;
Lời giới thiệu của người dịch
Trong kinh Pháp Cú có câu "Sabba danam dhammadanam jinati" có nghĩa là "Hiến dâng Đạo Pháp - hay Sự Thật - vượt hơn tất cả các hiến dâng khác", thế nhưng sự hiến dâng đó quả khó thực hiện bởi vì cần có một chút vốn liếng nào đó để có thể hiến dâng. Tuy nhiên dường như mỗi người trong tất cả chúng ta đều sẵn có một thứ vốn liếng mang tính cách bẩm sinh, đấy là tình thương yêu trong trái tim mình. Tình thương đó đôi khi cũng không quá mơ hồ và trừu tượng mà có thể hiện ra rất cụ thể qua nếp sống và cung cách hành xử của chính mình, đấy là quyết tâm mang lại sự "an toàn" và "không sợ hãi" cho tất cả chúng sinh, kể cả những côn trùng nhỏ bé. Việc bố thí sự "không sợ hãi" và hiến dâng sự "an toàn" cho tất cả chúng sinh thật hết sức đơn giản: chỉ cần tuân thủ giới luật "không sát sinh", và đấy cũng là giới luật quan trọng nhất trong Phật giáo.
Dưới đây là một bài viết của Hòa Thượng Parawahera Chandaratana về ý nghĩa của sự bố thí trong Phật giáo Theravada. Ông là một nhà sư Tích Lan, xuất gia từ lúc mười tuổi và hiện trụ trì một ngôi chùa Phật giáo Theravada trong vùng ngoại ô bắc Paris.
Hòa thượng Parawahera Chandaratana (1954-)
Chủ đề của bài viết này là do đại học Phật giáo Âu Châu đề nghị với tôi. Thật ra chữ dana - bố thí - không mang một thực tính nào cả, do đó không có gì khác biệt giữa các tôn giáo. Tất cả các tôn giáo đều xem sự bố thí như là một hình thức tu tập thật căn bản.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng việc bố thí không thấy nêu lên trong "Con đường cao quý của tám điều đúng đắn" (Bát chánh đạo), và cũng không thấy nói đến trong số 37 điều kiện cần thiết để đạt được Giác Ngộ (bodhipakkhiya dhamma) (Tam thập thất đạo phẩm). Việc bố thí có thể đã bị gác sang một bên, chỉ vì việc thực thi bố thí tự nó không tức khắc và cũng không trực tiếp giúp gì vào việc thực hiện Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế). Theo giới luật Phật giáo thì việc bố thí hướng vào một lãnh vực khác hơn. Thực thi bố thí không phải là con đường đưa đến giác ngộ, mà đúng hơn chỉ là một cơ sở cần thiết góp phần phát huy lòng nhiệt tâm giúp mình loại bỏ những sự ô nhiễm (ích kỷ, tham lam, bủn xỉn...) trong tâm thức mình.
Mặc dù sự bố thí không phải là một trong số các yếu tố trực tiếp liên hệ đến con đường giải thoát, thế nhưng ít ra nó cũng dự phần vào việc giúp người tu tập thăng tiến trên con đường đó, vì thế cũng không nên xem nhẹ hay đặt yếu tố này sang một bên. Vai trò quan trọng của việc bố thí đã được Đức Phật đưa lên hàng đầu trong nhiều phép luyện tập. Đối với phép luyện tập thăng tiến tuần tự theo từng cấp bậc về sự quán triệt Dhamma (Đạo Pháp), thì việc thực thi bố thí giữ một vai trò tiên quyết, và trong số ba thái độ hành xử thiết yếu mang lại công đức cho người tu tập (Dana - Sila - Bhavana-punnakiriyavatthu) (Bố thí - Trì giới/Tuân thủ giới luật - Cư xử đạo đức) thì bố thí được đặt lên hàng đầu. Đối với bốn phương tiện chủ yếu trợ giúp kẻ khác (sangahavatthu: Dana - priyavacana - atacariya - samanattata) (Bố thí - Thương yêu - hành xử vì lợi ích của kẻ khác - hòa mình để giúp đỡ kẻ khác) thì bố thí cũng là phương tiện quan trọng nhất và đồng thời cũng đứng đầu trong số mười paramis (thập ba-la-mật) tức là mười điều "hoàn hảo".
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ không thể nào có thể đạt được sự giải thoát hay Nibbana (Niết-bàn).
Nibbana (tiếng Phạn là Nirvana) có nghĩa là sự hủy diệt các thứ ô nhiễm. Có ba thứ ô nhiễm ngăn chận việc thực thi bố thí. Ô nhiễm thứ nhất là lobha: ham muốn dâm dục, thèm khát và ghét bỏ (tức là các hình thức bám víu rất mạnh khiến tâm thức mình bị khép kín, không thể hình dung được ý nghĩa của sự bố thì là gì). Ô nhiễm thứ hai là dosa: sự giận dữ (giận dữ đi ngược lại với lòng từ bi). Ô nhiễm thứ ba là moha: tức là vô minh (sự u mê tâm thần không cho phép mình nhận thấy được bản chất khổ đau của thế giới). Chỉ cần một trong ba thứ ô nhiễm hiện ra là cũng đủ để ngăn chận chúng ta thực thi dana - bố thí. Ngày nay và cả vào thời đại của Đức Phật cũng thế, nhiều người giàu có cũng không hề thực thi dana, dù họ trông thấy trước mặt những cảnh huống cần được trợ giúp cấp bách. Đôi khi họ còn tìm cách ngăn cản kẻ khác không nên bố thí. Sự bám víu đó gọi là tanha và lobha (tanha: thèm khát, bám víu, lobha: bủn xỉn, bần tiện). Trong khi đó thì bản chất đích thật của hành động bố thí - dana - là sự buông xả.
