Kinh Niệm Phật Ba La Mật Giảng Giải.
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập.
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm.
Giảng giải: Tỳ kheo Thích Phước Thái.
Vài lời thưa trước.
Kinh Niệm Phật Ba La Mật là một quyển kinh chuyên thuyết minh về pháp môn niệm
Phật. Mục đích là để cho hành giả Tịnh độ hiểu rõ yếu nghĩa của phương pháp niệm Phật
mà thật hành cho đúng pháp. Có thế, thì hành giả mới mong đạt được kết quả cứu cánh viên mãn như ý nguyện.
Kinh này nguyên tác bằng Phạn văn và đã được lưu hành rất sớm ở Trung Quốc. Vào thời đại Ðông Tấn ( 317 - 419 Tl ) ở Trung Hoa, có một bậc cao Tăng nổi tiếng tên là Cưu ma la thập, thuộc triều đại Diêu Tần, Ngài đã dịch từ Phạn văn ra Hán văn. Ðây là một trong số nhiều dịch phẩm của Ngài.
Ở Việt Nam, cũng có một bậc cao Tăng là cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm đã phát nguyện dịch kinh này từ Hán văn ra Việt văn. Hiện quyển Kinh mà chúng ta đang tìm
hiểu học hỏi, là của ngài phiên dịch. Ðây là một trong nhiều dịch phẩm của ngài. Về phần tiểu sử của hai ngài, chúng ta sẽ tìm hiểu sơ qua ở phần sau.
Xét về phần phiên dịch từ Phạn văn ra Hán văn cũng như từ Hán văn ra Việt văn, thú
thật, cho đến nay, chúng tôi chưa biết có bao nhiêu nhà dịch và diễn giảng. Chúng tôi chỉ
thấy có một quyển đã được lưu hành hiện nay, với danh đề là: "Kinh Niệm Phật Ba La
Mật Sưu giải"của ông cư sĩ Tịnh Hải. Ông đã dày công sưu tập nhiều tài liệu quý giá để
giải thích kinh này. Ngoài quyển này ra, hiện nay, chúng tôi chưa thấy có quyển nào khác. Có lẽ, do sự truy cứu của chúng tôi còn hạn hẹp, nên chưa biết đó thôi.
Hôm nay, chúng tôi đem quyển kinh này ra giảng giải, nhằm giúp cho quý liên hữu trong
đạo tràng Quang Minh, do chúng tôi trực tiếp hướng dẫn, để hiểu rõ thêm và nắm vững
đường lối hành trì theo pháp môn Tịnh độ niệm Phật mà chúng ta đã chọn và đang nỗ lực
thật hành. Với thâm ý của chúng tôi, không phải chỉ giảng bộ kinh này thôi, nếu như đủ
duyên, thì chúng tôi sẽ lần lượt giảng thêm một vài bộ kinh khác nữa. Dĩ nhiên, là những kinh chuyên thuyết minh về Tịnh độ.
Nhân kỳ họp chúng kiểm công cứ vừa qua (31/8/08), chúng tôi có đem ra ba quyển, trong
đó có hai quyển kinh và một quyển sách. Hai quyển kinh đó là: Kinh Niệm Phật Ba La Mật và Kinh A Di Ðà Yếu Giải. Còn một quyển sách đó là quyển Niệm Phật Thập Yếu, do cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm biên soạn.
Lẽ ra, chúng tôi sẽ tự chọn một trong ba quyển để đem ra giảng giải cho quý liên hữu nghe. Nhưng vì muốn xem thử nhân duyên của đạo tràng chúng ta có nhân duyên với
quyển kinh nào giảng trước, nên chúng tôi đề nghị cho quý liên hữu bắt thăm. Một vị đại
diện cho đạo tràng lên bắt thăm và đã bắt trúng quyển "kinh Niệm Phật Ba La Mật" và vị thứ hai bắt thăm kế tiếp thì lại bắt trúng quyển"kinh A Di Ðà Yếu Giải".
-1-
Thế là, còn lại quyển cuối cùng, đó là quyển "Niệm Phật Thập Yếu". Ðây là quyển sách
chớ không phải là quyển kinh. Như vậy, rõ ràng là đạo tràng của chúng ta có một nhân
duyên kỳ đặc với quyển Kinh Niệm Phật Ba La Mật này. Do đó, nên chúng tôi đã cố
gắng sưu tầm thêm một vài tài liệu rải rác khác để biên soạn đề là"Kinh Niệm Phật Ba La Mật Giảng Giải". Y cứ vào Kinh văn mà chúng tôi thêm phần giảng giải. Nói giảng
giải, kỳ thật, chúng tôi chỉ lược giảng đại khái mà thôi. Ðồng thời, chúng tôi cũng có chú
thích cho rõ thêm một số các thuật ngữ hay những pháp số khó hiểu khác rải rác trong văn kinh.
Việc làm này, chúng tôi chỉ nhắm vào một mục đích duy nhứt, là nhằm trau đổi giúp
thêm phần nào cho quý liên hữu tìm hiểu rõ những gì mà chư Phật Tổ đã chỉ dạy về pháp
môn niệm Phật. Ðó là điều mà đạo tràng chúng ta phải hằng để tâm nghiên cứu trau dồi
học hỏi pháp môn niệm Phật mà mình đang tu. Thiết nghĩ, đây cũng là điều rất bổ ích thiết thực cho chúng ta vậy.
