;
Truyền thuyết Chử Đồng Tử
Theo truyền thuyết dân gian, Chử Đồng Tử sinh ra tại làng Chử Xá, thuộc Gia Lâm (Hà Nội) ngày nay. Gia cảnh bần hàn, Chử Đồng Tử và cha là Chử Cù Vân chỉ có độc một cái khố phải thay nhau mặc.
Tới khi sắp qua đời do bệnh nặng, cha của Chử Đồng Tử mới bảo con rằng hãy chôn ông khỏa thân, giữ lấy cái khố mà mặc. Tuy nhiên, Chử Đồng Tử vì hiếu thuận nên đã chôn khố theo cha, còn bản thân thì chịu cảnh trần truồng khổ sở.
Chử Đồng Tử kiếm sống bằng cách đêm câu cá, ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn. Ngày nọ, Chử Đồng Tử gặp Tiên Dung là con gái cưng của Hùng Vương thứ 18 trong một bối cảnh đậm chất "duyên phận" và hai người kết thành vợ chồng. Hôn sự giữa hai người làm Hùng Vương nổi giận, ngài bèn đuổi vợ chồng Chử Đồng Tử ra khỏi Văn Lang.
Chử Đồng Tử và Tiên Dung (Ảnh minh họa)
Hai người cùng nhau lập chợ buôn bán để mưu sinh. Khu chợ này thường được thương nhân nước ngoài lui tới, Chử Đồng Tử theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một lần đi buôn trên biển, Chử Đồng Tử gặp vị tu sĩ tên Phật Quang và được Phật Quang truyền đạo. Khi trở về, Chử Đồng Tử lại truyền đạo cho Tiên Dung và hai vợ chồng cùng nhau giác ngộ.
Chử Đồng Tử là Phật tử đầu tiên tại Việt Nam
Theo các tài liệu lịch sử, đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam từ khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên - trùng mốc thời gian trong truyền thuyết Chử Đồng Tử là thời Hùng Vương thứ 18 (là đời Vua Hùng cuối cùng - khoảng năm 258 TCN).
Các học giả cho rằng, những thương nhân nước ngoài xuất hiện tại khu chợ của Chử Đồng Tử và Tiên Dung rất có thể là từ Ấn Độ - nơi khởi nguồn Phật giáo - sang (họ đã vượt qua biên giới ở Bắc Ấn, sang Miến Điện rồi vào vùng Phù Nam). Khi cùng thương gia đi buôn trên biển, Chử Đồng Tử đã ghé vào một hòn đảo để lấy nước ngọt và gặp vị tăng sĩ Ấn Độ có tên Phật Quang.
Sau khi truyền pháp, Phật Quang tặng cho Chử Đồng Tử chiếc gậy và cái nón lá - khá giống với chiếc áo cà sa và cái bát mà Phật Thích Ca truyền cho Ma Ha Ca Diếp trước khi Phật nhập Niết Bàn.
Tuy nhiên, không phải tới lúc Chử Đồng Tử gặp Phật Quang thì các nhà sử học mới xác định được Chử Đồng Tử là Phật tử đầu tiên và Phật Quang là nhà hoằng pháp đầu tiên tại Việt Nam.
Phân tích truyền thuyết cho thấy Chử Đồng Tử và Tiên Dung gặp nhau là do duyên số (bản thân vợ chồng họ cũng đã nhận định như vậy) - hay chính là nghiệp lực, nhân quả trong Phật giáo.
Hãy thử nghĩ mọi chuyện theo hướng khác: Nếu như Chử Đồng Tử không vì hiếu thuận mà chôn khố theo cha, có khố mặc thì khi đang làm việc, nhìn thấy thuyền Tiên Dung đến liệu có phải vùi mình xuống cát trốn hay không?
