu tập để trở thành một vị A-la-hán sẽ dễ dàng
và thực tế hơn. Thật vậy người bồ-tát đặt ra cho mình một lý tưởng quá cao, tức
là không cầu mong đạt được thể dạng A-la-hán, cũng sẽ không hội nhập vào niết
bàn, mà chỉ ước nguyện được trở thành một vị Phật toàn thiện (Samyaksambudha /
Chánh đẳng chánh giác Phật) và sau đó cũng sẽ tiếp tục lưu lại trong thế gian
này muôn vạn kiếp hầu có thể cứu độ chúng sinh một cách hữu hiệu hơn.
Tóm lại vòng quay thứ hai đánh dấu một
giai đoạn phát triển thật quan trọng của Đạo Pháp với sự hình thành của Đại thừa
Phật Giáo và học thuyết
3- Vòng quay thứ ba của bánh xe Đạo Pháp
Bản-thể-của-Phật, tất cả chỉ là tâm thức,
ba bản chất của mọi hiện tượng
Vòng
quay thứ ba của bánh xe Đạo Pháp đánh dấu một giai đoạn phát triển có thể nói
là hưng thịnh nhất của Đạo Pháp với sự xuất hiện của nhiều khái niệm mới và thật
căn bản như: "Bản-thể-của-Phật" (Tathagatagarbha), "tất cả chỉ
là tâm thức" (cittamatra), "ba bản chất của mọi hiện tượng"
(trilaksana),v.v... Vậy các khái niệm này là gì?
Khái niệm về Bản-thể-của-Phật
(Tathagatagarbha)
Nếu
trong vòng quay thứ nhất, Đức Phật nêu lên giáo lý về vô ngã tức là không có "cái
tôi" và nếu trong vòng quay thứ hai giáo lý này được mở rộng và nêu lên một
tầm nhìn mang tính cách thật bao quát liên quan đến sự trống không của tất cả mọi
hiện tượng, thì trong vòng quay thứ ba khái niệm về tánh không lại được hình
dung theo một chiều hướng hoàn toàn mới mẻ qua những khái niệm thật cụ thể và
tích cực gọi là Bản-thể-của-Phật, Phật tính, v.v...
Chúng
ta đã thấy trong vòng quay thứ hai trên đây các phép tu tập được hướng vào sự quán
thấy tánh không tuyệt đối với mục đích hóa giải một quy luật vô cùng phức tạp
và chặt chẽ gọi là "quy luật tương liên, tương tác và tương tạo giữa mọi
hiện tượng" trong đó gồm chung quy luật "nhân-quả", với mục đích
nhằm loại bỏ mọi nguyên nhân mang lại khổ đau, và phép tu tập này được gọi là "con
đường tiêu cực". Trái lại trong vòng quay thứ ba một đường hướng tu tập mới
mang tính cách tích cực hơn đã được hình thành. Tánh không tuyệt đối và tối thượng
được thay bằng một khái niệm cụ thể hơn, đó là Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai
Tạng, Phật tính, Chân Như, Hiện Thực, Pháp Thân, v.v... Phép tu tập này gọi là "con
đường tích cực".
Sự cụ thể hóa hay "vật thể hóa"
(chosification / reification) tánh không để biến nó trở thành Bản-thể-của-Phật
là một sự kiện vô cùng quan trọng giúp người tu tập phát lộ dễ dàng hơn các thể
dạng tâm thần cần thiết cho việc biến cải tâm thức của mình, tương tự như không
gian thật cần thiết để giúp cho mọi hiện tượng có thể hiển hiện dưới muôn ngàn
hình sắc khác nhau. Tóm lại cách quán nhìn linh động và tích cực đó về tánh
không mang lại cho người tu tập những khả năng thiết yếu giúp mình hình dung ra
các thể dạng vượt lên trên cả hai đặc tính vừa trống-không lại vừa không-trống-không
của mọi hiện tượng, nói một cách khác là vượt lên trên sự hiện-hữu và phi-hiện-hữu
của hiện thực, kể cả các thứ nhãn hiệu bằng ngôn từ quy ước mà chúng ta đem gán
cho chúng. Đấy cũng chính là cách giúp cho người tu tập hiểu được ý nghĩa của một
câu thật nổi tiếng trong Tâm Kinh: "Trống
không là hình tướng, hình tướng là trống không".