Như chúng ta đã biết, kinh điển Phật dạy, nghĩa lý thật là thậm thâm vi diệu không ngằn
mé, trong khi đó, sự hiểu biết của chúng tôi thì quá thiển cận thô sơ, khác nào như con ếch ngồi trong miệng hang dòm trời. Bầu trời thì rộng rãi thênh thang bao la không có giới hạn, mà miệng hang thì nhỏ bé chút xíu, thế thì, thử hỏi làm sao con ếch kia có thể
nhìn thấu suốt bầu trời bao la hết được?! Do đó, chúng tôi hiểu biết được chút nào qua sự
nghiên tầm học hỏi của chúng tôi, thì chúng tôi quyết không ngần ngại sẵn sàng tận tâm
lực giúp cho quý vị. Ðây cũng là thể hiện trong tinh thần"kiến hòa đồng giải", một trong sáu phép "Lục hòa" mà Ðức Phật đã chỉ dạy.
Mong sao trong khi chúng tôi trau đổi trình bày, thì xin quý vị hãy cố gắng lắng lòng để tâm theo dõi. Lý thuyết có thông, thì sự thật hành mới không sai lệch trở ngại. Nhờ thế,
mà công phu hành trì niệm Phật của chúng ta, mỗi ngày mỗi thêm thăng tiến và sẽ chóng đạt thành kết quả tốt đẹp như sở nguyện.
Chúng tôi xin hết lòng tán thán công đức về việc ham tu hiếu học của toàn thể quý liên hữu. Nguyện cầu chư Phật gia hộ cho toàn thể liệt quý vị luôn được an bình trong nếp sống và luôn niệm Phật, hành thiện tu phước, tài bồi chủng duyên tịnh nghiệp sâu dày, trong tinh thần hướng thượng quyết tâm cầu vãng sanh Cực lạc.
Trân trọng.
Ðạo Tràng Quang Minh
Ngày 14 tháng 9 năm 2008.
Nhằm ngày rằm tháng 8 năm Mậu Tý. Thích Phước Thái.
-2-
1. Cưu ma la thập.
Ngài là người phiên dịch kinh này từ Phạn văn ra Hán văn. Cưu ma la thập tiếng Phạn là
Kumàrajva, gọi tắt là La thập. Ngài là một bậc cao tăng ở Trung Quốc, sống vào đời Ðông Tấn (344 - 413). Cha ngài là người Ấn Ðộ, mẹ là công chúa xứ Dao Tần, Tân Cương ngày nay. Cha mẹ ngài về sau đều xuất gia theo đạo Phật. Thuở nhỏ, ngài rất thông minh, mới 7 tuổi mà mỗi ngày ngài học thuộc lòng hơn hai ngàn bài kệ.
Ngài nổi tiếng lão thông kinh sử, tiếng tăm ngài vang khắp xứ Ấn Ðộ và Trung Quốc,
vua Phù Kiên nghe danh đức của ngài, liền sai tướng Lữ Quang đem quân đến thỉnh. Vì
bấy giờ ngài đang sống ở nước Quy Tư, tức nước Tân Cương. Lữ Quang thắng được
nước Quy Tư thỉnh ngài về triều, bấy giờ là triều đại Tiền Tần. Nhưng khi về đến giữa đường, nghe vua Phù Kiên mất, nên ngài bị giữ lại ở Lương Châu trải qua thời gian 17 năm.
Năm 401 Dao Hưng đánh bại họ Lữ, nhà vua liền thỉnh ngài về Trường An để dịch kinh. Ngài là người thông suốt ba tạng kinh, nên thời nhơn gọi ngài là Tam Tạng pháp sư. Ngài dịch rất nhiều kinh luận từ Phạn văn ra Hán văn.
Ngài có bốn người học trò nổi danh thừa kế sự nghiệp dịch thuật của ngài. Bốn vị đệ tử đó là: Tăng Triệu, Ðạo Sanh, Ðạo Dung và Ðàm Ánh.
Nhân duyên hóa đạo đã mãn, ngài viên tịch tại Trường An vào đời Ðông Tấn năm 413 Tây lịch, trụ thế 70 tuổi.
2. Hòa Thượng Thích Thiền Tâm.
Hòa Thượng pháp danh Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 ( Ất Sửu ) tại xã Bình Xuân, Gò Công Ðông, tỉnh Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn văn Hương và cụ bàTrần thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người thứ 10 trong số 13 anh em, 4 trai, 9 gái.
Thở nhỏ ngài là người học hành rất thông minh vừa học chữ quốc ngữ và vừa học chữ
Nho. Là người con chí hiếu, năm 12 tuổi, khi thấy mẹ đau yếu, ngài liền đi tìm thầy học
thuốc để mong trị lành bệnh cho mẫu thân. Nhân học thuốc tại chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho, ngài có dịp nghiên tầm Phật điển và nuôi dần ý chí xuất gia tu học.
Năm 18 tuổi, sau khi chăm sóc thuốc men cho mẹ lành bệnh, ngài liền xin phép song
đường để được đi xuất gia, nhưng không được cha mẹ đồng ý. Ngài đành phải âm thầm
trốn đi ( năm Giáp Thân 1944, lúc 19 tuổi ), đến tu tại chùa Sắc Tứ Linh Thứu ở Xoài
Hột và được thế phát xuất gia vào năm Ất Dậu ( 1945 ) làm đệ tử của Ðại lão Hòa Thượng Thành Ðạo.
-3-
Năm 1948, ngài thọ giới Sa di và học ở Phật học đường Liên Hải cùng Phật học đường
Nam Việt chùa Ấn Quang cho đến năm 1951 để hoàn tất chương trình Trung đẳng Phật học. Thời gian đó, ngài được thọ Tỳ kheo giới tại Ðại giới đàn Ấn Quang tổ chức năm 1950.
Từ năm 1951 đến năm 1954, ngài hoàn tất chương trình Cao đẳng Phật học tại Phật học
đường Nam Việt. Trong thời gian đang học lớp Cao đẳng, Ngài đã giúp cho Hòa Thượng Giám đốc Thiện Hòa trong việc điều hành sinh hoạt đại chúng. Ngài làm Tri chúng, còn Hòa Thượng Bửu Huệ làm Tri sự.
