Ấn Độ giáo chủ trương tu đem cái Tiểu ngã hòa nhập vào cái Đại ngã của Đấng phạm thiên. Lão giáo chủ trương tu xa lìa thế tục, an trụ trong Đạo tức là Vô vi v.v… Chỉ có Phật giáo chủ trương tu để giải thoát, nghĩa là cởi bỏ tất cả phiền trược và hệ lụy, gột rửa và lắng đọng tất cả bợn dơ của tâm hồn để tâm trở thành thanh tịnh và trong sáng, trở về với trạng thái uyên nguyên ban sơ của nó. Dù rằng, đức Phật tùy theo căn tánh sai biệt của chúng sanh mà phương tiện chế ra tám vạn bốn ngàn pháp môn nhưng cứu cánh của người tu Phật là phải thể nhập Phật tánh, sống với chơn tâm hay thành tựu trí tuệ đáo bỉ ngạn.
Tu đúng pháp Phật là đoạn trừ toàn bộ mê vọng và thực hiện tất cả các hạnh nguyện độ sanh viên mãn bi - trí. Phải biết chối từ tất cả các quán trọ của Hóa thành, trực chỉ về Bảo sở để thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngược lại, nếu người tu Phật với mục đích cầu danh lợi, cầu phước báo nhân thiên là sai với pháp Phật. Muốn tu đúng pháp Phật phải thực hành viên mãn tự độ và độ tha. Tự độ hay tự lợi là ứng dụng pháp Phật tu hành để giải thoát tự thân. Trong vô lượng pháp môn, tùy theo căn cơ sai biệt của mỗi hành giả tự chọn lấy một pháp như Thiền – Mật – Luật và Tịnh v.v… nhưng then chốt và chung nhất phải thành tựu Giới - Định - Tuệ. Trong đó, Giới quan trọng nhất, Giới là nền tảng làm hàng rào che chắn các nhiễm ô xâm nhập từ bên ngoài do tác dụng của căn trần, Giới cũng là thành trì vững chắc ngăn chặn sự dấy khởi của tà niệm bên trong.
Người tu Phật phải có Giới và giữ Giới. Giới giúp cho hành giả không còn tạo các ác nghiệp, Giới giúp cho thiện căn mỗi ngày mỗi thêm lớn, Giới là cội rễ của Định và Tuệ. Giới quan trọng đến mức “Giới luật còn Phật pháp còn”. Bởi vì tâm chúng ta từ vô thỉ kiếp cho đến ngày nay liên tục vọng động duyên theo cảnh mà tạo nghiệp, cho nên định tâm đối với người tu Phật rất quan trọng. Muốn đạt được sự định tâm có nhiều phương pháp, nhưng căn bản có hai cách. Thứ nhất là tu Chỉ, thứ hai là tu Quán. Chỉ nghĩa là dừng, trụ tâm vào một pháp, chuyên nhất với pháp khiến tâm không còn chỗ trống, không còn đất để cho phiền não dung thân. Đó là tu chỉ để đạt được sự định tâm. Quán nghĩa là dùng trí quán sát chiếu liệu để thấy được thực tướng của các pháp. Có nhiều phương pháp quán như quán Tứ đế, quán Nhân duyên, Ngũ đình tâm quán v.v… nhờ Quán giúp hành giả biết một cách tường tận về bản chất các pháp là hư giả. Nhận thức được điều đó giúp tâm không bị ràng buộc, dính mắc vào các cảnh nên hành giả đạt được sự định tâm. Định tâm càng lớn, sức định càng dày thì phiền não càng co hẹp lại. Đây là cơ sở để cho trí tuệ phát sinh nên nói “nhân Định phát Tuệ” là vậy. Trí tuệ Phật giáo không phải là thông minh của thế gian, Trí tuệ của Phật giáo đồng nghĩa với không còn Vô minh, thân chứng được thật tướng của các pháp. Sự vật dưới con mắt Trí tuệ là những gì đang là, chúng tương lập, tương thành, tương sanh, tương hoại, và sau cái vô tạo là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Nhờ Trí tuệ màn vô minh bị chọc thủng, mọi tình chấp bị cuốn phăng cùng với nhiễm ô, cấu uế, bọt bèo. Giáo lý của đức Phật tuy có tam tạng thánh điển, với vô lượng pháp môn nhưng chung quy không ngoài Giới - Định - Tuệ. Người tu Phật thành tựu Giới - Định - Tuệ và viên mãn phần Tự lợi. Nhưng chỉ dừng ở Tự lợi, giải thoát riêng cho mình thì chưa đủ vì pháp Phật là viên dung bi - trí nên hành giả phải thực hiện Lợi tha. Phật là bậc đã Tự giác, Giác tha, Giác hạnh viên mãn. Lợi tha có nghĩa là đem Trí tuệ và Đức độ của mình để làm lợi ích cho chúng sanh. Tùy theo khả năng, trình độ và nội chứng của mỗi cá nhân mà Độ tha cũng có thức bậc và sai biệt. Người thực hành hạnh Lợi tha cụ thể và đơn giản nhất là đem của cải vật chất bố thí, chia xẽ cho những người nghèo, mua sắm thuốc men hoặc làm thuốc để xoa dịu nỗi đau của bệnh nhân, hoặc động viên, an ũi, đở đần những người bất hạnh. Phải tham gia công tác từ thiện xã hội, xây dựng những công trình công cộng v.v… tiếp đến hành giả phải