Trong
vòng quay thứ hai tánh không được xác định bởi các cách lý luận dựa vào sự vào
nguyên tắc bất hợp lý gọi là tứ đoạn luận do Long Thụ đưa ra. Các cách lý luận
này được xem như là một phương tiện giúp người tu tập phá vỡ mọi sự tạo dựng của
tâm thức dựa vào sự hiểu biết công thức và quy ước. Thật vậy chỉ khi nào loại bỏ
được mọi hình thức hiểu biết áp đặt bởi nguyên tắc nhị nguyên - có nghĩa là phải
có chủ thể hiểu biết và đối tượng để hiểu biết - thì khi đó bản chất của hiện
thực mới có thể hiện ra được. Chính đấy là cách mà căn bản giáo huấn trong vòng
quay thứ ba đã cho rằng bản chất ấy của hiện thực cũng chính là bản chất nguyên
sinh phi-nhị-nguyên của tâm thức. Sự nhất thể ấy giữa hiện thực và tâm thức mang
tính cách rất thực và tròn đầy và được xem là sự "viên mãn của tánh
không" (plenitude of emptiness). Thể dạng tâm thức quán thấy được, hay cảm
nhận được sự tròn đầy (plenitude / fullness) ấy của tánh không chính là Bản-thể-của-Phật
hay Phật tính.
Sự
chuyển hướng này của vòng quay thứ ba vừa mang tính cách thực dụng lại vừa mang
những khía cạnh tâm lý học thật tinh tế, và cũng đã báo hiệu rõ rệt sự xuất hiện
của các tông phái lớn là Duy Thức Học, Kim Cương Thừa và Thiền Học. Ngoài ra
khái niệm về Bản-thể-của-Phật hay Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Thân... còn
tàng ẩn bên trong nó một thể dạng thiêng liêng nào đó. Chính tính cách thiêng
liêng này đã ảnh hưởng đến các phép tu tập và đã làm phát sinh ra nhiều hình thức
nghi lễ đủ loại và do đó cũng đã góp phần tích cực chuyển dần Đạo Pháp của Đức
Phật trở thành một tôn giáo theo ý nghĩa ngày nay.
Khái
niệm Bản-thể-của-Phật chỉ bắt đầu được nêu lên thật rõ ràng và dứt khoát kể từ
thế kỷ thứ III trong các kinh như: Tathagatagarbha-sutra
(Như Lai Tạng Kinh, khoảng đầu thế kỷ
thứ III), Shrimaladevishimhanada-sutra
(Kinh về hoàng hậu Maladevi và tiếng rống
của sư tử, còn được gọi tắt là Thắng Man Kinh), Avatamsaka-sutra (
Khái
niệm về Bản-thể-của-Phật hay Phật tính cũng đã được trình bày chi tiết trong
kinh Lankavatara-sutra (Nhập Lăng Già Kinh) và kinh này được xem như do chính Đức Phật thuyết giảng khi Ngài đến
Tích Lan. Thế nhưng dựa vào một số dữ kiện lịch sử thì kinh này có thể đã được
trước tác nhiều lần kể từ thế kỷ thứ I đến thứ III. Dù sao thì kinh này cũng
cho thấy thật rõ rệt là nội dung thuộc giáo huấn của vòng quay thứ ba, và bản dịch
tiếng Hán đầu tiên của kinh này đã được thực hiện vào năm 443, tức cũng trùng hợp
với vòng quay thứ ba. Lankavatara-sutra
cũng là bộ kinh mà sau này Bồ-đề Đạt-ma đã dùng làm nền tảng để thiết lập Thiền
Tông tại
Phật
Tính cũng đã được triển khai trong kinh Mahaparinirvana-sutra
(Đại Bát Niết Bàn Kinh, đầu thế kỷ thứ
III) và trong kinh Sanmdhinirmocana-sutra
(Giải thâm mật kinh, thế kỷ thứ
I-III) là một bộ kinh căn bản của Duy Thức Học (Cittamatra). Các phiên bản sơ
khởi và xưa nhất của kinh này có thể đã được trước tác từ thế kỷ thứ I hay thứ
II, phiên bản sau cùng được hoàn tất vào
thế kỷ thứ III và Vô Trước cũng có viết một tập bình giải về kinh này vào thế kỷ
thứ IV.
