;
Câu nói đó đã xác định bản hoài của chư Phật thị hiện trong cuộc đời, là đưa tất cả chúng sanh đạt đến quả vị giải thoát và giác ngộ, thể nhập vào bản thể uyên nguyên, cái mà trong Thiền gọi là “Bản lai diện mục”, trong Tịnh độ gọi là “Tự tánh Di-đà”. Bản tánh ấy vốn không hình không tướng, vượt ra ngoài mọi ngôn ngữ và sự nhận thức của phàm phu, nhưng khi vọng tưởng lắng đọng thì bản thể hiện tiền.
Cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ, tại vương quốc Ấn Độ, nước Ca-tỳ-la-vệ, dưới cội cây Tất-bát-la, bên dòng sông Ni-liên-thiền, thái tử Sĩ-đạt-ta sau bốn mươi chín ngày ngồi tư duy thiền quán, đã ca lên khúc hát khải hoàn, xác nhận Ngài là bậc đã thành tựu quả vị, bậc hoàn toàn chứng được thể tánh, bậc tối thắng trong cõi đời. Nương nơi thể tánh thanh tịnh ấy, trải qua bốn mươi chín năm hoằng hóa, thuyết pháp độ sanh, với hơn ba trăm hội đàm kinh, những lời dạy của Ngài đã được các hàng Thánh đệ tử kết tập thành ba tạng kinh điển, trong đó triển khai tám vạn bốn ngàn môn tu tập, khai mở cho chúng sanh con đường dứt vọng tưởng, thể nhập chân như. Một trong vô số pháp môn tu tập, với sự hành trì rất đơn giản nhưng thành tựu nhiệm mầu, đó là pháp môn Tịnh độ.
Tịnh độ là một trong mười tông phái của Phật giáo Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản… là tông phái siêu việt, được các bậc cao đức liệt vào tông phái Đại thừa viên đốn. Nói “đại thừa”, bởi tông này lấy tâm Bồ-đề làm nhân, lấy quả vị cứu cánh Phật làm quả. Nói “viên”, bởi tông này lý sự vẹn toàn, tóm thâu bốn giáo trước (Tiểu thừa giáo, Đại thừa thể giáo, Đại thừa chung giáo, Đại thừa đốn giáo). Nói “đốn”, bởi tông này không luận bàn về pháp tướng, mà chỉ chuyên ròng về chân tánh, không cần trải qua nhiều thứ lớp, mà tu tập trong một đời có thể chứng lên quả vị Bất thoái chuyển (A-bệ-bạt-trí). Đây quả thật là điểm siêu xuất của tông Tịnh độ.
Hệ tư tưởng của tông Tịnh độ được y cứ và xiển dương trên ba bộ kinh, một bộ luận, làm cơ sở nồng cốt để phát huy, đó là Phật thuyết A-di-đà kinh, Vô lượng thọ kinh, Quán Vô lượng thọ kinh (còn gọi Thập lục quán kinh) và bộ Tịnh độ vãng sanh luận của Bồ-tát Thế Thân.