Năm 1954, tốt nghiệp Cao đẳng, Ngài xin phép chư Tôn đức trong Ban Giám Ðốc lui về nhập thất tịnh tu trong 10 năm tại trú xứ Cái Bè và Vang Quới. Trong thời gian nhập thất
tịnh tu này, Hòa Thượng đã dịch các kinh sách xiển dương pháp môn Tịnh độ: Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Tịnh học Tân Lương, Lá thơ Tịnh Ðộ, Hương quê Cực Lạc, và giảng dạy cho ni chúng khắp nơi đến thọ học.
Năm 1964, Hòa Thượng Thiện Hòa mở Trường Trung đẳng Chuyên Khoa Phật học tại chùa Huệ Nghiêm, Bình Chánh, Sài Gòn. Ngài và hai vị Thanh Từ Bửu Huệ được mời giao đảm trách việc giáo dục học Tăng.
Năm 1967, Ngài đến Ðại Ninh, ấp Phú An, xã Phú Hội, huyện Ðức Trọng, tỉnh Lâm Ðồng, kiến thiết Hương Quang Thất, chuẩn bị cho giai đoạn ẩn tu.
Năm 1968, Hòa Thượng chính thức về trụ hẳn ở Ðại Ninh, lập nên đạo tràng Tịnh độ, để tiếp hóa Tăng Ni, Phật tử đến tu học. Trong thời gian tịnh tu ở đây, Hòa Thượng có soạn thuật các sách chuyên thuyết minh Tịnh độ như: Niệm Phật thập yếu, Tây phương nhựt khóa, Tịnh độ pháp nghi và phiên dịch Kinh Phật Ðảnh Tôn Thắng Ðà La Ni.
Năm 1970, Ngài xây dựng Hương Nghiêm Tịnh Viện, là trung tâm xiển dương pháp môn Tịnh độ ở miền Nam.
Năm 1974, Ngài mở khóa tu học chuyên về pháp môn Tịnh độ trong 3 năm, với số liên chúng 13 vị dưới sự hướng dẫn của Ban Liên Ðạo gồn 3 vị: Liên thủ: Hòa Thượng Bửu Huệ, Liên Huấn: Hòa Thượng Thiền Tâm, Liên Hạnh: Hòa Thượng Bửu Lai.
Từ năm 1975, Ngài viễn ly mọi sự nghe thấy bên ngoài, lặng lẽ nhiếp tâm tu niệm gia trì hai pháp môn Mật Tịnh song hành. Trong thời gian chuyên tu này, Ngài đã soạn dịch các bộ: Mấy Ðiệu Sen Thanh và Tam Bảo Cảm Ứng Lục, để làm lợi lạc nhơn sinh và khuyến tu Tịnh độ.
Biết sức khỏe yếu nhiều, Ngài đã giao hết mọi việc trong Viện cho Tăng đồ quản lý điều
hành. Ngài đã cố gắng khắc phục thân bệnh, nỗ lực trì danh hiệu Phật, cho đến khi cảm
nhận thời khắc vãng sanh, Ngài bảo đồ chúng vây quanh trợ niệm, rồi đến 9 giờ sáng
ngày 21 tháng 11 năm Nhâm Thân ( tức nhằm 14/2/1992 ), Ngài an nhiên thoát hóa, vãng sanh trụ thế 68 tuổi, 42 hạ lạp.
-4-
Các tác phẩm của Hòa Thượng để lại:
Kinh Quán Vô Lượng Thọ
Tịnh Học Tân Lương
Lá Thơ Tịnh Ðộ
Hương Quê Cực Lạc
Phật Học Tinh Yếu
Duy Thức Học Cương Yếu
Tịnh Ðộ Thập Nghi Luận
Kinh Ðại Bi Tâm Ðà La Ni
Niệm Phật Thập Yếu
Tây Phương Nhựt Khóa
Tịnh Ðộ Pháp Nghi
Kinh Phật Ðảnh Tôn Thắng Ðà La Ni
Mấy Ðiệu Sen Thanh
Tam Bảo Cảm Ứng Lục.
II. Giải Thích Ðề Kinh.
Ðề kinh gồm có 6 chữ: Kinh Niệm Phật Ba La Mật. Căn cứ vào 7 cách lập đề của Thiên
Thai Trí Giả Ðại Sư, thì 7 cách lập đề như sau:
1. Ðơn nhơn lập đề: Kinh A Di Ðà.
2. Ðơn pháp lập đề: Kinh Ðại Bát Niết Bàn. 3. Ðơn dụ lập đề: Kinh Phạm Võng.
4. Nhơn pháp lập đề: Kinh Văn Thù Vấn Bát Nhã. 5. Pháp dụ lập đề: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. 6. Nhân dụ lập đề: Kinh NHư Lai Sư Tử Hẩu.
7. Nhân, pháp, dụ lập đề: Phật thuyết Ðại Phương Quảng Hoa Nghiêm.
Cứ theo 7 cách lập đề trên, thì đề kinh này thuộc về Ðơn Pháp lập đề. Nghĩa là chỉ đơn thuần có Pháp mà không có Nhơn và Dụ.
1. Kinh:
Kinh là danh từ chung chỉ cho những lời Phật dạy, được chư Tổ kết tập lại, gọi là kinh.
Kinh nói cho đủ là khế kinh. Chữ khế có nghĩa là hợp. Hợp với căn cơ của mỗi chúng
sanh và hợp với chân lý. Phải đủ hai nghĩa đó mới gọi là kinh. Nói một cách tổng quát là như thế.
