;
Nhà tôi có một căn gác nhỏ, lợp bia-rô rất nóng, dành đựng đồ vật không thường dùng. Lần tôi lên tìm cuốn sách cũ, ngạc nhiên tột độ. Một cái ổ nhỏ xinh ngay thành cửa sổ, và hai chú chuột nằm gọn trong đó ngủ ngon lành. Tôi không muốn nhúc nhích, sợ chúng sẽ thức giấc vụt chạy. Lũ chuột thính tai thế mà không hay tôi đang đứng bên và có thể dùng thứ gì đó phương hại chúng. Tôi xuống kể lại câu chuyện này với người nhà, gọi chúng là đôi vợ chồng. Bẵng đi thời gian lâu, tôi quên luôn chuyện này, lên lại căn gác thấy cái ổ cũng biến đâu mất. Tôi không hề làm ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng, thật lạ là trong nhà chuột không sinh sôi thêm, không phá phách gì.
Một chuyện khác, từ người hàng xóm. Cô kể. Sáng ấy đi thể dục (đúng hơn là hành thiền niệm Phật), về đến nhà cô liền múc nước tưới vạt rau trước hiên chỉ vài mét vuông. Lạ. Sao thấy cụm đất cứ trồi lên hụp xuống như con gì đang thở. Lấy cái que khơi, giật mình, một con ba ba lớn bằng hai bàn tay. Điều đầu tiên là cô nhìn quanh, nhìn ra đường xem có ai không. Nhanh chóng, cô cho chú ba ba vào chậu bỏ trong nhà tắm. Rất hồi hộp. Cô đứng đường nghe ngóng. Thường mỗi sáng hai gia đình hàng xóm trước mặt nhà đều dậy quét dọn; cô ra nói chuyện nhằm dò xét có ai kêu mất con ba ba. Không. Đến trưa cô cũng dạo qua nhà họ uống nước, hỏi tình hình chợ búa thế nào, trưa nay có mua gì ngon? Không thấy ai nhắc đến con ba ba trị giá. Về, cô chững lại nhận định.
Nhà cô nằm giữa mấy ngôi nhà liền kề đều tường cao; chỉ có hai nhà trước mặt là không, còn những nhà khác thì xa. Vậy con ba ba này từ đâu tới? Hay nó thoát ra khỏi quán nhậu ngoài quốc lộ, đã bò cật lực suốt đêm để làm một cuộc giải thoát ngoạn mục. Nhưng tại sao nó không tạt vào nhà nào, lại rẽ ngang vào nhà cô - vốn là một Phật tử thuần thành duy nhất ở xóm. Hay ngẫu nhiên nó bò vào đây; và đã được cô chủ âm thầm mang đi phóng sanh.
Dĩ nhiên con người không cần phải hiểu ngôn ngữ của loài vật mới hiểu chúng. Bồ tát thương loài vật như mẹ thương con. Phật xem hết thảy chúng sanh đều là quyến thuộc của mỗi người từ vô thỉ. Hại vật chính là hại quyến thuộc, là chưa hiểu chính mình cũng có Phật tánh đồng đẳng. Đức Phật luôn khuyên mọi người không hại vật và nếu có thể thì ăn chay để mở lượng từ bi vốn sẵn trong chân tâm bổn tánh.
Lạm bàn vào vấn đề ăn chay, thiết nghĩ chúng ta cần giải quyết mối tương quan giữa Con Người và Con Vật. Người là động vật bậc cao, vật là động vật bậc thấp. Giữa hai loài này khác trước hết ở chữ “cao” và “thấp” song đều là động vật, không nên tàn hại nhau. Con vật do trí óc kém phát triển, sống theo bản năng tăm tối là điều dễ hiểu. Con người với trí thông minh vượt trội, lại có quá nhiều người sống dựa vào bản năng nên tâm tánh dễ nổi sân, tham và kiêu mạn.