Nơi tinh xá Kỳ Viên thuộc nước Xá-vệ, đức Thế Tôn tuyên thuyết kinh A-di-đà, Ngài tóm lược giới thiệu về vị giáo chủ và y báo trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, khuyên chúng sanh phát nguyện sanh về thế giới ấy, bằng phương pháp chuyên trì danh hiệu Phật, đồng thời dẫn lời tán dương và ấn chứng của mười phương chư Phật, để làm tăng tiến niềm tin của người niệm Phật. Ở núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương-xá, Ngài tuyên thuyến kinh Vô lượng thọ, diễn tả quá trình hành Bồ-tát đạo của Tỳ-kheo Pháp Tạng (tiền thân đức Phật A-di-đà) trong khi tu nhân, đã đối trước đức Thế Tự Tại Vương Như Lai, phát bốn mươi tám đại nguyện thù thắng cao cả, để trang nghiêm Phật độ, nhiếp hóa quần sanh, và trình bày công đức tu hành, trí tuệ thần biến của Thánh chúng cõi ấy, khiến chúng sanh sanh tâm khát ngưỡng phát nguyện sanh về. Tại vương cung của Tần-bà-sa-la thành Vương-xá, Ngài tuyên thuyết kinh Quán vô lượng thọ, đáp ứng sự khẩn cầu của hoàng hậu Vi-đề-hy, đức Phật chỉ dạy mười sáu pháp quán, làm nhân tố để cầu sanh về thế giới Cực Lạc, đây là những phép quán rất tinh vi và sâu thẳm. Sau này, Bồ-tát Thế Thân y cứ vào Vô lượng thọ kinh tạo bộ Tịnh độ vãng sanh luận, tán dương cảnh giới trang nghiêm thù thắng của cõi Cực Lạc, xiển dương pháp tu Ngũ niệm môn (lễ bái, tán thán, phát nguyện, quán sát, hồi hướng) làm nhân tố để cầu sanh Cực Lạc. Ngoài ba kinh và một bộ luận trên, còn có rất nhiều bộ kinh luận Đại thừa khác như Pháp hoa, Hoa nghiêm… Đại trí độ, Đại Tỳ-bà-sa… đều tán thán và đề cao tư tưởng Tịnh độ.
Khi Phật giáo mới truyền sang Trung Hoa, pháp môn Tịnh độ đã sớm hòa nhập vào dòng tư tưởng của người bản xứ. Trung Hoa quả thật là một mảnh đất màu mở, để tông Tịnh độ đâm chồi nảy lá. Sau Ca-diếp-ma-đằng và Trúc-pháp-lan đem Phật giáo truyền vào Trung Hoa, kế tiếp có các Đại sư từ Ấn Độ sang, phụng sắc chỉ dịch các bộ kinh từ chữ Phạn sang Hán, kinh sách Tịnh độ cũng được theo đó mà truyền vào.
Thời Đông Tấn (317-419), pháp sư Đạo An (312-385) đã làm sách luận về Tịnh độ, mở trường pháp phái nêu rõ chánh tông, phát huy những điểm đặc sắc của Tịnh độ. Dưới thời Tào Ngụy (220-280), ngài Khang Tăng Khải (đến Trung Hoa năm 252) dịch kinh Vô lượng thọ. Đời Dao Tần (còn gọi Hậu Tần năm 354-417), bậc dịch kinh nổi tiếng Cưu-ma-la-thập (344-413) phụng dịch Phật thuyết A-di-đà kinh. Thời Lưu Tống (năm 420), ngài Cương-lương-da-xá (383-442) dịch Quán vô lượng thọ kinh. Từ đó, giáo nghĩa tông Tịnh độ đã hoàn bị. Vào đầu thế kỷ thứ V, hệ tư tưởng hình thành tông phái, tín ngưỡng Di-đà giáo đã chính thức khai nguyên. Bậc cao Tăng được đăng quang lên ngôi vị khai tổ là Huệ Viễn đại sư (344-416) ở chùa Đông Lâm Lô Sơn, lừng danh với hội “Bạch liên xã”, mà âm hưởng còn vang vọng đến ngày hôm nay.
Sau đó vào thời Tuyên Đế Bắc Ngụy (năm 508), Bồ-đề-lưu-chi (sang Tàu năm 508) dịch bộ Tịnh độ vãng sanh luận của Bồ-tát Thế Thân, đây là bộ luận căn bản, hoàn chỉnh hệ thống giáo nghĩa của tông Tịnh độ.
