;
Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ. Pháp của Thế Tôn khiến cho bất kể ai hành trì sẽ được an lạc, hạnh phúc và vô úy (không sợ hãi ngay trong giây phút hiện tại), ngay trong đời này, dẫn đến giải thoát, niết bàn.
Đức Phật trong Kinh Di Giáo cấm các đệ tử tin theo bói toán, tử vi, phong thủy, ngược lại sách tấn bốn chúng đệ tử hành theo lời Ngài dạy như Bát Chánh Đạo, 37 phẩm trợ đạo, tứ niệm xứ, tứ vô lượng tâm, niệm ân đức Phật, Niệm Phật, giới, định, tuệ, đoạn ác tu thiện (thân, khẩu và ý) để được an lạc, hạnh phúc, không sợ hãi cho đến giải thoát, niết bàn.
Theo Kinh Nikaya (Pali) Tăng Chi Bộ Kinh, chương 5, phẩm Nam Cư Sĩ, phần kẻ bị vất đi, Thế Tôn xác quyết những đệ tử nào "đoán tương lai với những nghi lễ đặc biệt; tin tưởng điềm lành, không tin tưởng hành động.." được xem là kẻ bị vất bỏ ra khỏi giới cư sĩ, cấu uệ hạ liệt." (Tăng chi bộ kinh, chương 5, phẩm Nam Cư Sĩ, phần kẻ bị vất đi".
Tương lai, không có gì là cố định, hoặc định mệnh. Pháp là bất định, luôn biến đổi tùy theo tâm ý, hành động tạo tác, điều kiện và hoàn cảnh.
Chuyện số 301 Tiểu Vương Kalìnga trong Tiểu Bộ Kinh Nikàya (Pali) cho thấy lời tuyên đoán của Vua Trời Đao Lợi, Thiên Đế Thích là sai, không đúng, không có nhất định.
Trong câu chuyện này, Thiên Chủ Đế Thích cho rằng quân của vua Kalìnga sẽ thắng quân của vua Assaka. Tuy nhiên, vua Assaka có một vị tướng quân dũng mãnh với một ngàn kỵ sỹ dũng cảm, kiên cường đã đồng tâm hiệp lực đánh bại quân của vua Kalìnga.
Như vậy ông Thiên Đế Thích đã đoán sai. Ngay cả Thiên Đế Thích với thần lực vô biên như vậy mà còn đoán sai huống gì những người xem tướng số, tử vi cũng như phong thủy thời này.
Câu chuyện chú Sa Di cứu đàn kiến là một bài học quý báu cho những người con Phật chân chánh. Chuyện kể, sư phụ chú sa di này là một vị đã thành tựu A La Hán Quả và có thần thông lực.
Khi nhập định, vị sư phụ thấy thọ mạng của chú sa di này trong bảy ngày nữa là hết. Vì thế, vị sư phụ cho chú sa di này về quê thăm cha mẹ. Trên đường về quê, thấy đàn kiến đang bị dòng nước cuốn trôi. Chú sa di nhanh tay cứu lấy đàn kiến. Sau bảy ngày, chú sa di trở lại Thiền Môn. Vị sư phụ ngạc nhiên và nhập định và thấy chú sa di thoát nạn chết sớm mà còn sống thọ hơn là nhờ cứu lấy đàn kiến thoát nạn.
Vì thế, là Phật tử chân chánh, lo tu thiện, tích đức từ thân, khẩu và ý để chuyển hóa nỗi khỗ và niềm đau thành an lạc, hạnh phúc, giải thoát, niết bàn. Cho nên đừng chạy theo bói toán, tử vi, phong thủy, tướng số mà bỏ qua giây phút hiện tại tu tâm (hiện tại lạc trú) để được an lạc ngay trong lúc này, tiến đến giải thoát, niết bàn, hoặc hành Bồ Tát Đạo, lợi mình, lợi người, lợi cho Tam Bảo.
Trước khi nhập Niết Bàn, Đức Thích Tôn ân cần nhắc nhỡ "Lấy giáo pháp và luật của ta làm chỗ nương tựa, đừng nương tựa vào một điều gì khác." (Trường Bộ Kinh, Đại Bát Niết Bàn Kinh - Pali).
Giáo pháp của Thế Tôn không có tử vi, bói toán, tướng số, không có phong thủy mà là: Tứ Diệu Đế- Khổ, Tập, Diệt Đạo, Bát chánh đạo, 37 phẩm trợ đạo, tứ vô lượng tâm, tứ niệm xứ, niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng niệm thí vv.