Đức Phật không bảo người tu tại gia phải tuyệt đối ăn chay, mà trước hết khuyên nên ăn theo Tam tịnh nhục: ăn thịt của con vật khi không giết nó, không thấy nó bị giết và không nghe tiếng nó kêu cứu khi bị giết. Tuy nhiên nếu một lòng hướng về Phật, một lòng nguyện được về cõi thuần Tịnh thân cận cùng mười phương chư Phật thì việc ăn chay rất cần thiết. Trường trai sức khỏe có đảm bảo? Khoa học chứng minh ăn mặn sức khỏe tăng nhanh so với ăn chay, song mầm bệnh nhiều hơn ăn chay gấp bội; ăn chay dẻo giai và ít bệnh. Xét về nghiệp lực: ăn mặn trái với đạo, ăn chay ngược lại. Ấy là chưa bàn đến vấn đề ý niệm: ăn chay đạm bạc với tâm vui vẻ thì thức ăn ấy là thuốc dưỡng sinh.
Trước mặt đủ sơn hào hải vị, ta ăn với tâm tham sân chúng sẽ tiết độc tố. Dễ hiểu hơn, ai thực hành viên mãn Thập thiện, chỉ vài cọng rau cũng khỏe. Những người vừa nhai cơm vừa thầm niệm Phật, thức ăn sẽ thành bổ dưỡng, mọi tế bào trên thân nhận sóng âm từ bi này sẽ tự chuyển hóa. Thường niệm “A Di Đà Phật” sẽ đẩy lùi vọng tưởng. Chấp trước lớn nhất là xem thân này đồng với ta (thật ra chỉ là “của ta” như áo quần), từ đó không tin nhân quả. Phân biệt lớn nhất là cho con người thuộc hàng tối cao trong trời đất. Từ đó xem thường, đối xử tàn tệ với loài vật mà không hay trong các đời quá khứ chúng ta cũng từng khoác vô số thân các loài khác nhau.
Con người hơn loài vật nhưng không thể tự thân sống dưới nước và bay trên bầu trời. Thừa nhận người cao hơn người cốt nơi trái tim chứ không ở cái đầu, nhưng người lại phủ nhận tình thương vô hạn của vật. Bởi chúng cũng trào nước mắt lúc bị lôi vào các lò mổ; chúng cũng xả thân cứu người; chúng cũng đứt ruột mà chết khi nhìn con bị sát hại...
Việc các nhà ngoại cảm nhìn thấy người chết sau bao nhiêu năm vẫn còn ở ngoài mồ, đã khiến nhiều người hoài nghi về luân hồi. Các vị Bồ tát ứng thân từng dạy: Con người không tu tập, lúc mất đều theo nghiệp lực kéo vào lục đạo; việc họ còn ngoài mồ chỉ là tác dụng của “cái bóng” thần thức, không phản ánh đúng cảnh giới xấu họ đang phải chịu nhận. Công phu tu tập của hành giả thể hiện ở lượng từ bi rộng hẹp. Theo tinh thần kinh điển: vạn vật đều cùng một tự tánh câu thông khắp hư không trọn pháp giới. Tổn người hại vật chính là hại mình.
Bàn về ăn chay, là cũ lắm. Bàn thêm là bởi từ sát sinh (dẫu là bất khả kháng) đi tới ăn chay, “sự kiện” đó, theo cách nói của văn hào David Thoreau, can dự một cách quan trọng vào vấn đề vận số của con người. Quá nhiều công trình khoa học chứng minh sự khác nhau giữa loài người và loài vật. Và để thật sự phân chia đẳng cấp vượt trội của mình, họ phán loài vật không có tư duy, không có ngôn ngữ. Suy nghĩ đơn giản: loài người ở nhiều nơi trên thế giới, khi mới xuất hiện cũng “không có” ngôn ngữ, chưa hoàn thiện ngôn ngữ mà phải dùng ký hiệu hoặc nút thắt ghi sự kiện, tháng ngày.