Pháp môn Tịnh độ còn gọi là pháp môn niệm Phật. Chữ “niệm” ở đây có nghĩa là đem tâm thanh tịnh mà tưởng nhớ đến Phật. Thông thường tất cả chúng sanh luôn đem tâm buông lung theo năm món dục lạc, nhận vọng tâm điên đảo duyên theo sáu trần làm tâm, luôn nhớ nghĩ về quá khứ, mơ mộng ở tương lai mà đánh mất thực tại, cho nên tâm thường xáo trộn. Còn chữ “niệm” ở đây là một tâm sở trong năm biệt cảnh tâm sở, ý nghĩa của nó là nhớ nghĩ vào hiện tại, buộc tâm vào một đối tượng, không rong ruỗi theo niệm trần, nhưng niệm này không hệ lụy vào một cảnh giới nào, mà thông suốt cả ba đời, thường hiện rõ trước mặt. Về chữ Phật là chỉ cho bản tánh bất sanh bất diệt, cái bản thể chân thật bình đẳng ở nơi Phật và chúng sanh. Hành giả niệm Phật là niệm danh hiệu Phật, danh này bao trùm tất cả công đức, trí tuệ, từ bi… của các đức Phật. Do đức lập danh, nhờ danh chiêu cảm đức. Lấy danh hiệu Phật làm cảnh sở niệm, tâm thanh tịnh làm năng niệm, thường trú vào bản tánh bất sanh bất diệt ấy, tất đạt đến cảnh giới an vui chân thật. Thường trụ vào câu Phật hiệu, hay quán tưởng thân tướng trang nghiêm của đức Phật, với tâm thanh tịnh sẽ tạo một năng lực tuyệt đối, khơi dậy tự tánh Di-đà bên trong của mỗi chúng sanh. Vọng tưởng quyết dứt trừ, cảnh giới nhiệm mầu sẽ hiển lộ, như trong Quán kinh có dạy: “Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh, cho nên tâm của các người tưởng Phật, thì tâm ấy là ba mươi hai tương tốt, tám mươi vẻ đẹp, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Biển chánh biến tri của Phật từ nơi tâm tưởng mà sanh, vì thế các người phải nhớ nghĩ và quán tưởng kỹ thân của đức Phật kia”.
Lập trường của tông Tịnh độ được kiến tạo trên nền tảng của nhân quả, tức có gây nhân mới mong hưởng quả. Điều này xác định rằng hành giả nếu muốn mai hậu làm Thánh chúng ở cảnh giới Cực Lạc, thì ngày hôm nay phải có tư cách của bậc Thánh. Vì vậy trong cuộc sống hiện tại, hành giả cần phải thường xuyên cải hóa thân, khẩu, ý, hướng đến chiều hướng thanh tịnh. Ví như học trò, trong việc học tập phải có sự tiến bộ, từ lớp nhỏ tiến lần đến lớp lớn, có như vậy mới mong đỗ đạt. Người niệm Phật cũng thế, nếu ngày hôm nay cứ sống trong sự buông thả, không chịu nỗ lực tinh tấn tu hành, mà cứ van xin và tin rằng mai kia Phật sẽ cứu độ, nếu tin như thế thì thật là trái lý nhân quả, chẳng khác nào luận thuyết của ngoại đạo, và hoàn toàn không phù hợp với giáo lý nhà Phật.
Vẫn biết, pháp môn niệm Phật là pháp môn phương tiện siêu thắng, cho dù đến bậc Đẳng giác còn chưa thấu triệt rốt táo, và nguyện lực tối thâm của đức A-di-đà thật là vô tận, hàm nhiếp tất cả mọi nguyện lực của mười phương ba đời các đức Phật. Đối với nghiệp lực của phàm phu, ngay cả đến các bậc Sơ địa Bồ-tát, nếu không nương vào oai lực tiếp độ của Phật, chỉ nương nơi sức tự lực tu hành của mình cũng không thể vãng sanh. Nhưng tha lực ấy chỉ thành tựu trên cơ sở hành giả phải có sức tự lực. Ví như người mẹ luôn luôn nghĩ đến con, nếu con không nghĩ đến mẹ, thì mẹ dầu thương con cũng đành cam chịu. Tha lực của đức Phật cũng thế, mặc dầu là vô song, nhưng điều quan trọng ở điểm là hành giả có hội đủ tư cách tu trì, có chân thành chịu nhận sự tiếp độ ấy hay không. Có rất nhiều người tu Tịnh độ, không nhận ra được lý này, rồi quan niệm đức Phật như một đấng thần linh luôn ban ân cứu rỗi, và cảnh giới Cực Lạc chẳng khác nào thiên quốc của thần giáo. Để rồi từ đó có lắm kẻ thiển cận cho rằng pháp tu Tịnh độ là pháp ngoại đạo mê tín dị đoan, hoặc là hành môn của hạng hạ căn. Đây quả thật là những ngộ nhận sai lầm đáng tiếc đã xảy ra.