2. Niệm:
Niệm là một động từ gồm có hai nghĩa chính: "nhớ và biết". Chữ"Nhớ" ở đây, không có
nghĩa là nhớ lại chuyện quá khứ hay vị lai, mà chỉ nhớ những gì đang xảy ra trong giây
phút hiện tại. Như nhớ danh hiệu Phật, thì chỉ nhớ một bề khắn khít với câu hiệu Phật mà mình đang niệm. Tuyệt đối, không nên nhớ hay biết việc gì khác. Như vậy, mới đúng với
-5-
ý nghĩa của chữ niệm Phật. Ðó là nghĩa của chữ nhớ. Còn chữ"Biết" cũng vậy. Nghĩa là
biết những gì đang xảy ra trong hiện tại, mà không cần biết đến những chuyện đã qua hay
những chuyện chưa tới. Như đi, tôi biết là tôi đang đi. Ngồi, tôi biết là tôi đang ngồi
v.v¼Biết như thế, gọi là biết trong chánh niệm. Sống được với cái Nhớ hay Biết như thế là chúng ta sẽ được an lạc giải thoát ngay trong cuộc đời này. Bằng ngược lại, thì đó là tà niệm hay thất niệm. Mà tà niệm hay thất niệm, thì chắc chắn sẽ mang lại sự khổ đau cho chúng ta.
3. Phật:
Phật là một danh từ chung chỉ cho những vị đã hoàn toàn giác ngộ. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud ( Bụt ) là giác hay tỉnh thức; Dha là người. Buddha có nghĩa là
người hằng tỉnh thức. Chữ Buddha người Trung Hoa phiên âm là Phật Ðà, dịch nghĩa là Giác giả. Giác giả có nghĩa là người giác ngộ. Giác có 3 nghĩa: Tự giác, giác tha và giác
hạnh viên mãn. Bất luận người nào, tu hành sạch hết vi tế vô minh phiền não, thì gọi người đó là Phật.
4. Ba la mật:
Ba la mật là phiên âm từ chữ Phạn Paramita. Chữ này vì nó có nhiều nghĩa, nên người ta chỉ đọc nguyên âm mà thôi. Người Trung Hoa dịch có những nghĩa: Ðáo bỉ ngạn, Sự cứu cánh, Ðộ vô cực v.v¼Thường người ta hay dùng từ Ðáo bỉ ngạn để nói lên cái nghĩa Ba la mật. Ðáo bỉ ngạn có nghĩa là đến bờ bên kia. Ðáo là đến; bỉ là kia; ngạn là bờ. Ðây là
một hình dung từ: Bờ bên này là ám chỉ cho bờ sanh tử. Còn Bờ bên kia là ám chỉ cho Bờ giải thoát hay Niết bàn.
Ba la mật, ngoài ý nghĩa nói trên, nó còn là một tập tục của người Ấn Ðộ. Người Ấn, khi
họ làm xong một việc gì đó, thì họ thường reo hò lên là Paramita. Paramita có nghĩa hoàn tất hay xong việc.
Tóm lại, qua phần chiết tự giải thích danh đề trên, cho chúng ta một yếu nghĩa: "Kinh nói về việc niệm Phật đến chỗ cứu cánh viên mãn, tức thành Phật vậy".
III. Nội dung toàn kinh.
Toàn kinh gồm có 7 phẩm:
1. Phẩm Duyên Khởi.
2. Phẩm Mười tâm thù thắng. 3. Niệm Phật công đức.
4. Xưng tán danh hiệu Phật.
5. Quán Thế Âm Bồ tát niệm Phật viện thông.
6. Năng lực bất tư nghì của danh hiệu Phật.
7. Khuyến phát niệm Phật và đọc tụng Chân Ngôn.
IV. Giải thích kinh văn.
-6-
Phẩm Thứ Nhất: Duyên khởi.
Kinh Văn
Chính tôi được nghe như thế này. Một thuở nọ, Ðức Phật kiết hạ tại núi Kỳ xà quật, gần thành Vương Xá với chúng đại Tỳ kheo một muôn hai nghìn người. Ðó là các vị Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên
Diên, Tu Bồ Ðề, La Hầu La, Phú Lâu Na, A Nan, A Nan Ðà, Ma Ha Ba Xà Ba Ðề,
Gia Du Ðà La v.v¼
Giảng Giải
Ðoạn văn kinh này là phần thông tựa của các kinh. Ða phần, bộ kinh nào cũng có nêu lên phần tựa chung như thế. Phần tựa này nhằm nêu bày phẩm định rõ về "Lục chủng chứng
tín" hay còn gọi là "Lục chủng thành tựu". Chứng tín là ghi nhận để làm bằng tin cho người đời sau. Y cứ vào đó mà biết rằng kinh này là chính do Phật nói và Ngài A Nan
thuật lại. Sáu món chứng tín gồm có:
1. Tín thành tựu
2. Văn thành tựu.
3. Thời thành tựu.
4. Chủ thành tựu.
5. Xứ thành tựu.
6. Chúng thành tựu.
Như thế nàyNguyên chữ Hán Việt là: "Như thị". Như thị có chỗ dịch là "Như vầy". Hai chữ này là chỉ cho những điều mà Phật đã chỉ dạy nghĩa lý trong kinh này. Nói một cách nghiêm khắc hơn, hai chữ "Như vầy" là nhằm nói rõ về pháp môn niệm Phật. Nếu chúng
ta nhận hiểu rõ yếu chỉ và thật hành đúng theo những gì mà Phật đã dạy trong kinh này,
thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được kết quả tốt đẹp như ý muốn. Ðó là yếu lý trực chỉ niệm Phật tất sẽ thành Phật vậy. Ðây thuộc về"Tín thành tựu".
Chính tôi được nghe ( ngã văn ):Ðây là lời tự thuật của Ngài A Nan. Bởi trước khi đức Phật vào Niết bàn, Ngài A nan có thưa hỏi đức Phật: "Khi kiết tập kinh điển mở đầu các
kinh, nên để câu gì"? Phật dạy nên để câu: Tôi nghe như vầy¼Ðây thuộc về "Văn thành tựu".