Loài cá hồi cứ 5 năm một lần, bất kể đang ở nơi đâu trên đại dương, đã dùng tín hiệu cùng nhau lũ lượt hành hương về nơi chúng sinh ra, bất chấp chặng đường dài và khi đến nơi số lượng sống sót quá ít ỏi. Lũ chó nghe được động đất rồi nháo nhào sủa trước cả máy dò tín hiệu, trước những phát minh ưu việt của con người. Có loài tinh tinh, phân tích cho thấy giống đến 99% so với con người. 1% đó có cách lý giải nào khác do “quy định” của nghiệp? Trong một tác phẩm xuất sắc về chiến tranh ở Việt Nam, tác giả mô tả cảnh con vật khi bị cạo long, bầu vú “hiện ra” y hệt phụ nữ.
Trên mặt báo cũng từng đưa tin về người thợ săn sắp bóp cò, điều bất ngờ xảy ra: con khỉ mẹ quay mình che chở cho con. Khỉ, loài chúng ta vẫn thường gọi tổ tiên của người (đến nay sau bao nhiêu quá trình tiến hóa vẫn chưa rụng đuôi), hễ chủ quán cầm dao làm thịt liền quỳ xuống lạy xin tha mạng. Nhiều con trâu mới chỉ được dắt đến buộc ngoài lò mổ, mắt chúng đỏ ngầu nước mắt. Những con ếch và chàng hương ở các quán nhậu bị đè lên thớt đã cố dùng hai chân trước trì lại, trụt cổ vì chúng biết lưỡi dao đang lia xuống. Những con chó lạc chủ, sau mười năm gặp lại vẫy đuôi rối rít vui mừng được “tái ngộ”. Con chó khác khi chủ mất, liền tuyệt thực lên mộ nằm đến chết! Lại có con nghe sắp bị bán liền vào “khóc” trước chủ ngầm xin giữ lại.
Nhiều con mèo nằm trên mái nghe chủ bàn với khách mai làm món nhậu, liền biến mất tăm. Ngược lại, là con người, anh em ruột thịt vẫn xách dao chém giết nhau. Con ngược đãi bố mẹ như với tù nhân. Thêm một chuyện thật một trăm phần trăm: cha đẻ ép quan hệ con gái trong thời gian dài mới bị vợ phát giác. Rồi những con người đường bệ ăn mặc gọn gàng, miệng dùng toàn mỹ từ đạo đức, song luôn có những hành động “bậc thầy” của loài vật, những chiêu thức mà loài vật (do chưa được công nhận là có ngôn ngữ) chưa nghĩ ra. Loài vật ăn thịt theo bản năng của cái đói.
Còn động vật bậc cao, lịch sử còn ghi vết nhơ của toán quân mổ người làm thức ăn kiểu như đoạn được mô tả ở truyện Thủy Hử, Tam Quốc. Ở một góc nào đó của thế giới chúng ta không cần biết địa chỉ rõ ràng, từng có nhà hàng phục vụ món lẩu bào thai trẻ em. Thánh Mohanda Gandhi dạy: “Chúng ta không nên sai lầm chạy theo lối sống của các loài thú nếu tự coi mình cao thượng hơn chúng”.
Và thật nhiều những di ngôn thánh thiện, như của văn hào Nobel năm 1978 Isaac Bashivis Singer, Léon Toltoi, thi hào Percy Bysshe Shelley; kịch tác gia Bernard Shaw Nobel văn học năm 1925, trước cơn thập tử nhất sinh vẫn quyết ăn chay. Bài thơ "Những ngôi mộ sống" của ông lan truyền khắp thế giới: “Trước Trời Phật, trên nấm mộ sinh sát/ Của muôn loài vô tội ta cầu xin/ Ban ơn lành, khi Luật Đạo Đức kia/ Ta xé nát mà không hề thương tiếc/ Và như thế ta gieo nhân tội ác/ Của Chiến Tranh cho nhân loại toàn cầu”. Rất nhiều lời khuyên từ những công trình khoa học uy tín nằm trong chương trình phát triển của xã hội người trên thế giới, rằng ăn thịt là một sai lầm nghiêm trọng.