Tóm lại, người niệm Phật muốn vãng sanh Tịnh độ, ngoài lực hộ trì tiếp dẫn của Phật, cần phải có chánh nhân Tịnh độ. Theo kinh Quán vô lượng thọ hành giả phải hội đủ ba điều sau:
“Một là hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng thờ sư trưởng, giữ lòng từ không sát hại, tu tập mười nghiệp lành. Hai là thọ trì ba pháp quy y, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi. Ba là phát Bồ-đề tâm, tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyên người khác cùng tu…”
Trên đây là chánh nhân Tịnh độ, là điều kiện của người phát nguyện vãng sanh Tây phương. Ba điều này có thể tóm thâu vào hai việc, một là phát Bồ-đề tâm, hai là nghiêm trì giới luật.
Điều kiện cần thiết thứ nhất của người niệm Phật, là phải phát Bồ-đề tâm. Thế nào là phát Bồ-đề tâm? Là phát tâm trên mong cầu quả vị Phật, dưới mong hóa độ các loài chúng sanh. Người tu Phật nếu không phát Bồ-đề tâm, dẫu có tinh tấn tu trì, thực hành các hạnh lành, cũng chỉ là nhọc công vô ích mà thôi. Trong kinh Hoa nghiêm có dạy: “Vong thất Bồ-đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp” (Quên mất tâm Bồ đề, dẫu tu các hạnh lành, cũng đều là nghiệp ma). Vì vậy, người tu Tịnh độ muốn thành tựu ước nguyện giải thoát, thì trước hết phải phát tâm Bồ-đề mà niệm. Đây là điểm vô cùng quan trọng, không thể thiếu đối với người tu Tịnh độ nói riêng và người tu Phật nói chung.
Điều kiện cần thiết thứ hai của người niệm Phật, là phải nghiêm trì giới luật tùy theo giới luật mình đã phát nguyện thọ. Bởi vì bất cứ tông phái nào trong đạo Phật, cũng đều không thể ly khai tinh thần giới luật. Vì giới luật là nền tảng của đạo, là thọ mạng của Phật pháp. Nếu không có giới thì định huệ không thể phát sanh, giới định huệ đã không thể phát sanh, thì Pháp thân biết nương vào đâu để thành tựu. Lại đối với tông Tịnh độ giới luật càng thiết yếu, chúng ta có thể nói Luật tông và Tịnh độ là hai tông phái hổ tương nhau và không thể tách rời nhau, hai tông này bao trùm toàn bộ tám tông phái khác của Đại thừa, như đại sư Thái Hư có nói: “Luật là nền tảng của Tam thừa, Tịnh độ là mái che chung của Tam thừa”. Hành giả giữ giới luật, trên nền tảng đó câu niệm Phật mới hiển lộ hết công năng mầu nhiệm, như trong kinh Quán vô lượng thọ có dạy: “Một câu niệm Phật, có thể tiêu trừ tám mươi ức kiếp sanh tử trọng tội”.
Nhưng muốn cho tâm Bồ-đề khỏi bị thối thất và tư cách thánh hạnh được vẹn toàn, tròn đầy chánh nhân vãnh sanh Tịnh độ, người niệm Phật phải hội đủ ba đức tính quyết định, ấy là tín sâu, nguyện thiết và trì chuyên.