Trong xã hội của chúng ta ngày nay thì người ta thường bố thí là nhằm chờ đợi một sự hồi đáp tương xứng, nói một cách khác là thực thi dana là nhằm mục đích tìm kiếm lợi lộc. Đấy không phải là một hành động bố thí đúng nghĩa của nó mà đúng hơn chỉ là một hình thức đầu tư. Chỉ có sự buông xả mới có thể giúp chúng ta thực thi dana, tức là một sự bố thí đúng nghĩa của nó, có nghĩa là không chờ đợi một sự hồi đáp nào. Dù trong bất cứ trường hợp nào thì các tư duy hiện ra trong tâm thức mình liên hệ với hành động bố thí, giữ một vai trò vô cùng quan trọng giúp mình tinh khiết hóa hành động bố thí của mình (không biết mình bố thí cho ai, bố thí những gì và cũng không hề ý thức được chính mình lại là người đã bố thí. Thái độ đó của người tu tập phản ảnh các khái niệm căn bản và sâu xa của Phật giáo: đó là "không có cái ngã", "tánh không" và "bản chất ảo giác" của mọi hiện tượng).
Một số người làm việc từ thiện để được nổi tiếng, một số khác thì tìm cách vứt bớt các vật thừa thãi trong nhà. Cũng có nhiều người bố thí là để tìm cách vớt vát thanh danh của mình khi đã bị quá nhiều tai tiếng. Tất cả những hình thức dana ấy không có gì là dana cả. Sự bố thí đích thật không mong chờ lợi lộc, cũng không dòm ngó xem của bố thí của mình được người khác sử dụng ra sao. Động cơ thúc đẩy sự bố thí phải là lòng từ bi. Đức Phật dạy như sau: "Para dukke sati sadunam hadaya kampanam karoti ti karuna", có nghĩa là : "Khi trông thấy sự khổ đau của người khác thì con tim mình co thắt lại". Đấy là dấu hiệu cho thấy lòng từ bi(karuna) của mình đang bùng lên. Dana trong trường hợp đó là dana đích thật, bởi vì nó không chờ đợi một sự biết ơn nào cả (khi con tim co thắt lại thì đấy cũng đã là một sự bố thí rồi, duy nhất chỉ có sự tham lam và thèm khát trong tâm thức mình là nghĩ đến lợi lộc. Do đó nếu mình chỉ biết bám víu vào sự tham lam và thèm khát thì con tim mình sẽ bị bỏ quên và trở nên vô cảm, nó sẽ không còn biết co thắt là gì nữa). Sự bùng lên của lòng từ bi đó có thể bất thần biến thành một hành động bố thí, có thể là thuộc lãnh vực tinh thần hay vật chất. Thể dạng tâm thức vào đúng lúc thực thi bố thí giữ một vai trò quan trọng hơn là chính hành động bố thí (tác ý bên trong tâm thức sẽ trực tiếp và tức khắc tạo ra nghiệp in đậm trên dòng tri thức mình, trong khi đó tác động bên ngoài của hành động bố thí ấy sẽ còn liên hệ và tùy thuộc vào tâm thức người nhận và bối cảnh đang xảy ra, và cả các cơ duyên sẽ xảy đến sau này trong tương lai, đối với người nhận cũng như đối với mình - sự vận hành của nghiệp rất phức tạp là vì thế).
Các cách bố thí của những người theo Phật giáo Theravada
Đức Phật qua các tiền kiếp cũng đã từng thực hiện nhiều việc từ thiện. Các câu chuyện trong Jakata (Bổn Sanh Kinh) đã nhắc đến nhiều tấm gương bố thí của Ngài. Khi còn là một người Bồ-tát, Đức Phật đã từng hiến dâng các bộ phận của cơ thể mình để thay cho những người đau ốm. Đức Phật từng nói lên tầm quan trọng và hiệu quả của hành động thực thi dana. Trong các tiền kiếp, là một người Bồ-tát, Ngài đã từng thực thi nhiều việc từ thiện nhưng không hề chờ đợi một sự hồi đáp nào. Các hành động đó gọi là "paramita" có nghĩa là sự "hoàn hảo". Paramita thứ nhất gọi là dana paramita (Hán dịch là "bố thí ba-la-mật" tức là sự "bố thí hoàn hảo"). Có tất cả mười paramita (Thập Ba-la-mật) mà người Bồ-tát phải hoàn tất trước khi có thể đạt được sự thật Tối Thượng (tức là sự Giác Ngộ, có nghĩa là quán thấy được Sự Thật của mọi hiện tượng). Tóm lại paramita là các hành động đạo hạnh thực thi bởi một người Bồ-tát. Người Bồ-tát là người hoàn tất được sự buông bỏ tuần tự tất cả những giá trị vật chất, hầu giúp mình thực hiện thể dạng của Phật (trong đoạn này có hai điểm đáng lưu ý. Thứ nhất là kinh Jataka là một bộ kinh được "trước tác" và sau đó đã được "thêm thắt" và "sửa chữa" nhiều lần từ thế kỷ thứ III trước Tây Lịch. Bản cuối cùng và dứt khoát được ghi chép bằng tiếng Pa-li vào thế kỷ Thứ III sau Tây Lịch, gồm 547 câu chuyện thuật lại các tiến kiếp của Đức Phật. Các câu chuyện này không được xem là do Đức Phật thuật lại, mà đúng hơn phản ảnh ít nhiều các chuyện cổ tích và huyền thoại Ấn Độ mang tính cách giáo dục luân lý và đạo đức. Tuy được ghi chép bằng tiếng Pa-li thế nhưng Phật giáo Tích Lan không xếp kinh này vào Kinh Tạng, trong khi đó Phật giáo Miến Điện thì lại xếp kinh này chung trong Kinh Tạng - trong tập Khuddakha Nikaya/Tiểu Bộ Kinh. Điểm đáng lưu ý thứ hai là khái niệm về người Bồ-tát là một trong các khái niệm chủ yếu của Đại Thừa Phật giáo, cũng đã được nêu lên trong kinh Jataka cũng như một số các kinh khác bằng tiếng Pa-li. Tóm lại có thể xem kinh Jataka như là một "phương tiện thiện xảo").