Theo sách Zen và dưỡng sinh: “Ăn thịt cá nhiều quá tánh tình trở thành ồn ào, tâm trạng rất tầm thường”. Có một công trình so sánh giữa ly sữa động vật với ly sữa đậu nành, hàm lượng dinh dưỡng của ly sữa đậu nành (mà nhu cầu cơ thể cần) gấp ba lần ly sữa động vật. Mặt khác lúc con vật bị giết, nỗi sợ hãi tột cùng khiến chúng tiết ra một loại độc. Hơn thế hầu hết thịt đến tay người tiêu dùng có khi lên tới 6 tháng, chưa kể tẩm hóa chất duy trì sự tươi.
Chúng ta tới nhà thương, thấy người người quằn quại kêu van, chúng ta chỉ xót xa trên bề mặt cảm xúc, chứ đâu có đau như họ; chỉ những bậc đắc đạo mới cảm nhận nguyên vẹn nỗi đau của người bệnh. Người Việt đa phần nuôi chó. Có chú chó được tắm rửa hàng ngày bằng xà bông thơm, được ngủ giường nệm với chủ, được ăn uống sung sướng hơn một công chức trung lưu, ốm đau có thú y. Chó ta một ngày bị bắt, người chủ khóc sưng húp mắt. Thương tận đáy lòng.
Trong xã hội còn rất nhiều con chó được chủ thương như vậy. Chó chết, chủ khóc lóc rồi chôn cất tử tế. Nhưng rồi họ vẫn đến quán “Cờ Tây”. Dẫu, họ sẽ không ăn thịt con chó cưng của mình nếu nó vô tình bị ai đó giết thịt. Nhưng họ sẽ ăn thịt những con chó (cưng) khác của những người chủ thương chó khác. Chưa bàn đến chuyện, những con chó bị phanh thây trong các quán cầy hầu hết đói khổ, ghẻ lở bên thềm lạnh.
Chúng nhẽ ra đáng thương hơn những con chó cưng, cần được cứu vớt hơn. Chó là loài vật gần gũi nhất với người; lúc đánh nó lẽ ra ta phải đặt câu hỏi: A, chó cũng biết đau? Nó cũng đau như người. Vậy, khi chúng ta nện búa vào đầu chó để làm món cầy hoặc treo lên chọc tiết, chó giãy giụa chết từ từ, liệu nó có đau đớn từ từ không? Câu trả lời khó quá, phải cần một công trình khoa học để chứng minh sự đau đó (!). Rồi cắt tiết gà, lột da rắn, đánh toát mồ hôi loài dê, cột trâu đâm đến chết... tất thảy cần phải được khoa học chứng minh sự đau?? Phật từng khuyên: “Hết thảy chúng sinh đều sợ hình phạt, sợ tử vong và đều yêu quý mạng sống; hãy lấy mình làm ví dụ để không giết hại hay khiến người khác giết hại”.
Nhiều người còn lấy nỗi đau của vật làm thú vui. Khỉ, bịt miệng cạo trọc đầu, trói dưới một cái bàn, chỉ lồi cái “đầu hói” lên trên. Lưỡi dao sắc bén lia ngang, “éo!”. Khỉ nhắm mắt, và nhắm mắt vĩnh viễn dưới bàn, còn trên bàn nhậu hả hê tay muỗn tay nĩa múc óc còn nóng ăn trong niềm phấn khích. Con khỉ sắp bị giết quỳ lạy, đồ tể cầm dao chỉ chỏ: xem kìa, mọi người đến xem con khỉ lạy hay chưa kìa...
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 phát biểu trong Ngày Từ Bi Thế giới năm 2013: “Tôi không phải là người ăn chay cho đến khoảng năm thập kỷ trước, nhưng khi tôi nhìn thấy con gà mái bị hành hạ trong một trại nuôi động vật, tôi quyết định trở thành người ăn chay". Một người trong tổ chức bảo vệ ngược đãi thú vật đưa ra sáng kiến, mọi lò mổ giết gia súc nên che kính, để mọi người ngang qua thấy cảnh giết rùng rợn đó, khởi bi thương mà bớt hại vật. Nghĩ ngược lại, không khéo người kéo tới vòng trong vòng ngoài xem cảnh máu me.