Tín là đức tin, là yếu môn để nhập đạo, là cội nguồn của mọi công đức, người tu Phật nếu thiếu mất yếu tố này, thì sẽ không thể thoát ly sanh tử, đạt thành kết quả an vui giải thoát. Bởi vì tất cả mọi công đức vô lậu, đều nương vào tín mà lập, và do tín mà thành. Trong kinh có dạy: “Phật pháp như bể cả, do tín mà vào”. Hành giả ngoài việc có đức tin trong sạch tuyệt đối với Tam bảo, với sự tìm hiểu bằng kiến chiếu của trí tuệ Bát-nhã, kiên định không ngờ vực, trên nền tảng đó, gia thêm lòng tin kiên cố vào pháp môn Tịnh độ. Đức tin này được dựng lập trên ba điểm. Thứ nhất tin rằng đức Phật Thích-ca là bậc đã thân chứng Tịnh độ, những lời dạy của Ngài về cảnh giới Cực Lạc và khuyên chúng sanh vãng sanh là hoàn toàn thật có. Điểm thứ hai, hành giả tin rằng đức A-di-đà với bốn mươi tám đại nguyện độ sanh vĩ đại, nếu ai mong cầu sanh về thế giới của Ngài, thì người ấy sẽ được tiếp độ. Điểm thứ ba là hành giả tin vào tự tánh thanh tịnh, vào khả năng sẵn có của mình, nếu quyết tâm niệm Phật, thì quyết định vãng sanh.
Trên nền tảng của tín, hành giả cầu sanh Tịnh độ cần phải có đủ yếu tố thứ hai là khẩn thiết phát nguyện. Trong Phát Bồ-đề tâm văn của đại sư Tĩnh Am có dạy: “Nhập đạo yếu môn, phát tâm vi thủ, tu hành cấp vụ lập nguyên cư tiên, nguyện lập tắc chúng sanh khả độ, tâm phát tắc Phật đạo kham thành” (Cửa yếu vào đạo lấy sự phát tâm đứng hàng đầu, việc cấp thiết tu hành lấy sự lập nguyện làm bước trước, nguyện có lập thì chúng sanh mới độ nỗi, tâm có phát thì Phật đạo mới tựu thành). Lời dạy ấy cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của sự phát nguyện.
Tâm nguyện cầu sanh Tây phương, theo Thiên Thai - Trí Giả đại sư phải hội đủ hai yếu tố là yểm ly và hạnh nguyện. Tâm yểm ly là tâm chán lìa, hành giả phải ý niệm rằng sắc thân năm ấm là hư tưởng, chỉ là sự tổ hợp của năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành thức và thế giới hiện tượng luôn nhuốm màu khổ đau và bất tịnh. Thân phận con người, so với chư thiên cũng chẳng khác nào bầy giòi chen chúc trong hầm phẩn. Mọi phiền não của cuộc đời luôn cấu xé tâm can, chẳng khác nào những mũi tên độc đâm vào da thịt, như những trận tra tấn cực hình. Nhờ thường xuyên quan sát như thế, hành giả sẽ nhàm chán, đối với mọi thú vui của dục lạc ở thế giới này sẽ không sanh tâm đắm nhiễm.
Tâm chán bỏ thế giới Ta-bà càng lớn, thì ý nguyện mong cầu vãng sanh về Cực Lạc càng mạnh, bởi người niệm Phật chỉ có một ước nguyện duy nhất là mong thoát khỏi lao tù Ta-bà hiện tại, nguyện thát sanh về thế giới Cực Lạc trong ngày mai. Tâm nguyện tha thiết đó ngàn trâu kéo không lại. Chẳng khác nào như kẻ tha phương trông ngóng cố hương, như kẻ xa cha mẹ mong ngày đoàn tụ. Trong Di-đà sớ có câu “Trông về Cực Lạc như nhớ cố hương, ngưỡng mến đức Từ tôn như cha mẹ”.
Tín nguyện đã đầy đủ nhưng thiếu phần hạnh, người tu Tịnh độ cũng khó thành tựu, vì vậy cần phải chú trọng về vấn đề hành trì. Đại sư Ngẫu Ích đã từng dạy: “Được vãng sanh cùng không đều do ở tín và nguyện, phẩm vị cao hay thấp là bởi chỗ hành trì có cạn hoặc sâu”. Tín và nguyện đã có tức đã chuẩn bị tư lương, nhưng muốn đạt mục đích, hành giả cần phải thực hành các sự nghiệp phước đức, trí tuệ, ấy là phải có hạnh. Đây là món tư lương thứ ba của người tu niệm Phật.