Một thuở nọ ( nhứt thời ):có chỗ dịch là "một hôm", đây là chỉ cho thời gian mà Phật nói kinh. Sở dĩ người ta không nêu rõ thời gian để xác định năm tháng ngày giờ rõ rệt, là vì thời gian của mỗi quốc độ mỗi khác. Lịch của mỗi nước không giống nhau. Do đó, nên
chỉ nêu ra thời gian, mà người ta không xác định rõ năm, tháng, ngày, giờ là lý do đó. Ðây thuộc về "thời thành tựu".
Ðức Phật. Phật là người thuyết giảng kinh này, nên nói là: "Chủ thành tựu".
-1-
Kiết hạ tại núi Kỳ xà quật gần thành Vương xá. Ðây là xác minh rõ địa điểm nơi mà
Ðức Phật nói kinh này, gọi là: "Xứ thành tựu".
Kiết hạtức chỉ cho thời gian ba tháng an cư của Phật và Tăng chúng. An cư là một tập
quán chung của các giáo đoàn thời Phật. Mục đích là để tránh mưa, vì mùa mưa ở Ấn Ðộ
là mùa mà các loài côn trùng sinh sôi nẩy nở rất nhiều. Do đó, nên Phật và Tăng đoàn
phải cấm túc dừng chân nơi một trú xứ, không đi khất thực, để tránh dẫm đạp lên các loài côn trùng. Ðó là thể hiện lòng từ bi của Phật và của Tăng chúng vậy.
Thời gian an cư tính theo thời tiết và lịch Ấn Ðộ là vào khoảng giữa tháng 6 dương lịch, kéo dài cho đến khoảng giữa tháng 9 dương lịch. Noi theo tập tục truyền thống đó, ngày
nay, các nước Phật giáo Nam tông hay Bắc tông, mỗi năm cũng đều có tổ chức quy tụ Tăng Ni về một trú xứ cố định để làm lễ an cư. Trong ba tháng an cư này là một cơ hội rất tốt để cho chư Tăng Ni, có dịp trau dồi học hỏi và giữ gìn giới đức cho được nghiêm
minh thanh tịnh. Ðiều này, chỉ là noi theo truyền thống xưa thôi, chớ kỳ thật thì nó không đúng ý nghĩa như thời đại của Phật.
Kỳ xà quậttiếng Phạn là GrdhraKuta, Trung Hoa dịch là Linh Thứu. "Thứu" là chim
kên kên. Có thuyết cho rằng đầu núi này giống hình kên kên; thuyết khác lại bảo nơi phía
nam của núi thường có loài chim kên kên tụ họp về tại rừng Thi Ðà, vì thế mới gọi là
Thứu phong hay Thứu lãnh. Còn về chữ "Linh", thì có thuyết nói nơi ngọn núi này
thường có bậc tiên thánh y trụ, hoặc nhiều linh thoại ( điềm lành ) hiện ra, thuyết khác lại
bảo là đại ý ám chỉ cho loài chim kên kên có tánh linh. Các thuyết trên có thể đều đúng
cả, nhưng dù đúng hay không cũng chẳng mấy quan hệ, duy có điểm xác thật là khí hậu ở
non Thứu quanh năm luôn luôn mát mẻ, nên đức Phật và các đệ tử thường hay tĩnh dưỡng tại nơi đây ( Kinh Quán Vô Lượng Thọ tr 8 ).
"Thành Vương Xá" -Vương Xá tiếng Phạn gọi là La duyệt kỳ dà la ( Rajagrha ), ý
nghĩa chỉ cho chỗ cư xá của hàng vua chúa. Theo truyền thuyết, thì thuở xưa vua Quảng
Xa được thần linh mách bảo rằng: muốn tìm nơi địa cảnh tốt thì nên du ngoạn ngoài
thành, tất sẽ được gặp. Một hôm nhân đi săn bắn, vua đuổi theo con nai cùng chạy đến vùng núi Kỳ xà quật, thấy nơi đây phong quang thanh tú, có rừng cây cao tốt, hoa đẹp suối trong, mới di cư tới bản địa và kiến lập thành quách cung xá. Con cháu của vua kế thừa ý chí tổ phụ, đời đời vẫn định cư tại đây.
Lại một truyền thuyết khác bảo: Thuở xưa nhân dân khi mới theo vua di cư về thành ấy,
nhà cửa người nào vừa cất xong cũng đều bỗng tự nhiên phát hỏa cháy tiêu tan cả, duy có cung thất của vua là không bị cháy. Dân chúng đem việc ấy tâu lên, vua bảo: " Từ đây về
sau, nếu có ai cất nhà đều phải nói lớn lên: Tôi cất nhà này cho vua!" Mọi người y lời,
quả nhiên nhà cửa không bị cháy. Do hai sự tích trên, thành này được mệnh danh là
Vương Xá. Ðức Phật khi xuống thành Vương Xá thì hóa độ hàng tại tục, lúc lên đỉnh Thứu sơn lại thuyết pháp cho chúng xuất gia.
Với chúng đại Tỳ kheo một muôn hai nghìn người.Thông thường ở các kinh khác hay nêu ra là một ngàn hai trăm năm mươi ( 1250 ) bậc đại Tỳ kheo. Con số 1250 vị Tỳ kheo, là những vị thường theo Phật trong suốt cuộc đời hành hóa của đức phật từ sau ngày Phật
-2-
thành đạo cho đến khi nhập diệt. Số chúng đông như thế là do đồ chúng của 3 anh em Ca
Diếp: Dà da ca diếp, Nan đề ca diếp và Ưu lầu tần loa ca diếp, cùng với đồ chúng của hai Ngài: Xá lợi phất và Mục kiền liên, cộng chung lại là 1250 vị. Nhưng ở đây, thì nêu ra số lượng Tỳ kheo dự hội thuyết pháp này đông hơn. Thế thì đủ biết, đây là thời pháp rất đặc biệt và quan trọng. Vì có rất nhiều hội chúng Thanh Văn tham dự.