Các tín đồ trong những quốc gia theo Phật giáo Theravada luôn nhìn vào tấm gương của người Bồ-tát để thực thi bố thí hầu mang lại công đức cho mình. Trong cõi samsara (cõi luân hồi) tức là trong kiếp sống hiện tại của mình, nếu bố thí thì tất sẽ gặt hái được công đức. Một người không thực thi dana thì sẽ chẳng có gì để hưởng. Đức Phật giảng rằng hành động tốt sẽ mang lại kết quả tốt, hành động xấu sẽ mang lại kết quả xấu.
Tham gia các buổi lễ hoặc các sinh hoạt từ thiện do người khác tổ chức cũng là một cách biểu lộ từ tâm của mình. Trong các nước Phật giáo, sự tham gia đó thường được thể hiện dưới nhiều hình thức, như khích lệ hay phụ giúp những người tham gia tích cực hơn vào các hành động từ thiện, họ ngợi khen nhau bằng những lời như "sadhu, sadhu!" (tiếng Pa-li có nghĩa là "hoan nghênh", "hoan nghênh!", hoặc cũng có nghĩa là "đúng lắm!", "tốt lắm!") với ý nói lên sự biết ơn của mình về một hành động nào đó. Tất cả những người tham gia vào một công tác thường đồng loạt thốt lên những lời ấy (để cùng khuyến khích nhau. Nói chung hưởng ứng hay khích lệ cũng mang một tinh thần bố thí, là một cách giúp mình xô sập những bức tường ích kỷ mà mình thường nấp phía sau).
Vào những dịp lễ, nhất là lễ Phật Đản, dân chúng thành thị cũng như thôn quê đều chuẩn bị những gói quà để biếu tặng người nghèo, nào là quần áo, quà bánh, và cả những gì mà họ thường thiếu thốn quanh năm. Quà biếu cũng được mang đến các bệnh viện và những nơi chăm sóc người khuyết tật.
Trong các ngày lễ đó mọi người nguyện sẽ tuân thủ tám giới luật (thay vì năm giới luật như thường lệ), và đó cũng là một hình thứcdana bởi vì mình dành ra được một bữa cơm chiều mà mình không ăn để hiến dâng cho người khác (người thế tục phải tuân thủ tối thiểu năm giới luật: 1-không giết hại, 2- không trộm cắp, 3- không tà dâm, 4- không nói dối, 5- không say sưa, hoặc mười giới luật, tức là giữ gìn thêm năm giới luật nữa: 6- không ăn quá bữa - tức chỉ ăn bữa trưa, 7- không hát xướng, vui chơi, 8- không trang điểm, xức nước hoa, 9- không ngủ giường cao, nệm êm, 10- không dính dáng đến chuyện tiền bạc. Trong các ngày lễ nếu giữ được tám giới, thì giới thứ sáu là không ăn gì cả sau bữa cơm trưa, và nhờ đó mình sẽ dành ra bữa cơm chiều cho người nghèo).
Ngoài ra tham gia vào việc cúng dường cho người tu hành cũng là một hành động dana đặc biệt được xem trọng trong các nước theo Phật giáo Theravada. Người thế tục thường mời các vị tỳ kheo về nhà mình để được dịp hầu tiếp họ, biếu họ quần áo, thuốc men, và các thứ cần thiết khác, hầu mang lại công đức cho mình, và với các công đức đó thì mình lại mang ra để hiến dâng cho những người thân đã khuất. Các dịp như thế cũng thường được tổ chức khi có người qua đời trong gia đình (trong quá khứ Đề-bà Đạt-đa/Devadatta, đệ tử và em họ của Đức Phật chủ trương một số điều khoản khắt khe, trong số này có các điều khoản như: không được tham dự các bữa ăn do người thế tục mời, chỉ ăn những gì mình khất thực; không được nhận quần áo do người thế tục cúng dường, chỉ mặc quần áo may bằng những tấm vải rách nhặt được, v.v.).
Tại hầu hết các nước theo Phật giáo Theravada người thế tục thường thực thi một phép dana gọi là "sangha dana" có nghĩa là hiến dâng cho Sangha (Tăng đoàn). Sangha dana là một cách trợ giúp cho toàn thể những người xuất gia, không nhắm vào một cá nhân nào.
Chữ "Sangha" (Tăng đoàn) có thể hiểu theo ba góc cạnh khác nhau:
1- Sangha có nghĩa từ chương là "nhiều hơn một người".
2- Savaka Sangha có nghĩa là tập thể những người tu hành đã được thụ phong ở một cấp bậc cao. Người thế tục có thể mời các vị này về nhà mình hoặc đích thân đến chùa để thực thi dana. Đó là một sự cấp dưỡng vật chất góp phần trợ giúp những người phải sống thiếu thốn nơi chốn chùa chiền. Các buổi lễ hiến dâng do người thế tục tổ chức thường là để tưởng nhớ đến những người thân quá cố và hồi hướng công đức của mình cho họ, và đồng thời thì đấy cũng là những dịp trợ giúp Sangha (Tăng đoàn) (các hình thức sinh hoạt này cũng rất phổ biến trong Đại Thừa Phật giáo).
Sở dĩ các lễ dana được tổ chức là vì người ta không thể biết được là những người thân quá cố của mình nay đang ở đâu: trong những nơi sung sướng không cần đến một sự chăm sóc nào, hay là phải lang thang trong cảnh nghèo đói, mong chờ sự trợ giúp và tình thương yêu.
Người ta gọi các chúng sinh "peta" (tiếng Phạn là preta, là các sinh linh đói khát) hay "bhuta" (spirit/ghost/ma quỷ) sống trong các cõi khổ đau. Các sinh linh ấy sẽ tức khắc hiện ra mỗi khi có các buổi lễ dành cho họ, thế nhưng chúng ta không sao trông thấy được họ bằng mắt thường.