đem giáo lý của đức Phật giảng dạy để chúng sanh biết phương pháp tu hành khiến họ tin Nhân quả tội phước mà làm lành lánh dữ, xã ác phục thiện. Sau đó, chúng ta lần lượt dìu dắt họ tiến vào sâu hơn trên biển pháp khiến họ tin hiểu cuộc đời là Khổ, Vô thường, biết các nguyên nhân gây ra đau khổ rồi ứng dụng tu hành để diệt khổ. Người thực hành hạnh Lợi tha còn giúp họ thấy được các pháp hữu vi tồn tại trong quan hệ Nhân duyên, không có tự ngã, không có chủ thể để họ cởi bỏ những định kiến, thần ngã, duy thần, đấng tạo vật... Cao hơn nữa, hành giả phải triển khai giáo pháp khiến họ biết tâm tin hiểu mình có Phật tánh sáng suốt, nhiệm mầu mà hàng phục vọng tâm xả ly mọi phiền não, vượt thoát mọi ràng buộc khổ đau để họ luôn luôn an ổn, tự tại và vô úy. Lợi tha phải phát xuất từ nền tảng Đại bi tâm thì mới được Lợi tha đúng pháp Phật. Vì sao? Đại bi tâm là tình thương rộng lớn, rộng rãi, bao trùm mà không phân biệt. Bi phát khởi nhờ Trí, hiểu được mới thương được. Nhờ Trí tuệ nên nhận thức được tất cả chúng sanh tuy sai biệt trên hình thức nhưng đều có tánh giác ngộ, nhờ có Trí tuệ nên người tu Phật biết rằng mình với tha nhân không phải hai mà liên quan mật thiết với nhau trong quan hệ trùng trùng duyên khởi, tương sanh tương hoại. Dưới ánh sáng Trí tuệ người tu Phật thực hành Lợi tha vượt lên nhân ngã không còn phân biệt mình và người, làm tất cả nhưng không thấy mình làm và người được làm. Cho tất cả nhưng không thấy mình cho và người được cho. Đây mới là chân chính Lợi tha đúng pháp Phật. Tuy nhiên, Lợi tha không phải là phần việc thứ hai sau khi đã tự Lợi mà Lợi tha và Tự lợi phải song hành, trong Tự lợi có Lợi tha và ngược lại. Vì Bi và Trí không hai, Trí chính là Bi và Bi cũng chính là Trí nên Độ tha chính là Tự độ và Tự độ chính là Lợi tha. Tự độ Độ tha bất nhị, không phân biệt, siêu việt lên tất cả sự đối đãi tương đối. Đây chính là chỗ cùng tột của pháp hành, mà cũng chính là lúc chơn tâm Phật tánh hiển bày nên nói thực hiện viên mãn Tự lợi và Lợi tha là tu đúng pháp Phật vậy.
Như trên đã trình bày, tu đúng pháp Phật là thực hiện lần lượt đến viên mãn Tự lợi và Lợi tha. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đấng giáo chủ của chúng ta, sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề đã đem đạo giác ngộ giải thoát của Ngài truyền dạy cho chúng sanh, giúp chúng sanh giác ngộ và giải thoát. Bồ tát Địa Tạng phát đại thệ nguyện cứu độ chúng sanh khắp các Địa ngục, Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền, Bồ tát Quán Âm, Thế Chí, chư vị Bồ tát đều có hạnh nguyện rộng lớn cứu độ muôn loài và chư vị Tổ sư vừa tu hành tự giải thoát, vừa làm tất cả các Phật sự, giáo hóa đồ chúng, khai thị đệ tử, tham gia cố vấn triều chính để lợi nước ích dân như Khuông Việt thái sư, Vạn Hạnh thiền sư v.v… Gần đây nhất và nổi bật nhất là Bồ tát Thích Quảng Đức, sau khi viên mãn Trí tuệ, Ngài đã thành lập đạo tràng, mở mang Già lam, xây dựng chùa tháp và tiếp Tăng độ chúng. Ngài đã xả thân bảo vệ đạo pháp với một minh chứng hùng hồn là trái tim Bồ tát bất diệt. Bồ tát Thích Quảng Đức phát nguyện thiêu thân, khai sáng đuốc tuệ, ánh lửa Từ bi, Đại hùng Đại lực để bảo vệ đạo pháp làm chấn động năm châu, nhân loại khâm phục và hàng phật tử vô cùng tôn kính, ngưỡng mộ.
Tóm lại, tu đúng pháp Phật là mục đích tôn chỉ của tất cả những người tu Phật. hành giả muốn tu hành đúng pháp Phật phải thành tựu Giới - Định - Tuệ. Thực hành Tự lợi Lợi tha, viên mãn Bi - Trí. Không phân biệt tại gia hoặc xuất gia, không ngăn cách giữa giai cấp tôn giáo, hoặc dân tộc. Hễ người nào ứng dụng pháp Phật tu hành tự giải thoát cho mình, hướng dẫn mọi người cùng tu để tiến đến tất cả cùng giải thoát, sống trong thế giới thanh tịnh và an lạc, biến Ta bà thành Tịnh độ thì người ấy đã tu hành đúng pháp Phật. Ngược lại, dù bất cứ hình thức nào, tu mà không có Giới - Định - Tuệ, không thành tựu Bi - Trí, không viên mãn Tự lợi và Lợi tha, không giúp mình và người cùng giải thoát giác ngộ thì những người ấy tu sai với pháp Phật.