Ðứng đầu là Trưởng lão Xá lợi phất. Ngài là bậc trí huệ đệ nhất trong hàng Thanh Văn. Sở dĩ nêu danh Ngài trước tiên, là vì pháp môn niệm Phật Ba la mật mà Phật sắp nói ra đây, nó rất là khó tin khó hiểu. Vì thế, phải là bậc có trí huệ vượt hơn người thường mới
có thể tin hiểu được. Hai chữ Trưởng lão là để tôn xưng những bậc có giới đức ngôn hạnh vượt trội hơn người.
Xá lợi phấttiếng Phạn là Sariputra. Sari là xá lợi, Trung Hoa dịch là Thu Lộ; Putra có
nghĩa là Phất, Trung Hoa dịch là Tử. Cho nên, còn gọi Ngài là Thu Tử cũng nói là Thân
tử, hoặc Châu tử. Ngài là người trí huệ đệ nhất trong hàng Thanh Văn, có biệt tài nghị
luận. Ngài thuộc dòng dõi Bà la môn, thân phụ là Ðề Xá, là một luận sư nổi tiếng đương thời.
Thuở nhỏ, Ngài rất thông minh, mới 8 tuổi mà đã thông suốt giáo điển Bà la môn và rất
giỏi về môn nghị luận. Ngài theo đạo thờ thần lửa và là bạn chí thân, chí cốt với Ngài Mục kiền liên. Về sau, Ngài và Tôn giả Mục kiền liên dẫn nhóm đệ tử đến quy y theo
Phật xuất gia. Hai Ngài đã giúp cho Ðức Phật trong công cuộc hoằng hóa độ sanh rất lớn.
Ma ha Mục kiền liên, Ngài là thần thông đệ nhất. Ma ha dịch là Ðại. Mục kiền liên dịch
là Thái thúc thị. Thuyết khác nói: Lai bặc. Mục kiền liên là họ, tên Ngài là Câu luật đà, đây là tên của một thứ cây. Vì cầu vị thần ở nơi cây này mà sanh ra Ngài nên lấy đó mà
đặt tên. Ngài là người đã từng thi triển thần thông để chiết phục ngoại đạo làm cho ngoại
đạo phải kính nể mà quy hướng về đức Phật. Ngài là người có công rất lớn trong công việc nhiếp hóa đồ chúng.
Ma ha Ca diếp, Ngài tu theo hạnh đầu đà đệ nhất. Ca Diếp Trung Hoa dịch là Ðại qui
thị, có thuyết nói là Ẩm Quang. Nói Ðại qui thị, là nhân vì đời trước Ngài đi học đạo gặp con linh qui đội bản đồ ra sông, nhơn lấy đó mà đặt họ.
Ẩm quang là do vì đời trước Ngài là người thợ làm đồ vàng, bạc cùng với một người nữ thanh tịnh đồng phát tâm lấy vàng quang phết tượng Phật bèn cảm được quả báo đời đời
thân của Ngài như sắc vàng chói ngời loáng phủ các sắc khác, cho nên tên Ngài là Ẩm Quang. Ðầu đà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Ðẩu tẩu, là chỉ cho người tu khổ hạnh.
Tu bồ đề,là tiếng Phạn, Ngài là người giải không đệ nhất, tức thâm hiểu lý Bát nhã
không ai bằng. Có chỗ dịch là Thiện Hiện, hoặc Không Sanh, hay Kiết Tường. Khi Phật thuyết pháp nói đến lý Bát nhã đả phá mọi vọng chấp tà kiến trong giáo đồ cũng như các
hàng ngoại đạo, thì Ngài thường đại diện cho đương hội đứng ra thưa hỏi. Như trong
Kinh Kim Cang Bát Nhã, chính Ngài là người đại diện trong chúng đứng ra để thưa hỏi đức Phật về lý sắc không. Nhờ đó, mà đức Phật mới giải đáp và làm thỏa mãn mọi thắc
-3-
mắc của đại chúng. Do vậy, mà đại chúng mới lãnh hội nghĩa lý một cách rất dễ dàng.
Bởi thế, chính Ngài là người có công rất lớn trong vấn đề thưa hỏi này.
La hầu latiếng Phạn là Rahula, Trung Hoa dịch là Phú Chướng, cũng dịch là Chấp Nhựt, Ngài là người tu mật hạnh đệ nhất.
Phú chướng là tên thần A tu la. Vì khi sanh ông nhằm lúc thần A tu la đang lấy tay che
áng sáng mặt trời, mặt trăng, nên đặt tên ông là Phú chướng, hay Chấp nhựt. Chướng có 2 nghĩa: 1. Phật bị ông làm chướng không xuất gia được sớm. 2. Do đời trước ông lấp hang
chuột sáu ngày, nên nay mắc quả báo ở trong thai mẹ 6 năm. Thế là ông tự làm chướng lấy ông.
Phú lâu nalà gọi tắt, nếu gọi cho đủ thì phải nói là Phú lâu na di đa la ni tử. Ngài là
người thuyết pháp đệ nhất. Ðức Phật thường khen Ngài là thuyết pháp hay nhất trong các
vị đại đệ tử. Ngài còn có tên khác là Mãn từ tử. Ngài sanh ra trong một gia đình giàu có rất có danh tiếng ở xứ Ấn Ðộ thời bấy giờ. Dù Ngài đã được cha mẹ thương yêu nuông
chiều đủ thứ, nhưng không vì thế mà Ngài quên đi chí nguyện theo Phật xuất gia. Sau khi
xuất gia, Ngài đã đãi lao cho Phật rất nhiều trong công việc trọng đại hoằng pháp lợi sanh.