Những người bố thí trong trường hợp này phải giữ một tâm thức tinh khiết, không một thoáng giận dữ, bám víu hay bất kính nào, v.v., thì mới tạo được công đức để hồi hướng cho những người quá cố (đây cũng là một điểm cần lưu ý: theo Phật Giáo Theravada sau khi chết thì quá trình tái sinh sẽ diễn tiến ngay tức khác. Do đó sự hồi hướng ở đây có nghĩa là hồi hướng cho thể dạng tái sinh của những người thân của mình. Nếu mở rộng sự suy luận hơn nữa thì chúng ta cũng có thể hiểu rằng các thể dạng chúng sinh đang hiện hữu chung quanh chúng ta trong lúc này - chẳng hạn như các súc vật, các người nghèo đói, các kẻ hung dữ, khủng bố, sát nhân, những người hiền lành, đạo đức, cao cả, đáng kính,... - cũng có thể là các thể dạng tái sinh của những người thân quá cố của mình).
3-Ariya sangha hay Tăng đoàn Cao Quý: Có nghĩa là gồm những người đã vượt được giai đoạn đầu tiên trên con đường mà Đức Phật đã vạch ra - họ có thể là người thế tục hay là người tu hành của bất cứ một tôn giáo nào.
Giai đoạn đầu tiên của con đường gọi là "bước vào dòng chảy" gồm có việc tẩy trừ ba trong số mười thứ chướng ngại: 1- tin vào một linh hồn toàn vẹn và thường hằng ("cái tôi" hay cái ngã), 2- sự hoang mang (có nghĩa là sự xao lãng: chúng ta sống trong ảo giác với tất cả các thứ xúc cảm phát sinh từ những thứ ấy, thế nhưng chúng ta thì lại luôn có cảm giác là mình "tỉnh táo"), 3- tin vào sự tinh khiết hóa bằng các lễ lạc bên ngoài.
Chính vì thế mà Đức Phật đã từ chối không nhận chiếc áo mà người mẹ nuôi tự tay may cho mình, vì cho rằng hiến dâng tức là nhắm vào toàn thể Tăng đoàn Cao Quý, và Ngài thì cũng chỉ là một thành phần trong Tăng đoàn ấy mà thôi.
Cung cách bố thí
Kinh điển (chẳng hạn như kinh A. iii, 172) (tức là kinh Sappurisadana Sutta/"Món quà do một người chân thật hiến dâng" - Tăng Chi Bộ Kinh - AN V.148. Bài kinh nêu lên năm cách hiến dâng của một người ngay thật và đạo đức) thường đề cao cung cách bố thí. Thái độ và thiện chí giữa người cho và người nhận sẽ tạo ra cả một thế giới và cái thế giới đó không tùy thuộc vào giá trị của món quà bố thí.
Sakkaccam danam deti: Phải hiến dâng như thế nào để người nhận không cảm thấy tủi nhục, bị chạm tự ái hay bị tổn thương. Những người nghèo khó cầu xin một sự trợ giúp thường hay cảm thấy ngại ngùng, vì thế bổn phận của người cho là không được làm cho cảm tính ấy trở nên không sao chịu đựng được, khiến cho người nhận cảm thấy cái gánh nặng của mình càng nặng nề hơn.
Cittikava danam deti: Món quà bố thí phải được hiến dâng với tất cả sự ân cần và kính trọng. Người nhận phải cảm thấy được sự quý mến của người cho đối với mình. Nếu một món quà được hiến dâng với tình thương yêu thì những mối dây thân ái sẽ buộc chặt giữa người cho và người nhận.
Sahattha deti: Phải tự tay hiến dâng. Đích thân hiến dâng sẽ mang lại được nhiều điều tốt lành hơn. Sự tận tình sẽ tạo ra một sự tương kết giữa người cho và người nhận; và đấy cũng là những gì cần phải có trong xã hội. Sự tương trợ và lòng rộng lượng chân thật sẽ giúp cho xã hội đoàn kết hơn.
Na apaviddham deti: Không nên bố thí những gì không giá trị. Chỉ nên hiến dâng những gì ích lợi và thích nghi.
Na anagamanaditthiko deti: Không nên hiến dâng với một thái độ nghiêm khắc khiến sau đó người nhận không còn dám xin nữa.
Bố thí với niềm tin (saddhaya deti) (saddaya: devotedly, faithfully/chân tình, thành thật, chân thật) là một cách bố thí mà kinh điển thường đề cao (kinh A. iii, 172) (tức là Kinh Suppurisadana Sutta đã được ghi chú trên đây). Nhất là khi hiến dâng cho người xuất gia thì phải thật thành tâm và kính cẩn, và xem đấy là cả một niềm vui cho mình.
Mỗi khi đứng trước một cảnh huống ngặt nghèo thì phải bố thí ngay, không do dự một chút nào (kalena deti) (kalena: bất thường, keti: hiến dâng, biếu tặng, có nghĩa là một sự cố gắng thêm ngoài sự dự trù của mình). Những sự bố thí kịp thời thật hết sức quan trọng vì sẽ làm nhẹ bớt đi sự lo lắng của những người đang gặp cảnh khó khăn không lối thoát. Phải bố thí với tất cả tình nhân ái, duy nhất chỉ nhằm vào mục đích giúp đỡ kẻ khác đang trong hoàn cảnh khó khăn thế thôi (anuggahacitto danam deti).