Nếu không vì tính cách phóng khoáng và tân tiến của mình, liệu Tiên Dung có đi ngao du khắp nơi và gặp Chử Đồng Tử trong tình huống khó tin nhất hay không (đi dạo trên sông nhưng không tắm sông, lại lên bờ sai người quây màn ở bụi lau để tắm; sau khi thấy Chử Đồng Tử không giận dữ đuổi đi, mà lại yêu cầu kết duyên vợ chồng)?
Nếu Tiên Dung không kết hôn với Chử Đồng Tử, liệu hai người có bị Hùng Vương đuổi khỏi Văn Lang và phải buôn bán mưu sinh? Và nếu không phát triển buôn bán, không đi buôn phương xa, liệu Chử Đồng Tử có thể gặp được nhà sư Phật Quang tại núi Quỳnh Viên và giác ngộ? Đây quả là một cuộc nhân - quả, quả - nhân duyên khởi trùng trùng.
Như vậy, từ cuộc gặp gỡ đầy duyên phận với Tiên Dung và sau là nhà sư Ấn Độ Phật Quang, Chử Đồng Tử đã trở thành Phật tử Việt Nam như thế đó.
Theo Kỳ Đằng/Gia đình Việt Nam
Thông tin liên quan:
Truyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh Nam Trích Quái kể lại việc Chữ Đồng Tử học được đạo Phật như sau:
"Thương nhân nước ngoài tới lui buôn bán kính thờ Tiên Dung (và) Đồng Tử làm chúa. Có một khách buôn lớn đến bảo Tiên Dung rằng: "Quí nhân hãy bỏ ra một dật vàng năm nay cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí, đến sang năm được lãi mười dật". Tiên Dung vui mừng bảo Đồng Tử: "Vợ chồng ta là bởi Trời mà nên. Nhưng cái ăn cái mặc là do người làm lấy. Nay nên đem một dật vàng cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí để sinh sống".
Đồng Tử bèn cùng thương nhân đi buôn án lênh đênh ra khắp nước ngoài. Có núi Quỳnh Viên trên núi có am nhỏ. Thương nhân ghé thuyền vào lấy nước. Đồng Tử lên am dạo chơi. Trong am có một tiểu Tăng tên Phật Quang truyền pháp cho Đồng Tử. Đồng Tử ở lại để nghe pháp, đưa vàng cho thương nhân đi mua hàng. Đến lúc thương nhân trở về lại tới am đó chở Đồng Tử trở về nhà.
Nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón, vừa bảo: "Các việc linh thông đều ở đó rồi!. Đồng Tử trở về, đem đạo Phật nói hết với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ, bèn bỏ cả quán chợ nghề buôn để cùng Đồng Tử du phương tìm thấy học đạo".
Việc Chữ Đồng Tử và Tiên Dung, những người Việt Nam đầu tiên mà ta biết tên tiếp thu đạo Phật là như thế. Có hai đặc điểm mà ta cần lưu ý. Thứ nhất, việc tiếp thu này đã xảy ra tại núi Quỳnh Viên. Núi Quỳnh Viên từ thời Lê Thánh Tôn ta đã biết là nằm tại cửa Nam Giới, hay cửa Sót. Ngày nay, tại bờ nam của cửa Sót, còn có một hòn núi gọi là Nam Giới sơn_1.
Phải chăng đây là địa điểm cần tìm hiểu khảo cổ học để khai quật xem có vết tích gì của Chữ Đồng Tử và Phật Quang chăng? Trước mắt, ít nhất ta đã xác định được là Quỳnh Viên không phải là một ngọn núi thần thoại, mà thật sự là một hòn núi có tên tuổi tại cửa Sót.
Do những dấu vết của Chiêm Thành còn tồn tại đến ngày nay, ta cũng hiểu thêm từ cửa Sót về nam là miền đất thuộc vương quốc Chiêm Thành. Như thế, đất nước Việt Nam thời Hùng Vương phải chăng đã lấy cửa Sót làm một địa điểm ở miền nam của tổ quốc ta?(....)
Trích từ: Chương I. Phật giáo thời Hùng Vương