Khái niệm "tất cả đều
là tâm thức" (cittamatra)
Một
sự diễn đạt mới và quan trọng thứ hai về Đạo Pháp thuộc vòng quay thứ ba là
khái niệm cho rằng "tất cả đều là tâm thức". Điều này có nghĩa là mỗi khi tri thức nhận biết
được một hiện tượng nào đó thì tức khắc nó dán ngay lên hiện tượng đó một nhãn
hiệu và xem hiện tượng ấy thuộc vào lãnh vực bên ngoài nó và hoàn toàn cách biệt
với nó. Thí dụ những dòng chữ này mà chúng ta đang đọc trên màn ảnh máy vi tính
và tưởng rằng đấy là một thực thể cách biệt không liên hệ gì với tri thức của chính
mình, bởi vì đó chỉ là một bài viết của một người tên là X hay Y nào đó. Thế
nhưng tính cách bên ngoài ấy chỉ là một khái niệm đơn thuần, hay nói cách khác
là một sự "tưởng tượng", bởi vì đấy chỉ là một nhãn hiệu phát sinh
trong tâm thức người đọc và do chính người đọc đã gán cho những gì mà mình đang
đọc. Sự thấu triệt mà mỗi người đọc tiếp nhận được đều mang tính cách cá biệt, sự
thấu triệt đó đã được nhào nặn và biến đổi trong tâm thức của từng người và đã
trở thành một sản phẩm của tâm thức của chính người ấy. Vô Trước có viết một
câu như sau: "Tùy theo vị thế của mình, các thiên nhân, con người, súc vật
hay quỷ đói khi đối diện với một đối tượng duy nhất đều phát lộ những tư duy
hoàn toàn khác biệt nhau. Do đó có thể kết luận rằng đối tượng không thật sự hiện
hữu".
Những
dòng chữ này mà người đọc đang đọc trên màn ảnh máy vi tính trước mặt mình chỉ
là một sản phẩm hay một sự tạo dựng lệ thuộc vào vô số nguyên nhân và điều kiện:
chẳng hạn như những gì thuộc vào người viết thí dụ như học vấn, sức khoẻ, quyết
tâm, xúc cảm trong lòng của người ấy..., và những gì thuộc vào người đọc như cơ
duyên, sự tò mò, thì giờ rãnh rỗi, cũng như khả năng chú tâm của mình. Đấy là
chưa nói đến những điều kiện vật chất như chiếc máy vi tính, mạng lưới
Internet, v.v. và v.v... Những gì vừa trình bày chính là bản chất lệ thuộc và cấu
hợp của những dòng chữ này. Mặc dù chúng có vẻ như thuộc bên ngoài và khác với
tâm thức của mỗi người, thế nhưng tri thức nhận biết được chúng cũng như đối tượng
mà chính cái tri thức ấy nhận biết được - tức là các dòng chữ này - thật ra
không hàm chứa một sự hiện hữu tự tại nào cả. Sự hiện hữu của chúng chẳng những
không mang một thực thể nào mà thật ra chỉ là những biểu hiện của tánh không.
Những biểu hiện của sự trống không ấy chính là "bản chất được thiết đặt một
cách hoàn hảo" của mọi hiện tượng bên trong tâm thức của mỗi cá thể.
Tất
cả kinh điển thuộc vòng quay thứ ba của bánh xe Đạo Pháp đều nói lên khái niệm
trên đây: tất cả những gì mà chúng ta quán nhận được, hình dung ra được đều là
tâm thức. Trong kinh Dashabhumika-sutra
(Thập Địa Kinh, ch.VI, phẩm 3) có một
câu như sau: "Tất cả những gì hiện hữu trong tam giới nhất thiết chỉ là
tâm thức đơn thuần" (tam giới ở đây có nghĩa là ba cõi của luân hồi: dục
giới, sắc giới và vô sắc giới). Thiết nghĩ đây là một câu kinh vô cùng quan trọng.