Việc bố thí luôn đòi hỏi sự chú tâm, không gây ra tổn thương cho mình cũng như người khác (attanam ca paran ca anupahacca dana m deti). Đức Phật dạy rằng phải thật thận trọng và kín đáo khi hiến dâng (viceyyadana m sugatappasattham). Khi nào tin chắc rằng việc bố thí của mình sẽ mang lại sự an vui cho kẻ nhận thì hãy nên làm. Nếu thấy việc bố thí của mình, vì một lý do nào đó, có thể gây tổn hại đến sự an vui của kẻ khác, thì không nên làm. Bố thí với sự thận trọng đó gọi là sự bố thí của một người đáng kính (sappurisadana) (sappurisa có nghĩa là một người tốt, đáng kính phục). Cách mà mình bố thí sẽ làm gia tăng giá trị của vật bố thí. Dù không đủ khả năng hiến dâng những món quà đắt giá, thế nhưng qua cách hiến dâng mình cũng có thể biểu lộ được sự lo lắng của mình trước cảnh huống khó khăn của người nhận.
Đức Phật có nêu lên ba cách bố thí nên làm:
1- Amisa dana: (amisa: thực phẩm) Bố thí bằng hiện vật. Tất cả các tôn giáo đều thực thi rộng rãi cách bố thí này. Rất nhiều các tổ chức tôn giáo và xã hội rất tích cực trong việc bố thí thực phẩm, quần áo, nơi ăn chốn ở cho người nghèo và những người tị nạn. Cách bố thí này có thể qua trung gian của các Tăng đoàn, hoặc qua sự giúp đỡ của tư nhân hay cơ quan nhà nước. Tuy nhiên cũng phải theo dõi xem những gì mình bố thí có đến tay người nhận hay không. Đức Phật dạy rằng việc bố thí này thật đáng nên làm. Thế nhưng trên thực tế nếu muốn biến ý nghĩ bố thí trở thành một hành động, tức là trở thành sự thật, thì không phải là chuyện hiển nhiên và ai cũng làm được. Vì thế mỗi người phải vượt lên trên sự thiếu thiện chí của mình, có nghĩa là phải loại bỏ được sự ích kỷ, là hậu quả của các cảm tính tham lam, giận dữ, keo kiệt và vô tình.
2- Abhaya dana: (abhaya: sự an toàn, không sợ hãi) Sự bố thí này có thể thực thi dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong xã hội có nhiều người mang bệnh trầm trọng có thể thiệt mạng, do đó chúng ta nên mang lại sự an lành cho họ bằng cách hiến máu, hoặc một bộ phận trong cơ thể của mình: chẳng hạn như mắt, thận, và cũng nên xem đấy như là một bổn phận mà mình phải làm. Nếu các điều kiện sức khỏe cho phép thì cũng nên hiến dâng các bộ phận khác của cơ thể. Đấy là một hình thức dana thật đáng quý. Tôi xin nêu lên trường hợp sau đây. Năm 1998, có một nhà sư Tích Lan sức khỏe bình thường, đọc trên báo thấy có một người bệnh trong giai đoạn chót, cần phải ghép thận, nhà sư này bèn liên lạc với bệnh viện và cho biết rằng mình sẵn sàng hiến một quả thận. Người phụ nữ được ghép thận theo Thiên Chúa giáo. Đã là một người bệnh thì dù là theo Ấn giáo, Phật giáo hay bất cứ một tôn giáo nào thì cũng chỉ là một bệnh nhân như nhau.
Ngoài ra, trường hợp xin mua lại một con vật đang bị đưa đến lò sát sinh cũng là cách cứu mạng sống cho một chúng sinh.
3- Dhamma dana (Đạo Pháp hay Sự Thật): Sự hiến dâng này vượt hơn tất cả các sự hiến dâng khác có thể có trên địa cầu này. Hiến dâng Sự Thật là cách giải thích Giáo Lý cho các người khác nghe, giúp họ tránh khỏi các ngõ ngách sai lầm trong cuộc sống, và hướng họ vào con đường Đạo Đức. Đấy là cách giúp họ trông thấy những gì đạo hạnh và những gì vô luân. Hiến dâng Sự Thật cũng có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như đứng ra tổ chức các buổi hội thảo và bàn luận về Dhamma (Đạo Pháp); hoặc góp phần ấn tống sách mới, hoặc in lại sách cũ, hoặc nếu có thể thì thành lập các trung tâm quảng bá Giáo Huấn của Đức Phật. Thật vậy, nếu chưa hiểu được Dhamma là gì thì quả hết sức khó cho chúng ta đến gần với Sự Thật được. Vì thế nên phải quảng bá Giáo Huấn ấy của Đức Phật. Tuy nhiên chính Đức Phật cũng nhận rằng chỉ có những người thông thái mới quảng bá được Giáo Huấn ấy của Ngài, đối với những người còn kém thì việc ấy sẽ khó khăn hơn, và dù bất cứ trường hợp nào cũng không được xem đấy là một hình thức truyền giáo. Bốn câu thơ sau đây trong kinh Pháp Cú phản ảnh thật rõ rệt sự hiến dâng này:
- Sabba danam dhammadanam jinati: Hiến dâng Đạo Pháp vượt hơn tất cả các hiến dâng khác.
- Sabbam rasam dhammarasam jinati: Hương vị của Sự Thật vượt hơn tất cả các hương vị khác.
- Sabbam ratim dhammarati jinati: Niềm hân hoan trong Sự Thật vượt hơn tất cả những niềm hân hoan khác.
- Tanhakkhayo sabbadukkham jinati: Sự tắt nghỉ của sự thèm khát sẽ chiến thắng tất cả mọi khổ đau.
Những người hội đủ khả năng giải thích, khai trí và thuyết phục kẻ khác quả là hiếm, vì thế các kinh sách về Đạo Pháp là những gì thật cần thiết trong việc quảng bá Giáo Huấn của Đức Phật. Vì lý do này nên tôi mong rằng những ai muốn tưởng nhớ đến những người thân quá cố hãy góp phần ấn tống sách về Đạo Pháp và mượn dịp này để ghi thêm tên và đưa chân dung của các người thân quá cố của mình vào các trang cuối sách. Tuy nhiên thói tục thường thấy vẫn là cách lưu giữ một ít tro hỏa táng của người quá cố, hoặc dựng đài kỷ niệm (dựng bia hoặc khắc tên ?) để tưởng nhớ đến họ. Cúng dường Tăng đoàn hay ủng hộ một cơ quan từ thiện cũng là một cách nói lên sự thương nhớ của mình đối với người quá cố. Dầu sao thì các hình thức cúng dường và bố thí đó cũng không sánh bằng sự hiến dâng Giáo Lý nêu lên Sự Thật.