Ngoài việc tu tạo phước đức, trí tuệ và giữ gìn giới luật làm trợ hạnh để cầu sanh, hành giả cần phải thực hành chánh hạnh. Chánh hạnh ở đây là phát tâm thanh tịnh thường trì Phật hiệu. Theo tông chỉ của Tịnh độ thì pháp niệm Phật bao gồm bốn môn.
Một là Thật tướng niệm Phật, đây chính là nhập đệ nhất nghĩa đế, niệm tánh Phật bản lai của mình. Bản thể ấy xưa nay vốn thanh tịnh vắng lặng, không bị cấu nhiễm bụi trần, hành giả trụ tâm vào tánh Phật bản lai ấy, khiến tâm không vọng động, không chạy theo niệm trần, tâm lần hồi trong sáng, thể nhập vào cảnh giới nhất chân.
Hai là Quán tưởng niệm Phật, hành giả quán tưởng chánh báo, y báo trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, cho đến khi nhắm mắt hay mở mắt, cũng đều thấy cảnh giới Cực Lạc rõ ràng.
Thứ ba là Quán tượng niệm Phật, là người tu luôn nhiếp tâm vào hình tượng của đức Phật A-di-đà, đến khi có đối trước hay không đối trước tượng, hình tướng trang nghiêm của Phật vẫn hiện ra trước mắt.
Thứ tư là Trì danh niệm Phật, ấy là niệm thầm hay niệm ra tiếng sáu hay bốn chữ A-di-đà Phật, niệm với tâm tha thiết chí thành không xen lẫn tạp niệm, chỉ chú tâm vào danh hiệu Phật, hành giả lần hồi sẽ đi đến cảnh giới nhất tâm.
So với ba môn trước thì pháp Trì danh có phần giản dị và dễ thành tựu. Đây quả là phương tiện thù thắng trong các phương tiện, là đường tắt đứng đầu trong các đường tắt, kinh A-di-đà sớ có câu: “Ví như chim hạt tung mình, đâu bằng đại bàng cất cánh, ngựa ký ruỗi vó, đâu bằng rồng chúa tung bay”.
Bởi do căn tánh của chúng sanh có sự sai biệt, nên pháp niệm Phật được các bậc Cổ đức chia thành nhiều cách khác nhau, như Ký thập trì danh, Phản văn trì danh, Sổ châu trì danh, Tùy tức trì danh, Truy đảnh trì danh, Giác chiếu trì danh, Lễ bái trì danh, Liên hoa trì danh, Quang trung trì danh và Quán Phật trì danh. Trong ấy có thể nói pháp Ký thập trì danh là pháp tu rất dễ thành tựu, dễ đưa hành giả đi đến nhất tâm.
Sanh tiền đại sư Ấn Quang thường khuyên các liên hữu áp dụng cách thức này, đó là cách niệm ký số, cứ lấy mười câu làm một đơn vị, người hơi dài có thể niệm thành hai lượt, một lượt năm câu, người hơi ngắn có thể chia thành ba lượt, hai lượt đầu ba câu và lượt sau bốn câu. Sau khi niệm đủ mười câu, đều lần qua một hạt chuỗi. Niệm theo lối này, tâm đã niệm Phật, lại còn ghi nhớ số. Như thế dù không chuyên cũng bắt buộc phải chuyên, nếu không chuyên thì bị sai lạc số mục. Cho nên pháp này là một phương tiện cưỡng bức làm cho hành giả phải chuyên tâm, rất có công hiệu và đưa đến thành tựu cho người niệm Phật một cách nhiệm mầu.