Vị đại sư Thái Lan thật uyên bác là Buddhadhasa khi thuyết giảng về luân hồi,
tam giới, v.v... đều cho rằng tất cả những thứ ấy chỉ là những thể dạng khác
nhau thuộc vào quá trình vận hành liên tục của tâm thức, và đấy cũng là một
cách hiểu về luân hồi và tam giới dưới góc cạnh của khái niệm "tất cả đều
là tâm thức".
Kinh
sách tiếng Việt gốc Hán ngữ gọi khái niệm này là "vạn sự do tâm tạo",
thế nhưng nếu dịch chữ "cittamatra" là "vạn sự do tâm tạo"
thì không được sát nghĩa lắm. Thí dụ tách nước đặt trên bàn trước mặt ta không
do tâm thức "tạo ra" nó, mà đấy chỉ là một sự "nhận biết"
và "diễn đạt" của tâm thức, mang bản chất tâm thức, thuộc tâm thức và
ở bên trong tâm thức, nhằm áp đặt cho một thứ gì đó ở bên ngoài, tách nước mà
chúng ta nhận biết được trong tâm thức chỉ đơn thuần là một khái niệm, một sự tạo
dựng của tâm thức bên trong tâm thức.
Duy
Thức Học mang hai tên gọi khác nhau: nếu căn cứ vào nền tảng giáo lý thì gọi là
Cittamatra (tất cả là tâm thức / đơn thuần chỉ là tâm thức), hoặc căn cứ vào
các phép tu tập tức là các cách ứng dụng vào việc thiền định thì gọi là
Yogacara (Du-già thiền định). Duy Thức Học cũng còn được gọi là Vijnanavada (Học
Phái Tri Thức) hoặc Vijnaptimatra (Duy nhất chỉ có tư duy). Sở dĩ mạn phép dài
dòng vì nếu hiểu đúng được ý nghĩa một thuật ngữ thì cũng có thể đã giúp mình
hình dung ra được phần nào nội dung của khái niệm ấy.
Ngoài
hai khái niệm mới là "Phật tính" và "tất cả đều là tâm thức"
vòng quay thứ ba của bánh xe đạo Pháp còn cho thấy một khái niệm mới khá quan
trọng khác nữa đó là khái niệm về " ba bản chất" của mọi hiện tượng.
Khái niệm về "ba bản
chất" (trilaksana)
Nếu
trong vòng quay thứ hai các hiện tượng được xem là ảo giác và chỉ hiện hữu nhờ
vào sự tương liên, tương tác và tương tạo giữa chúng với nhau, thì trong vòng
quay thứ ba các hiện tượng được xem có ba bản chất khác nhau:
-
bản chất hoàn toàn mang tính cách tưởng tượng (parikalpitasvabhava): thí dụ tri thức tưởng tượng ra một cái
"ngã" mang tính cách cá thể. Cái ngã đó giữ một vai trò chủ động nhằm
gán cho mọi hiện tượng một sự "hiện hữu thật".
-
bản chất lệ thuộc (paratantrasvabhava):
tức là sự lệ thuộc giữa nguyên nhân và hậu quả, nói cách khác là tính cách lệ
thuộc hay trói buộc giữa các hiện tượng với nhau. Tóm lại là "mỗi" hiện
tượng thật ra biểu trưng cho cả một tổng thể kết nối gồm vô số các hiện tượng cấu
hợp tương kết với nhau để tạo ra "nó".
-
bản chất được thiết đặt một cách hoàn hảo (parinispannasvabhava):
có nghĩa là các hiện tượng nhận biết đúng như thế trong bối cảnh tương liên của
nó. Hiện tượng ấy đúng thật là như thế, không có bất cứ một sự diễn đạt mang
tính cách "giả tạo" hay "tưởng tượng" nào được ghép thêm
cho nó. Có thể hiểu "bản chất thiết
đặt một cách hoàn hảo" như là "bản chất đích thật" của các hiện
tượng.