Việc hiến dâng thực phẩm gồm năm chủ đích khác nhau: mang lại sự sống (không thực phẩm thì không sao sống được), vẻ đẹp (thiếu ăn thì thân xác héo mòn) (trái lại trong các xã hội tân tiến ngày nay, người ta thường quá béo phì vì ăn quá nhiều, vậy hãy nên chia sẻ miếng ăn với kẻ khác thì mình sẽ xinh đẹp hơn, cả thân xác lẫn tâm hồn), hạnh phúc (thiếu ăn sẽ đau ốm), sinh lực (thiếu ăn sẽ yếu đuối), và sau hết là trí thông minh (thiếu ăn thì bộ não sẽ không vận hành bình thường được). Bất cứ một hành động nào cũng đều mang lại kết quả của nó, người bố thí nhận được công đức từ những vật bố thí, người nông dân gieo những hạt giống tốt thì sẽ được mùa.
Do đó đối với việc bố thí luôn phải giữ một tâm thức thật tinh khiết: tinh khiết trước khi bố thí, trong lúc đang bố thí, và sau khi đã hoàn tất hành động bố thí. Dana đích thật phải là một sự buông xả. Sự đích thật đó gọi là paramita có nghĩa là sự hoàn hảo.
Thực thi bố thí thì một ngày nào đó mình sẽ nhận được - ngay trong kiếp sống này hoặc trong các kiếp sống sau - các kết quả tốt lành mang lại từ sự bố thí đó. Thế nhưng nếu sau khi bố thí thì lại hối tiếc về việc bố thí của mình, thì mình và cả những người thân thuộc của mình không ai sẽ hưởng được những gì mà mình đã gieo.
Thực thi từ thiện (dana) là một trong các phép tu tập sơ đẳng nhất của Phật giáo. Đó là cách tạo ra cho mình một số vốn liếng công đức tức là một số kamma (nghiệp) lành. Khi nào số vốn liếng đó được ghép thêm với các phẩm tính đạo đức khác và các kết quả mang lại từ sự luyện tập tâm thức, thì vốn liếng đó sẽ càng trở nên phong phú hơn, hầu giúp mình thoát khỏi samsara (cõi luân hồi), có nghĩa là sẽ không còn xoay vần bất tận trong các chu kỳ hiện hữu nữa. Ngay cả đối với những người đã hoàn toàn bước vào con đường giải thoát thì cũng cứ nên tiếp tục bố thí, bởi vì sự bố thí ấy sẽ mang lại thêm cho mình sự giàu có, vẻ đẹp, và những niềm hân hoan cho phần còn lại của kiếp nhân sinh này của mình. Nếu một người Bồ-tát (Bodhisattva) với tất cả lòng nhiệt tâm của mình, sẵn sàng hiến dâng một bộ phận của cơ thể hay bất cứ một thứ gì khác hầu giúp đỡ mọi người, thì đấy gọi là dana parami có nghĩa là một sự bố thí hoàn hảo ở cấp bậc cao nhất.
Bố thí là một hành động tốt như tất cả các hành động tốt khác, có nghĩa là sẽ mang lại hạnh phúc cho mình. Đó là sự vận hành tự nhiên của nghiệp hay là quy luật "nguyên nhân hậu quả" mà Đức Phật giảng dạy. Bố thí sẽ mang lại cho mình nhiều điều thuận lợi trong kiếp sống hiện tại và cả trong các kiếp sống tương lai. Hơn nữa ngoài lòng thiện tâm ra, nếu chúng ta biết phát huy được một cung cách bố thí đúng đắn thì công đức mang lại sẽ còn gia tăng gấp bội.
Số lượng công đức gom góp được tùy thuộc vào ba yếu tố: mục đích tinh khiết của người bố thí, tâm thức tinh khiết của người nhận và giá trị vật chất của món quà bố thí. Căn cứ vào các yếu tố đó chúng ta có thể tiên đoán được kết quả sẽ mang lại cho mình trong tương lai, nói một cách khác là một giao kèo tốt sẽ mang lại kết quả tốt, một giao kèo xấu sẽ mang lại kết quả xấu. Vì thế chúng ta cũng nên cố gắng tạo cho mình các kamma (nghiệp) tốt, càng nhiều càng hay. Điều này có nghĩa là phải giữ một tâm thức tinh khiết khi bố thí, phải chọn những người xứng đáng để bố thí, và vật bố thí thì cũng phải thích nghi và giá trị.
Bố thí trong kinh điển Sutta
Anguttara Nikaya (Tăng Chi Bộ Kinh) nêu lên năm sự bố thí thượng thặng của các bậc Thánh Nhân trong quá khứ (kinh A.iV, 246). Giá trị của năm sự bố thí ấy không ai có thể phủ nhận được trong quá khứ và kể cả sau này trong tương lai. Người tu hành ẩn dật cũng như các vị Bà-la-môn tất cả đều phải thán phục các giá trị ấy. Năm sự bố thí ấy chính là cách tuân thủ thật thận trọng Năm Giới Luật (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không say sưa nghiện ngập. Tuân thủ năm giới luật cũng là một cách bố thí, một cách hiến dâng sự sống, niềm an vui và sự hài hòa cho tất cả chúng sinh đang hiện hữu chung quanh mình). Tôn trọng năm giới luật là một cách mang lại tình thương yêu và biểu lộ lòng nhân từ của mình đối với tất cả chúng sinh. Nếu một người biết ý thức từng hành động của mình hầu mang lại sự an toàn và không sợ hãi cho các chúng sinh khác, thì đấy sẽ là sự hiến dâng cao quý nhất. Sự hiến dâng ấy không phải chỉ là để hướng vào con người, mà còn cho tất cả chúng sinh.