Ngoài ra vấn đề quan trọng của pháp niệm Phật là trong khi niệm phải giữ tâm thanh tịnh, bởi tâm thanh tịnh là nhân tố quyết định cho sự thành tựu cảnh giới nhất tâm. Muốn đạt được điều này, cũng theo đại sư Ấn Quang thì: “Khi hành giả đề khởi câu Phật hiệu, tai phải nghe rõ ràng từng chữ, tâm phải trụ vào câu Phật hiệu, không chạy theo vọng trần, cứ niệm xoay vần và nhiếp tâm liên tục, hành giả sẽ tiến sâu vào chánh định”. Theo đại sư Liễu Nhất “khi tâm chuyên nhất vào câu niệm Phật, quên hết cả thâm tâm ngoại cảnh, tuyệt cả không gian, thời gian, đến lúc sức lực công thuần, ngay nơi niệm trần mà vọng hoặc tiêu tan, tâm thể bừng sáng, hành giả có thể chứng được niệm Phật tam muội”.
Trên đây là những điểm trình bày sơ lược về ba yếu tố Tín, Hạnh, Nguyện, quan trọng của pháp môn Tịnh độ, cho chúng ta thấy Tịnh độ có phần đơn giản, dễ thực hành mà kết quả lại cao tuyệt. Môn này quả là pháp môn phương tiện siêu thắng, là thuyền từ ra khỏi Ta-bà, là cửa mầu để vào Phật đạo: “Xuất Ta-bà chi bảo phiệt, thành Phật đạo chi huyền môn”. Sự thành tựu nhiệm mầu ấy được các bậc Cổ đức đánh giá rằng: “Tu các pháp môn khác, chẳng khác gì con kiến bò dọc theo ống tre, hành trì môn Tịnh độ, như con kiến đục thủng ống tre bò ra ngoài”.
Phải chăng, pháp môn Tịnh độ là pháp môn duy nhất trong thời Mạt pháp để cho chúng sanh y cứ tu tập, thoát ly sanh tử luân hồi. Như trong kinh Đại tập nguyệt tạng đức Phật có dạy: “Mạt pháp ức ức nhân tu hành, hãn nhứt đắc đạo, duy y niệm Phật đắc độ sanh tử” (thời Mạt pháp ức ức kẻ tu hành, song ít có người đắc đạo, chỉ nương vào pháp môn niệm Phật, mà thoát khỏi luân hồi). Đó có phải là mật ý vi diệu, là tình thương bao la của bậc trí tuệ bất tận, đối với chúng sanh căn cơ hèn kém, như trong kinh Vô lượng thọ, Phật dạy: “Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận, ngã dữ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ trụ bách tuế. Kỳ hữu chúng sanh trị tư kinh giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ” (trong đời tương lai, khi kinh đạo diệt hết, ta dùng sức từ bi thương xót, riêng lưu trụ kinh này một trăm năm. Chúng sanh nào gặp kinh này, tùy theo sở nguyện, đều có thể đắc độ).
Vì tính cách khế cơ ấy, mà từ trước đến nay, không biết bao nhiêu người niệm Phật, được kết quả vãng sanh. Sự mầu nhiệm ấy, như rồng bay phượng múa, ngọc chạm vàng khua, mà trong Tịnh độ thánh hiền lục đã thuật lại rõ ràng. Pháp môn này lại bao quát cả ba căn, trên từ các bậc Đẳng giác Bồ-tát, các bậc đại đức cao Tăng, dưới cho đến những kẻ cùng hung cực ác, nhẫn đến các loài súc sanh, như nhồng, sáo, uyên ương, se sẻ… nhờ niệm danh hiệu Phật A-di-đà đều được vãng sanh về Tịnh độ.
Trải qua bao thế hệ thăng trầm, dòng thời gian biến đổi, tất cả một số tông phái khác có nguy cơ bị hoại diệt, hoặc trở thành một triết lý hỗ tương. Riêng tông Tịnh độ có tính cách thiết thực, đã đứng vững và phổ cập, trở thành một trong hai tông phái tu tập căn bản của Phật giáo đại thừa là Thiền tông và Tịnh độ tông. Đây có thể nói là hai tông phái bao trùm toàn bộ tinh hoa, đường lối tu tập của Phật giáo Đại thừa.
Với sự tán dương và truyền thừa tông Tịnh độ, từ trước đến nay có biết bao vị cao Tăng thạc đức, các bậc văn nhân chí sĩ… đã làm các sớ giải, các luận văn, làm truyện, làm kệ, làm phú, làm thơ… để khen ngợi và cùng xiển dương tông phái này.