A Nan, có khi gọi Ngài là A nan đà, Trung Hoa dịch là Khánh hỷ. Ngài ra đời cùng ngày
với Ðức phật thành đạo, nhân đó mới đặt tên Ngài là Khánh Hỷ. Khánh là mừng mà Hỷ
cũng là mừng. Ý nói mừng Ngài sanh ra và mừng Ngày Phật thành đạo. Vì có hai cái
mừng lớn như thế, nên đặt tên Ngài là Khánh Hỷ. Ngài là người Ða văn đệ nhất. Ngài có
một trí nhớ siêu việt. Tất cả những lời Phật thuyết pháp, Ngài đều ghi nhớ rất rõ không sai một mãi. Ngài là người thường theo hầu Ðức phật cho đến khi Phật nhập diệt.
A nan đà, Ngài này là em cùng cha khác mẹ với Ðức Phật. Xin chớ lầm tên với Ngài A
Nanlà anh em chú bác với Phật. Nan đà Trung Hoa dịch là Thiện hoan hỷ. Thường trong
Kinh hay nêu thêm hai chữ Phóng ngưu để gọi tên ông. Bởi lẽ vì có tới ba ông tên trùng hợp nhau: A nan đà, Nan đà, và Tôn đà la nan đà. Ðể biện biệt nên ông thường được gọi là Phóng ngưu nan đà.
Ma ha ba xà ba đề,Bà là người dì của đức Phật. Thường gọi Bà là Kiều Ðàm Di Mẫu.
Sau khi sanh Thái tử được 7 ngày, thì Bà Hoàng Hậu Ma Da lâm bệnh qua đời. Từ đó, bà là người cận kề chăm sóc Thái tử. Sau khi Phật thành đạo, Bà là người xin Phật xuất gia. Bà là người đứng đầu trong hàng Ni chúng.
Gia du đà la, tiếng Phạn là Yasodhara, Trunh Hoa dịch là Trì Dự, Trì Xưng hay Hoa Sắc. Có nhiều truyền thuyết nói về bà. Có thuyết nói: Bà là con gái của Chấp Trượng,
thuộc dòng dõi họ Thích Ca, thành Ca tỳ la vệ Trung Ấn Ðộ, là chánh phi của Thái tử Tất Ðạt Ða, mẹ ruột của La hầu la.
Thuyết khác lại nói: Bà là con gái của Ðại thần Ma ha Ma na, thuộc chủng tộc Bà tư tra cũng thuộc dòng họ Thích.
-4-
Một thuyết khác lại cho rằng, bà là em gái của Ðề bà, con gái của vua Thiện Giác ở thành
Thiên Tý. Bà có vóc dáng đoan trang, xinh đẹp bậc nhất, đủ các đức tướng tốt. Sau khi đức Thích Tôn thành đạo 5 năm, bà và di mẫu của đức Thích Tôn là Ma ha ba xà ba đề cùng xuất gia thọ giới cụ túc làm Tỳ kheo ni.
Trên đây, nêu ra một số các vị đại đệ tử thuộc hàng Thanh Văn bên Tăng cũng như bên Ni để làm tiêu biểu. Sau đây, mới nêu ra các thính chúng Bồ tát.
Kinh Văn
Lại có tám muôn vị đại Bồ tát khắp mười phương cùng đến tham dự. Ðó là các
Ngài: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Ðại Thế Chí
Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Ðịa Tạng Bồ Tát, Diệu Âm Bồ Tát, Ðại Cường Tinh Tấn
Dõng Mãnh Bồ Tát, Ðà La Ni Tự Tại Công Ðức Lâm Bồ Tát, Trang Nghiêm Vương
Bồ Tát¼tất cả đều có năng lực thâm nhập vô lượng tam muội môn, tổng trì môn, giải thoát môn, đã chứng pháp thân, đắc ngũ nhãn, biện tài vô ngại, thần thông du hý, biến hiện đủ loại thân tướng khắp các quốc độ để cứu vớt chúng sanh.
Giảng giải
Trước là nêu chúng Thanh Văn, tiếp theo là nêu chúng Bồ Tát. Nghĩa là chẳng những
hàng Thanh Văn dự hội đông đảo mà ngay cả các bậc đại Bồ tát cũng dự hội rất đông để nghe Phật thuyết pháp nói về:"pháp môn Niệm Phật Ba La Mật".
Bồ tátnói đủ là Bồ đề tát đỏa, tiếng Phạn là Bodhisatra. Trung Hoa dịch có 2 nghĩa:
1.hữu tình giác. 2. giác hữu tình. Hữu tình giác, có nghĩa là một con người giác ngộ. Vì Bồ tát cũng là một con người như bao nhiêu con người khác, nhưng chỉ khác hơn người
thường là ở chỗ các Ngài đã giác ngộ. Sau khi giác ngộ, các Ngài đem chỗ sở ngộ của mình để giáo hóa chúng sanh, để mọi loài đều được giác ngộ như mình, thì gọi là Giác
hữu tình. Bồ tát có 3 bực:
1. Những người mới phát tâm tu hành cầu pháp Ðại thừa, tu hạnh Bồ tát, là Bồ tát
mới phát tâm, trong kinh thường gọi bực này là Sơ phát tâm Bồ tát.
2. Những người học đạo Ðại thừa đã lâu đời, chứng đặng bậc Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng cho đến Thập Ðịa, là bực Bồ tát tu lâu. Những người này được gọi "cựu Bồ tát".
3. Bồ tát chứng bậc Ðẳng giác, đây là vị Bồ tát gọi là nhứt sanh bổ xứ kế Phật. Như
Bồ tát Di Lặc gọi là Ðẳng giác Bồ tát. Như vậy, bất luận người nào có đủ hai ý nghĩa: tự giác và giác tha, đều gọi chung là Bồ tát.