Trong Anguttara Nikaya (Tăng Chi Bộ Kinh), Đức Phật có nêu lên ba ngọn lửa phải được đốt lên với tất cả sự thận trọng và tôn kính (kinh A.iv, 44) (tức là kinh Aggi-Sutta/Bài kinh về ngọn lửa, PTS, iv, 44-46, là một bài kinh quan trọng nói về phi-bạo-lực trong Phật giáo. Có thể xem kinh này trên Thư Viện Hoa Sen). Ba ngọn lửa ấy là: ahunayyaggi (ahunay: có nghĩa là một người hiếu đễ, aggi là ngọn lửa), gahapataggi (gahapati: người chủ gia đình/householder) và dakkhineyyaggi (dakkhini: có nghĩa là một người thông thái, sáng suốt, đáng kính/worthy). Đức Phật giải thích rằng ahuneyyaggi ở đây có nghĩa là bậc cha mẹ, là những người phải được kính yêu và chăm sóc. Gahapataggi có nghĩa là (người chủ gia đình) phải chăm sóc cho vợ, con, những người làm công và giúp việc (trong câu này có thể nhà sư Parawahera Chandaratara có ý tránh không sử dụng chữ "người chủ gia đình"/householder/gahapataggi rất quen thuộc trong kinh sách để không nhắc đến vị thế trên trước của người đàn ông trong gia đình và ngoài xã hội vào thời bấy giờ, mà chỉ nói đến là phải "chăm sóc vợ con và những người làm công". Quả tế nhị và đáng phục!). Dakkhineyyaggi là những người tu hành đã đạt được bậc Arahant (A-la-hán), tức là những người đã bước được vào con đường loại bỏ các thể dạng tâm thần tiêu cực. Họ là những người phải được chăm sóc và kính trọng, tương tự như canh chừng một ngọn lửa thiêng. Trong kinh Maha-Mangala Sutta (kinh A. iv, 44) (Kinh Đại Phúc hạnh) cho biết rằng chăm sóc miếng ăn chỗ ở cho cha mẹ mình là một cách hành xử mang lại thật nhiều công đức mà bất cứ một người thế tục nào cũng có thể làm được (kinh SN 262-263) (Thích Nhất Hạnh có dịch kinh này và gọi là kinh "Kinh Phước Đức", có thể xem trên Thư Viện Hoa Sen - hoặc tra cứu: Sn, 2.4, hoặc PTS: Sn 258-269).
Vua xứ Kosala (xứ Kiều-tát-la, thuộc vùng bắc Ấn và Nepal, là một trong 16 nước hùng mạnh nhất trên bán lục địa Ấn Độ vào thời đại của Đức Phật. Nước lân bang với xứ Kosala là Maghada/Ma-kiệt-đà, nằm ở mạn đông bắc Ấn trong vùng vịnh Bengal. Hai nước này thường gây chiến với nhau, và cả hai thường được nhắc đến trong rất nhiều bài kinh) có hỏi Đức Phật nên bố thí cho ai? (kinh S.i, 98) (tức là kinh Issattha Sutta/Kinh về Thuật bắn cung, SN, 3.24, hoặc PTS, S, i.98). Đức Phật trả lời rằng nên bố thí cho những ai có thể mang lại được hạnh phúc cho người bố thí. Vua xứ Kosala lại hỏi tiếp: Vậy thì phải bố thí cho ai để có thể mang lại kết quả nhiều nhất? Đức Phật cho biết là cần phải phân biệt hai câu hỏi (các câu tóm lược trên đây không được đầy đủ và chính xác so với bài kinh gốc, xin xem thêm cách giải thích về kinh này trong phần ghi chú dưới đây) và trả lời rằng bố thí cho những người đạo đức thì sẽ mang lại được nhiều kết quả. Ngoài ra Đức Phật còn cho biết thêm là việc bố thí sẽ còn mang lại nhiều kết quả hơn nữa nếu hướng vào những người ẩn tu đã loại bỏ được năm thứ chướng ngại tâm thần (nirvarana) (có nghĩa là các thể dạng u mê và bấn loạn/obscuration, disturbance) và phát huy được đạo đức, sự tập trung, trí tuệ, sự giải thoát và sự ý thức đạo đức về sự quán thấy thể dạng giải thoát (sila, samadhi, panna, vimutti, vimuttinanadasan).