Bộ
kinh căn bản của Duy Thức Học là kinh Samdhinirmocana-sutra
(Giải Thâm Mật Kinh) có đưa ra một
thí dụ rất cụ thể và dễ hiểu: thí dụ một tinh thể pha lê trong suốt được đặt
lên trên một tấm vải màu xanh. Ánh sáng phản chiếu từ tấm vải màu xanh xuyên qua
khối tinh thể khiến cho nó phát ra màu xanh. Hiện tượng hay sự cảm nhận về khối
tinh thể màu xanh mang "bản chất lệ thuộc" (paratantrasvabhava). Nếu chúng ta cho rằng khối tinh thể là màu
xanh có nghĩa là tự nó "có" màu xanh thì đấy là một sự tưởng tượng, một
sự diễn đạt của tâm thức, ảnh hưởng bởi sự cảm nhận sai lầm về màu xanh của khối
tinh thể. Vì vô minh chúng ta cho rằng khối tinh thể có màu xanh, thế nhưng đấy
chỉ là một sự tưởng tượng (parikalpitasvabhava).
Sau khi quan sát cẩn thận thì chúng ta nhận thấy khối tinh thể sở dĩ có màu
xanh là vì tấm vải bên dưới có màu xanh, thật sự ra thì khối tinh thể vẫn trắng
tinh và trong suốt. Do đó ảo giác cho rằng khối tinh thể là một viên "ngọc
bích" hiện ra trong tâm thức của chúng ta trước đây cũng sẽ hoàn toàn bị
loại bỏ. Sự loại bỏ bản chất lệ thuộc và tưởng tượng ấy sẽ giúp cho tâm thức nhận
biết được "bản chất được thiết đặt một cách hoàn hảo" (parinispannasvabhava) về khối tinh thể.
Tóm
lại căn bản giáo lý thuộc vòng quay thứ ba của Đạo Pháp cho thấy một sự chuyển
hướng thật toàn diện. Nếu tánh không và mọi hiện tượng trong thế giới được nhìn
qua một góc cạnh khá tiêu cực trong vòng quay thứ hai (tất cả chỉ là trống
không tuyệt đối), thì cả ba khái niệm mới trong vòng quay thứ ba là "Phật
tính", "tất cả đều là tâm thức" và "ba bản chất" đều
mang một khía cạnh rất thật và tích cực nào đó: một hạt bụi cũng có Phật tính, "tri-thức-căn-bản-của-tất-cả"
là thể dạng đích thật của tâm thức, bản chất được thiết đặt một cách vững chắc
là bản chất đích thật của mọi hiện tượng.
Nói chung vòng quay thứ
ba đặt nặng vai trò của tâm thức trong mọi sự diễn đạt về thế giới hiện tượng bên
ngoài và cả sự vận hành của chính nó. Khuynh hướng diễn đạt này đã khoác lên
cho Đạo Pháp nhiều khía cạnh tâm lý học vô cùng sâu sắc và tinh tế. Trong khi
đó thế giới Tây Phương phải chờ đến cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX mới bắt
đầu chập chững tìm hiểu sự vận hành của tâm thức là gì và đưa ra khái niệm về
tiềm thức (subconsciousness) qua các công trình khảo cứu của Sigmund Freud,
Carl Jung...
Dưới
đây là bảng tóm lược các điểm chính yếu thuộc ba vòng quay của bánh xe Đạo
Pháp:
Bảng tóm lược ba vòng quay của bánh
xe Đạo Pháp
Vòng quay thứ I (Đức Phật tại thế) |
Vòng quay thứ II (thế kỷ thứ I trước Tây Lịch đến thế
kỷ thứ III) |
Vòng quay thứ III (thế kỷ thứ III-IV đến thế kỷ thứ V-VI và sau
đó)
|
giáo
lý: Vô Ngã (Anatman) - Bốn sự thật cao quý (Tứ Diệu Đế) - Không có cái tôi (vô ngã) |
giáo
lý: Tánh Không (Sunyata) - Tánh không (sunyata) - Hiện tượng tương liên
(lý duyên khởi ) |
giáo
lý: Bản-thể-của-Phật (Tathagatagarbha) - Phật tính hay Bản-thể-của-Phật (Tathagatagarbha) - Ba đặc tính của các hiện
tượng (trilaksana) - Tất cả
đều là tâm thức (cittamatra) - Tri-thức-căn-bản-của-tất-cả
(Alayavijnana) |
Từ khoá : TIN LIÊN QUAN |