Trong hội chúng Thanh Văn ở trên, trước nêu Ngài Xá lợi phất,vì Ngài là bậc trí huệ đệ
nhất trong hàng Thanh Văn. Trong hội chúng Bồ tát, trước nêu Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, vì Ngài là người có trí huệ đệ nhất trong hàng Bồ tát. Sở dĩ nêu hai bậc đại trí như thế, là vì đối với pháp môn niệm Phật thắng diệu hy hữu này, không phải dễ tin, dễ nhận, dễ hiểu.
-5-
Nếu không phải là bậc đại trí, thì thử hỏi làm sao có thể thâm nhập thấu hiểu trọn vẹn cho
được? Thế nên, cần phải nêu tên hai Ngài ra trước vậy.
Văn Thù Sư Lợi Bồ tátlà tiêu biểu cho Ðại Trí. Văn Thù Trung Hoa dịch là Diệu Thủ,
cũng dịch là Diệu Cát Tuờng cũng dịch là Diệu Ðức. Mỗi tên gọi đều có ý nghĩa khác
nhau. Nói Diệu Thủ, là y cứ theo tôn hoa Nghiêm có nêu ra ba pháp môn: Tín, Hạnh và
Trí, mà Diệu thủ là pháp môn Tín đứng đầu, vì tin là đầu muôn hạnh, muôn đức vậy. Còn nói Diệu Cát Tường là chuyên nói về pháp môn Hạnh.
Luận Phật Ðịa nói: Ðược tất cả thế gian thân cận cúng dường và tán thán nên gọi Ngài là Diệu Cát Tường. Diệu Ðức là chuyên nói về pháp môn Trí. Kinh nói Trí là mẹ chư Phật, là thầy đức Thích Ca, đâu chẳng phải Diệu Ðức ( đức mầu nhiệm ), đó tức là "Hạnh" mà "Giải".
Phổ Hiền Bồ táttiếng Phạn là Sanantabhadra, còn gọi là Biến Cát Bồ tát. Ngài là tiêu
biểu cho đại hạnh. Hình tượng Ngài được thiết trí cỡi con voi trắng hầu bên phải của Ðức
Phật Thích Ca. Bên trái là Ðại Trí Văn Thù Bồ Tát. Ðã có đại trí cần phải có đại hạnh
mới có thể phổ độ chúng sanh. Thế nên, Ðại Trí và Ðại Hạnh phải song hành với nhau, không thể tách rời ra được.
Quán Thế Âm Bồ tátlà vị Bồ tát luôn tầm thinh cứu khổ chúng sanh. Ngài rất có nhân
duyên rất lớn với chúng sanh ở cõi Ta bà này. Khi gặp hoàn cảnh bức bách thống khổ
cùng cực, người ta thường niệm danh hiệu Ngài. Vì mọi người tin rằng đó là hạnh nguyện
cứu khổ của Ngài. Hữu cầu tất ứng, vì đó là bản hoài cứu khổ, cứu nạn của Bồ tát. Bởi
thế, nên Ngài là tiêu biểu cho Ðại Bi. Có Trí có Hạnh, tất nhiên là phải có Bi. Bi là lòng
thương rộng lớn, không phân biệt thân sơ. Muốn cứu độ chúng sanh cùng khắp ( Ðại
Hạnh ) đòi hỏi hành giả phải có lòng Ðại Bi. Thể hiện lòng đại bi cùng khắp này, thì chỉ có Quán Thế Âm Bồ tát mới có thể tiêu biểu cho tấm lòng Ðại Bi rộng lớn không ngằn mé đó.
Ðại Thế Chí Bồ Táttiếng Phạn là Mahàsthàmapra. Ngài là người đứng hầu cận bên phải
của Ðức Phật Di Ðà. Bên trái là Bồ tát Quán Thế Âm. Ngài cũng là tiêu biểu cho trí tuệ.
Quán Thế Âm là tiêu biểu cho đức từ bi như nói ở trên. Trí tuệ và từ bi hợp lại thành ngôi chánh giác, tứ là đức phật A Di Ðà.
Di Lặc Bồ táthay còn gọi Ngài là A Dật Ða. A Dật Ða Trung Hoa dịch là Vô năng
thắng. Di Lặc Trung Hoa dịch là Từ Thị. Hiện tại Ngài đang ngự trên cõi trời Ðâu Suất,
để chờ ngày giáng sanh xuống cõi Ta bà này tu hành thành Phật độ chúng sanh. Cho nên, thường xưng tụng Ngài là đương lai hạ sanh Từ Thị Di Lặc.
Ðịa Tạng Bồ táttiếng Phạn là Ksitigarbha, vị Bồ tát được sự phó chúc của Ðức Thích
Tôn đã thệ nguyện độ hết chúng sanh trong 6 đường rồi Ngài mới thành Phật. Ðịa ngục vị
không thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề. Ðó là đại nguyện của Ngài. Có thuyết nói, Ngài là vị Bồ tát tượng trưng, chớ không phải là một nhân vật lịch
sử như đức Phật Thích Ca. Trong bài Tựa của Kinh Ðịa Tạng có nêu rõ qua ý nghĩa này: Ðịa Tạng là tượng trưng cho bản tâm của mỗi chúng sanh sẵn có. Bản tâm đó cứng rắn,
-6-
sâu dày như đất. Tuy vô hình nhưng không gì ngoài tâm mà có, nên lấy đất dụ cho tâm.
Vì đất có hai công năng: "năng sanh và sở sanh".
Về ý nghĩa của danh hiệu Bồ tát Ðịa Tạng có nhiều thuyết khác nhau. Theo Kinh Ðại
Phương Quảng Thập Luận nói: Ngài có hình tướng của một vị Sa môn. Nói chung hình tượng được lưu truyền rộng rãi nhất là loại hình tượng trong ẩn hạnh Bồ tát, ngoài hiện
Bùi Van Chung
A di đà Phật. Con muốn thỉnh Kinh niệm Phật Balamat và quyển giảng giải có được không ạ.
Thích 3 Trả lời 11/15/2016 12:12:13 AM