Trong Sakkasamyutta (một tập kinh trong Tương Ưng Bộ Kinh) (kinh S.i,233) Sakka (là vị đế vương của các thiên nhân/king of the devas, là một nhân vật huyền thoại, vai trò của nhân vật này là để nêu lên các câu hỏi và sau đó Đức Phật trả lời dưới hình thức các bài giảng) cũng lại nêu câu hỏi trên đây với Đức Phật: Nên bố thí cho ai để mang lại nhiều kết quả nhất? Đức Phật trả lời rằng bố thí cho Sangha (Tăng đoàn) sẽ mang lại được nhiều kết quả nhất. Đồng thời Đức Phật cũng nhấn mạnh rằng "Sangha" ở đây có nghĩa là tập thể những người đã bước vào con đường, đã thực hiện được những điều thánh thiện, đạo đức, sự tập trung và trí tuệ. Cũng xin lưu ý thêm là theo Vinaya (Tạng Luật) thì chữ "Sangha" được định nghĩa là một nhóm người tu hành đủ đông để tạo thành một tập thể, đảm trách các chức vụ khác nhau trong chốn chùa chiền (Vin, i, 319) (trong Tạng Luật). Tuy nhiên trong các kinhsutta (tức là các bài kinh trong Kinh Tạng) thì chữ "Sangha" lại có nghĩa là bốn cặp đôi gồm những người cao quý tức là tám người thật đặc biệt (purisayugani de cattari, purisapuggala d’attha), đó là: 1- những người đang trên đường bước vào dòng chảy, 2- những người sẽ còn quay lại thêm một lần (tái sinh thêm một lần nữa trước khi đạt được sự giải thoát cuối cùng), 3- những người sẽ không còn quay lại nữa (kiếp sống hiện tại là kiếp nhân sinh cuối cùng của họ), 4- và sau hết là những vị Arahant (A-la-hán) đã đạt được quả [ngay trong kiếp sống hiện tại này] (Phật giáo Theravada "phân chia" các thành phần trong Tăng đoàn theo bốn cấp bậc giải thoát (catur-ariya-puggala): 1- cấp bậc sotapanna: đang bước trên con đường đưa vào dòng chảy (đang trên đường tu tập, chưa đạt được gì cụ thể); 2- sacadagami: sẽ còn phải tái sinh thêm một lần nữa; 3- Anagami: sẽ không còn tái sinh nữa sau khi tịch diệt; 3- Arahant: đã đạt được quả A-la-hán ngay trong kiếp sống hiện tại).
Các nguyên nhân thúc đẩy việc bố thí
Kinh sách nêu lên nhiều nguyên nhân thúc đẩy việc bố thí. Anguttara Nikaya (Tăng Chi Bộ Kinh) (kinh A, iv, 236) đưa ra tám nguyên nhân như sau:
1. Asajja dana m deti: cho với chủ đích gây ra phiền hà, hoặc xem đấy là một cách gây hấn hay nhục mạ đối với người nhận.
2. Bhaya dana m deti: sự sợ hãi cũng có thể là một động cơ thúc đẩy một người đưa ra một đề nghị nào đó (ngày nay gọi là tống tiền).
3. Adasi me ti dana m deti: cho với mục đích đáp lại một ân huệ mà mình đã nhận được trước đó (sự biết ơn).
4. Dassati me ti dana m deti: cho với hy vọng sẽ nhận được một ân huệ tương xứng trong tương lai (hối lộ).
5. Sadhu dana n ti dana m deti : cho vì xem đấy là một hành động tốt.
6. Aham pacami, ime ne pacanti, na arahami pacanto apacantanam adatun ti dana m deti : "Tôi làm bếp, họ không làm. Thế nhưng cung cách hành xử của tôi sẽ không đúng đắn nếu tôi làm bếp và ăn một mình mà không cho người khác ăn". Đây cũng là một hình thức mở rộng của tình nhân ái.
7. Imam me dana m dadato kalyano kittisaddo abbhuggacchati ti dana m deti : một số người làm việc từ thiện vì hiếu danh.
8. Cittalankara-cittaparikkarattham dana m deti : một số người làm việc từ thiện là nhằm tạo ra sự "sang trọng" và "tốt đẹp" cho tâm thức mình.
Ngoài ra sự thiên vị (favoritism), thiếu thiện chí (dosa) (ill will/có ý xấu) và ảo giác (moha) (suy nghĩ sai lầm) cũng được xem là các nguyên nhân thúc đẩy sự hiến dâng. Đôi khi việc bố thí cũng có thể là một tập quán cha truyền con nối trong gia đình. Ham muốn được lên trời sau khi chết cũng là một động cơ thường thấy trong việc bố thí. Một số người cảm thấy vui thú khi bố thí, do đó việc bố thí đối với họ là để tạo ra cho mình một thể dạng tâm thức vui thích (kinh A.iv, 236) (sự phân tích các hình thức bố thí của các kinh trên đây không khỏi khiến cho chúng ta bàng hoàng vì ngay vào thời đại của Đức Phật cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm, con người và xã hội cũng đã hết sức phức tạp. Do đó chúng ta cũng "cảm thấy" hiểu rõ hơn tại sao Đức Phật lại khuyên những người tu hành phải rời xa gia đình và làng mạc).
Amisa Dana và Dhamma dana (Hiến dâng thực phẩm và hiến dâng Đạo Pháp)
Danam’ca dhammacariya ca (…) etam mangalam uttamam: Hãy phát lộ lòng từ tâm, hành xử lương thiện, đó là cách mang lại những sự tốt lành lớn lao. Hồi hướng công đức cho người quá cố cũng có thể xem là một hành động từ thiện (điều này cho thấy việc hồi hướng công đức rất phổ biến trong Đại Thừa Phật giáo cũng được thực thi rộng rãi trong Phật giáo Theravada). Người thân rót nước vào một cái bình cho đến khi nào không còn rót thêm được nữa (trong khi đang hành lễ) nhằm biểu trưng cho sự hồi hướng công đức và nói lên những ước vọng của mình đối với người quá cố, đồng thời xướng lên ba lần câu sau đây:
"Xin hồi hướng công đức này đến cha mẹ tôi và mong rằng cha mẹ tôi sẽ được hạnh phúc"
Sau cùng tất cả mọi người tham dự lễ cùng nhau đọc lên các tiết thơ sau đây:
1. Adasi me, akasi me, natimitta sakha ca me
petanam dakkhinam dajja pubbe katam anussaram.
2. Na hi runnam va soko va ya c’ anna paridevana,
na tam petanam atthay : evam titthanti natayo.
3. Ayan ca kho dakkhina dinna sanghamhi suppatitthita
digharattam hitay assa thanaso upakappati.
4. So natidhammo ca ayam nidassito,
petanam puja ca kata ulara,
balan ca bhikkhunam anuppadinnam,
tumhehi punnam pasutam anappakam
5. Yatha varivaha pura paripurenti sagaram,
evam eva ito dinnam petanam upakappati.
6. Unname udakam vattam yatha ninnam pavattati,
evam eva ito dinnam petanam upakappati.
7. Icchitam