Vì thế, Thế tôn xác quyết: Đệ tử chánh tông của Như Lai sinh ra từ miệng như lai, do pháp sinh ra, do pháp tạo ra, con cháu chánh tông của như lai là thừa tự pháp." (Khởi Thế Nhân Bổn, Trường Bộ Kinh - Pali)
Vì thế với những ai có lòng tin vào Tam Bảo bất động, giữ ngũ giới trong sạch, chắc chắn họ không còn một mảy may ý niệm về tử vi, tướng số, bói toán, phỏng thủy. Hãy xa lìa chúng để có thể vào quả dự lưu.
Tâm Tịnh
Xin tham khảo bài luận của Đại Sư Tinh Vân
PHẬT GIÁO VÀ ĐỊA LÝ PHONG THỦY
(Tinh Vân Đại Sư, Nguyễn Phước Tâm dịch)
Đối với vạn vật trong cõi nhân gian, Phật giáo đều có sự quan sát thấu đáo,hiểu rõ thiên có thiên lý, địa có địa lý, nhân có nhân lý, vật có vật lý, tình cótình lý, tâm có tâm lý. Trên thế gian bất kỳ sự vật gì cũng có cái “lý” riêng biệt của nó, địa lý phong thủy tất nhiên cũng có “nguyên lý” của nó.
Địa lý là dựa vào địa hình và phương vị thiên thể mà sinh ra tầm ảnh hưởng đối với con người, đây là thường thức của tự nhiên; thuận với lẽ tự nhiên có thể thu được thời cơ thuận lợi, đạt được địa thế cực tốt của non sông; trái với tự nhiên, sẽ có kết quả ngược lại.
Mưu cầu cuộc sống bình an, mong mỏi xa lìa những muộn phiền âu lo, xưa nay đều như vậy. Nhưng mà, thái độ của người bình thường, đối với các sự vật không hiểu, không biết, không thể nhìn thấy, thường mù quáng mò mẫm suy đoán chủ quan, gán ghép méo mó, thậm chí mê hoặc tin nó, vì vậy dễ dàng bị mê tín thần quyền điều khiển, khống chế.
Người Trung Quốc từ xưa đến nay tin tưởng một cách tuyệt đối vào thuyết “địa lý phong thủy có thể ảnh hưởng tới phúc họa của một đời người”, là một ví dụ.
Địa lý phong thủy cố nhiên có nguyên lý của nó, song không phải là chân lý rốt ráo. Đứng ở góc độ của thuyếtNghiệp lực và thuyết Nhân quả trong giáo lý của Đức Phật để xem xét, ta thấy rằng lành dữ họa phúc, đều là donghiệp nhân thiện ác của kiếp quá khứ tạo thành quả báo của đời nay, vốn không phải chịu tác động chi phối hay thao túng của phong thủy địa lý.
Hơn nữa, dưới cái nhìn thời-không của Phật giáo, người học Phật biết rằng hư không vốn không có phương vị tuyệt đối, ví như hai người là A và B ngồi đối diện nhau, bên phải của A là bên trái của B, phía trước của B là phía sau của A, trong thời-không vô biên, không ranh giới, sinh mệnh thật sự của chúng ta là đang ở khắp mọi nơi, không chỗ nào không có mặt, làm gì có chuyện phân chia phương vị thời-không?
Khi một người có thể giác ngộ để thể chứng được bản lai diện mục của chính mình, thì bản thể tự tâm liền biến khắp hư không, tràn ngập pháp giới, ngang khắp mười phương, dọc cùng ba đời, dung hòa thành nhấtthể với thời-không vô hạn, vì vậy phương vị không ở chỗ khác, mà là ở ngay trong tâm của mỗi chúng ta.
Thời đại Đức Phật, trong Bà-la-môn-giáo thuộc xứ Ấn Độ, có thuyết “sáng sớm tắm rửa, kính lễ sáu phương, có thể tăng thêm tuổi thọ và của cải”. Lúc bấy giờ, Thiện Sanh – con của một vị trưởng giả ở thành Vương Xá, mỗi sáng sớm sau khi tắm rửa xong, liền y vào pháp của Bà-la-môn hướng về sáu phương lễ bái.
Đức Phật nói với ông ta rằng: Sáu phương (đông, nam, tây, bắc, thượng, và hạ) có thể phối hợp với cha mẹ, thầy cô, vợ chồng,gia tộc, đầy tớ, Sa môn (Srmaṇa) Bà- la-môn…; tiếp đó, Ngài thuyết về năm pháp cung kính mà mỗi một con người tùy theo phương vị của mình đều phải tuân giữ khi đối xử với người khác tùy theo phương vị của họ, điều đã được nêu trong kinh Thiện Sanh.