Tệ nhất là trẻ em chưa nhận thức đầy đủ sẽ hân hoan trước những cú giật điện hàng loạt trâu bò lợn đổ nhào xuống như loài không xương, hay cảnh một người lực lưỡng giơ cao búa tạ nện xuống đầu trâu, nó gục, đầu lắc lư, quài hai chân trước đứng dậy lưng chừng thì, nhát búa thứ hai giáng xuống, mắt tóe ra... Riêng về trường hợp như nhà vô địch quần vợt Peter Burwash là hiếm: “Khi tôi rời khỏi lò sát sanh, sự tội nghiệp đã giày vò lương tâm. Tôi thầm nhủ sẽ không bao giờ có đủ can đảm đi sát hại một con vật dù lớn dù nhỏ.
Tôi hiểu rằng có những nhân vật lỗi lạc trên thế giới họp nhau để bàn cãi về các vấn đề vật lý, kinh tế và môi trường. Cũng có một số người tán đồng với chủ thuyết ăn chay. Song điều làm cho tôi chọn lấy con đường chay lạt không phải chạy theo chủ thuyết này hay chạy theo chủ thuyết nọ mà chính vì những cảnh dã man mà con người đã đối xử một cách tồi tệ với các loài vật không phương tự vệ”.
Việc thi thoảng truyền hình tìm ra một vài trường hợp không cần ăn uống vẫn sống khỏe mạnh, đấy chẳng có gì lạ. Những người không ăn vẫn sống rất nhiều trên dãy Himalaya, ở trong các hang động mà họ tự bịt cửa tu luyện. Năng lượng tâm linh còn có thể hiểu là “thức ăn”, những người tu đạt tầng cao cảnh giới đều sử dụng được loại năng lượng sạch ấy. Khoa học thường đưa ra một menu thức ăn, trong mỗi bữa phải thịt này cá này đầy đủ dinh dưỡng.
Nếu vậy chỉ cần đưa ra vài trường hợp trường chay đạm bạc rau cỏ cũng đủ bỏ qua công trình dinh dưỡng trên. Nhà Nobel vật lý năm 1921 Albert Einstein nhắn gửi: “Không gì có lợi cho sức khỏe của con người để có cơ hội sống lâu trên quả địa cầu này bằng cách ăn chay”. Với người tu, chỉ vì sức khỏe mà ăn chay, chưa phải chân tu.
Nhân vật chương trình Phật Pháp Nhiệm Mầu kỳ 31 tại chùa Hoằng Pháp là Phật tử Nhật Trung, người vô cùng sáng tạo trong việc kinh doanh các món nhậu tươi sống cho những vị khách thích khoái lạc được tận mắt chứng kiến con vật bị giết trước khi ăn. Vốn chưa từng biết ghê tay, bản thân cũng là một kẻ “khát” cảm giác tra tấn, hành hạ các con vật để thỏa mãn hiếu kỳ, Nhật Trung tạo rất nhiều cách giết: trói khỉ vạt đầu lấy óc tại chỗ; rưới từng gáo nước sôi lên mèo để lông tự bung mà không cần nhổ; trói bò chặt đuôi (ăn thân thể con vật khi còn sống), v.v.
Quả báo hiện tiền: trong 2 năm 6 người thân trong gia đình chết bất đắc kỳ tử; bản thân anh đau đầu dữ dội, luôn phải đập vào tường cho đỡ, người nổi ngứa mọc từng vảy sừng có hình con vật lạ, con gái ốm yếu, vàng vọt, mọc lông ở lưng. Cũng may, nhờ căn lành nhiều đời, Nhật Trung đã gặp nhiều thiện tri thức, đặc biệt được đại đức Thích Thiện Thanh khai ngộ. Chuyện tương tự vô vàn, kể xuyên đêm thấu sáng chẳng hết.