Ngoài ra, các bậc cao đức, chuyên tu tịnh nghiệp, cầu sanh Tây phương không sao xiết kể, như ngài Bách Trượng-Hoài Hải với bản Bách trượng thanh quy làm quy củ cho Thiền tông, cũng không ra ngoài ý nghĩa quy túc Tịnh độ. Các tổ bên Thiền tông như Vĩnh Minh-Diên Thọ, Thiên Như-Duy Tắc, Thiên Thai-Hoài Ngọc… bên Luật tông như các ngài Nguyên Chiếu, Hoài Tổ… bên Tam luận tông như các ngài Cát Tạng, Đạo Lăng… bên Duy thức tông như các ngài Khuy Cơ, Hoài Cảm… bên Mật tông như các ngài Bất Không, Hồ Đồ-Khắc Đồ… bên Hoa nghiêm tông như các ngài Đỗ Thuận, Trừng Quán… bên Pháp hoa tông như các ngài Trí Giả, Quán Đảnh... các bậc cao Tăng xướng lãnh các tông trên đây và vô số danh Tăng khác, cũng đều phát nguyện cầu sanh cảnh giới Cực Lạc.
Tại nước Việt Nam, tư tưởng Tịnh độ đã sớm hòa nhập và phát huy mạnh mẽ. Trong thế kỷ XI, có ngài Tĩnh Lực (thuộc phái Vô ngôn thông), là vị đã chứng được niệm Phật tam muội. Thảo Đường quốc sư, vị khai tổ dòng thiền thứ ba của Phật giáo Việt Nam (thế kỷ XIII ) đã khuyên đồ chúng nên tu Tịnh độ, với bài Pháp ngữ thị chúng tuyệt vời. Tôn giả Pháp Loa nhị tổ của phái thiền Trúc Lâm-Việt Nam cũng đã lập tháp Cửu phẩm liên đài để khích lệ tứ chúng cầu nguyện vãng sanh. Thời cận đại có các bậc cao Tăng như Hòa thượng Tâm Tịnh, Hòa thượng Phước Huệ, Hòa thượng Khánh Anh, Hòa thượng Hải Tràng, Hòa thượng Thiền Tâm… các Ngài đã tự tu và truyền bá pháp môn này, làm cho Phật pháp được bảo tồn và lan rộng, thịnh hành đến ngày nay.
Thiết nghĩ, trên bước đường tu tập người xuất gia lẫn tại gia ai cũng mong muốn đạt đến quả vị giải thoát, nhưng thành tựu sở nguyện đó là điều không phải dễ dàng. Khi trong tự thân chúng ta luôn tràn đầy những nghiệp lực chi phối, cộng thêm hoàn cảnh xã hội bên ngoài, luôn có năng lực tác động đưa con người đi vào trong quỹ đạo của dục vọng đê hèn. Chỉ một tập quán xấu nhỏ nhưng diệt trừ nó không phải đơn giản, hoặc một chút điều lành nhưng thực hiện không phải là một sớm một chiều. Để rồi trong âm thầm, cuộc sống của chúng ta cứ trôi lăn trong vòng sanh tử, trong sự chỉ đạo của phiền não, tồn tại với bao ước vọng ảo huyền, rồi một mai khi tấm thân tứ đại này tan rã, biết hướng về đâu mà nương tựa.
Chi bằng, đặt trọn tấm lòng thành hướng về với Tam bảo, mỗi niệm xả ly Ta-bà, mỗi niệm mỗi niệm cầu về Cực Lạc. Quyết chí nương nhờ Phật lực phát nguyện cầu sanh Tây phương, đến khi thành tựu quả vị Bồ-đề, trở lại Ta-bà tiếp độ chúng sanh. Có như vậy mới hợp với bản hoài thị hiện của đức Phật Thích-ca, đúng với hạnh nguyện tiếp dẫn của đức Phật A-di-đà và khỏi cô phụ tánh linh của mình.
Viết bởi Nguyên Liên