Đức Phật mượn năm việc này hướng dẫn cho tín chúng cách giao tiếp, ứng xử đúng với đạo đức luân lý gia đình; đồng thời qua đấy cho biết phong thủy, địa lý cần phải xây dựng trênluân lý, thế lý, pháp lý, và cả tâm lý; chỉ cần chúng ta thành tâm, cõi lòng thanh thản, thì “mỗi ngày đều là ngày đẹp, khắp nơi đều là nơi đẹp”, cho dù đi khắp thiên hạ, đều là địa lợi nhân hòa, lương thần cát nhật (ưu thế về địa lý được lòng người, ngày lành tháng tốt), bởi vì tất cả phước điền đều không rời xa tâm địa.
Phật giáo là một tôn giáo trí tín, tất cả giáo lý Phật giáo như Nghiệp lực, Nhân quả, Tam pháp ấn, Tứ diệu đế,Bát thánh đạo, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đều có mục đích chung là nhằm khai mở trí tuệ của chúng sinh, giúp đỡ chúng sinh nhận thức đúng bản chất của thực tướng nhân sinh, từ đó đi đến giải quyết các phiền não khổ đau, đạt được giải thoát tự tại, sao có thể mê tín dị đoan địa lý phong thủy, chỉ tăng thêm phiền não, vọng niệm và si mê mà thôi.
Trong kinh Di giáo, Đức Phật khuyên răn đệ tử rằng: “Coi tướng lành dữ, tính tử vi, suy luận hão huyền, coi bói tính số; những việc coi ngày giờ tốt xấu như thế này đều không nên làm”. Luận Đại trí độ quyển 3 nói: “Người xuất gia lấy thuật xem tinh tú, nhật nguyệt phong vũ…để tồn tại, là cầu miếng ăn” là một trong những cách mưu sinh không chính đáng mà Đức Phật khuyến cáo người xuất gia cần phải tránh xa.
“Coi tướng lành dữ” chính là một trong “ngũ tà mệnh” (năm cách kiếm sống không chính đáng), người con Phật nên lấy đó làm lời cảnh tỉnh, nhắc nhở cho chính bản thân mình. Phật giáo không cho rằng phong thủy địa lý, hiện tượng thiên văn giờ ngày là có liên quan với điềm lành dữ của con người; nếu những người con Phật lấy điều này để duy trì mạng sống, cầu miếng cơm manh áo, thì đã rơi vào những điều cấm trong giới luật của Phật giáo, bởi vì đây không phải là chánh nghiệp, cũng chẳng phải là chánh mạng.
Phật giáo cho rằng “mọi người đều có Phật tính”, chính là muốn chúng ta nhận thức chính mình, khẳng định chính mình, và tin tưởng vào chính mình, từ đây làm chủ nhân của chính mình.
Vì thế, chỗ tốt lớn nhất trong việc học Phật, chính là làm cho chúng ta vượt thoát ra ngoài sự mê tín dị đoan thần quyền, không chịu sự chi phối của địa lý phong thủy, trả lại cho chính mình một đời sống tự do tự chủ.
Điều mà thầy phong thủy Trung Quốc nghĩ rằng địa lý tốt nhất phải là “phía trước có chim Chu tước, phía sau có chim Huyền vũ, bên trái có rồng cuộn, bên phải có hổ chầu” (tiền Chu tước, hậu Huyền vũ, tả long bàn, hữu hổ cứ), thực ra chính là “trước có phong cảnh, sau có núi cao, bên trái có dòng sông, bên phải có thông lộ”. Lấyđiều kiện sinh hoạt tốt nhất trong môi trường sống hiện đại mà nói, có thể tóm tắt bốn điểm sau đây:
Nói tóm lại, chỉ cần có thể tiện lợi cho sinh hoạt, trong cõi lòng vui vẻ thoải mái, đấy chính là địa lý phong thủy tuyệt vời nhất.
Phật giáo cho rằng bên ngoài nếu có được địa lý môi trường chung quanh tốt đẹp, cố nhiên là điều rất tốt lành, nhưng quan trọng hơn cả là nội tâm cũng phải có địa lý phong thủy tốt đẹp. Nghĩa là nội tâm bên trong có: thông gió tốt – dòng suy nghĩ thông suốt; ánh nắng tốt – nhiệt tâm cởi mở; tầm nhìn tốt – nhìn về tương lai; con đường tốt – Bồ đề chánh đạo, đây chính là “long huyệt” tốt đẹp nhất, cao vời nhất của nội tâm bên trong.
Nguồn: Phật giáo và thế tục, in trong bộ sách Phật học giáo khoa thư của Đại sư Tinh Vân, NXB. Từ Thư Thượng Hải, năm 2008, trang 83- 86.