Người trực tiếp giết hại động vật gánh nghiệp nặng đến nhường ấy, người ăn thịt sao không chịu phần trăm cho được. Quy luật vũ trụ vốn phân minh. Có tòa nhà sụp đổ lúc hàng trăm ngàn người đang làm việc, vẫn có người được Nghiệp “lập trình” cho sống. Một người giàu có lịch thiệp, buổi chợ nọ dẫn đầu bếp theo, chỉ mua con này con kia còn giẫy, xong trả tiền phủi tay. Về giao đầu bếp làm thịt rồi lên giũa móng, nghĩ mình không sát sinh?
Nghiệp lãnh từ con vật bị giết, phần lớn người chủ gánh. Người ăn thịt thường mang trong mình nghiệp nặng, nhất là về cuối đời khi phước hao tổn, cạn kiệt. Nghiệp ấy sẽ “cản trở” những điều may mắn lẽ ra đáng được hưởng, sẽ “điều khiển” họ nhảy vào những cuộc chơi vô bổ, những cuộc “thăng hoa” mà hậu họa rõ nét nhất là bệnh, tâm lạnh lùng vô cảm trước nỗi đau của loài vật và của loài người.
Đạo Jainism được thành lập hơn 2000 năm do Mahavira, một vị hoàng tử từ bỏ cung vàng điện ngọc vào rừng tu hành và đắc đạo; giáo lý: mở rộng lòng thương (Ahimsa). Ahimsa dạy các tín đồ phái này không được sát sinh, không ăn thịt cá và ngay trong nhà cũng không được chứa một thứ gì do sự giết chóc.
Các giáo sĩ đạo Jain mặc toàn đồ trắng trên mặt bịt một miếng vải thưa chừa đôi mắt, để tránh loài ruồi, muỗi khỏi bay lọt vào mũi, miệng. Không những thế, các giáo sĩ đạo Jain mỗi năm phải nhập nhất một lần trong suốt ba tháng hè vì thời gian đó côn trùng sinh sản nhiều sợ giẫm lên chúng. Đạo Phật nguyên sơ không cấm ăn mặn. Nhưng việc đó “tiếp tay” cho sự giết hại sinh linh, nên ăn chay đã sớm trở thành ước nguyện trọn đời của người tu. Người trần có ý hướng đến cõi thuần tịnh ngoài việc tự nguyện ăn chay tùy thời điểm, còn lại chủ yếu ăn chay ngày mồng một và ngày rằm. Chỉ hai ngày trong tháng song là việc khó.
Nhiều gia đình tang gia húy kỵ dọn chay, đến giờ mời cơm thì vắng tanh, người được mời về quá nửa, hoặc ngồi vung đũa sơ sài sợ mất lòng khổ chủ. Ăn chay là nghĩa cử, là thực hành một việc tốt; ăn trong trạng thái bực bội coi rẻ đồ chay, tâm vọng động thịt cá là mắc tội. Nếu hiểu lâu lâu “đổi món” là ăn chay, thì những người nông dân nghèo khổ ở các vùng quê hẻo lánh, là “trường chay” đáng nể. Một người bạn ở Hà Nội, bảo ở ngoài này quán chay hiếm.
Chay là đặc sản. Người ta ăn chay như một thú vui, lạ miệng. Để biết ăn chay, việc tốt này không dễ hành. Đức Gôtama một lần ngang qua khu rừng, thấy mẹ con nhà hổ đói quá, nảy sinh ý nghĩ hiến thân để chúng qua bữa. Có những việc nguyên gốc đúng, thì nay, do sự “phát triển” của xã hội nên thành sai. Ăn chay nay người đời cho là thiếu khoa học. Trong Kinh Lăng già, Đức Phật “quan sát thấy tất cả thịt mà chúng sanh ăn đều là thịt người thân của họ”. Với tôi tập ăn chay là đang tự nhắc nhở: Tôi, đồng nghĩa với loài vật.
N.N