;
Nhập pháp giới
Pháp giới của Hoa Nghiêm là pháp giới Tạng Thân, ẩn tàng thập diệu huyển môn mà đại biểu cho hành giả xuyên thầu bởi Thiện Tài Đồng tử học qua 53 vị đại thiện tri thức. Tại sao không một ai khác mà chỉ có Thiện Tài?
Thế giới hiện tượng chỉ là sóng hạt hiện thân của tánh không. Trong một nguyên tử hay một hạt higgs, đều thấp thoáng bóng dáng khoảng không vô tận, là những dạng hư ảo như hình ảnh trên truyền hình do sóng dẫn hiện hình, như thật nhưng không thật. Theo duy thức, thế giới hiện tượng là hiện tướng của tâm thức, tâm thức như giòng nước chảy xiết, xuất hiện lắm hình tướng, do vậy mà không thường trụ, gọi là vô thường. Thế nhưng, chính mình lại đắm nhiễm hiện tướng vọng niệm đó của mình, như một họa sĩ đam mê sắc đẹp của một kiều nữ trên khung vẻ do mình phát họa. Trong vô lượng pháp môn đưa hành giả trở về thực tánh, Hoa Nghiêm là bộ kinh hùng tráng nhất, hàm tàng mọi tinh túy, mọi tính chất thật của hiện tượng giới.
Hành giả muốn thâm nhập vào thực tướng của hiện tượng để chứng vào thực tánh pháp giới, giải thoát khỏi những giây mơ rễ má vọng tưởng, trước tiên phải có tâm thái hồn nhiên, thoát mọi ràng buộc đắm nhiễm trần tục, Đạo học gọi là sơ tâm – nhân chi sơ tánh bản thiện, cũng gọi là tâm ban đầu, tức là tâm khi chưa khởi hiện ý tưởng nhận xét phán đoán, đó là một đồng tử.
Thiện Tài đồng tử là một trẻ thơ nhiều thánh tính, có nhiều biệt tài thánh thiện; khi sanh ra, gia đình sanh nhiều tài vật; muốn tham cứu, học hỏi mọi mặt trong cuộc sống, vì thế Pháp hội do Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Phổ Hiền làm thượng thủ, đã hướng dẫn dạy dỗ Thiện Tài thâm nhập vào mọi cảnh giới hữu vi thế tục để dần đưa đến thực tướng siêu thế. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi quán chiếu nhân duyên thiện căn của Thiện Tài Đồng Tử gieo trồng vô lượng công đức với chư Phật trong quá khứ, thường thân cận chư thiện tri thức.
Lúc đó ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, như tượng vương, xoay nhìn Thiện Tài đồng tử mà bảo rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, lại muốn thân cận các bực thiện tri thức để hỏi Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
Này thiện nam tử ! thân cận cúng dường các bực thiện tri thức là nhơn duyên trứơc nhứt để được đầy đủ Nhứt thiết trí.
Vì thế nên công việc này ngươi chớ có mỏi nhàm.
Thiện Tài đồng tử bạch rằng :
Cúi xin đức Thánh vì tôi mà dạy Bồ Tàt phải học Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? phải đến Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải thật hành Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tịnh Bồ Tát hạnh thế nào? Phải nhập Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải thành tựu Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tùy thuận Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải ghi nhớ Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải thêm rộng Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải làm thế nào cho Phổ Hiền hạnh mau được viên mãn
….………………
Này thiện nam tử ! Nếu muốn thành tựu Nhứt thiết chủng trí thời phải quyết định cầu chân thiện tri thức.
Này thiện nam tử ! Cầu thiện tri thức chớ có mỏi lười. Thấy thiện tri thức chớ có cho là đã đủ. Thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận. Nơi thiện xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm.
Phương nam này có một nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng Lạc có tòa núi tên là Diệu Phong. Trên núi đó có một Tý kheo tên là Ðức Vân. Ngươi nên đến hỏi Tỳ Kheo Ðức Vân : Bồ Tát phải học Bố Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải như thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tỳ Kheo Ðức Vân sẽ chỉ bảo cho ngươi.
Kể từ đây, Thiện Tài Đồng Tử thâm nhập vào mọi giai từng xã hội, được Tỳ kheo Đức Vân sau khi dạy dỗ, giới thiệu Thiện Tài đồng tử đến các bậc thiện tri thức như Tỳ kheo, ngoại đạo Bà La Môn, Tiên giáo cho đến kỷ nữ, chợ trời…mỗi vị, Đồng Tử đều được học một hạnh vượt thoát như sự vượt thoát của sen từ vũng bùn.
Thể tướng pháp giới
Trong Pháp hội nơi rừng Thệ Đa mà đức Bổn sư đang được Thánh chúng vô lượng cỏi giới xuất hiện, vô số lầu đài hoa trái, mọi tướng trạng tồn tại trong một không gian mà chỉ có chư Bồ Tát mới cảm nhận được, hàng Thanh Văn chưa đủ căn cơ thấy được sự hiện diện của Pháp hội vượt ra ngoài tri kiến thế gian:
Chư đại Thanh Văn chẳng thấy được thần lực của Chư Phật, cùng chẳng thấy được chúng Bồ Tát.
Ví như người mù đến chỗ châu bảo, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm vẫn chẳng thấy được châu bảo. Vì không thấy nên không lấy được, chẳng dùng được.
Ðây cũng như vậy, chư đại đệ tử Thanh Văn dầu ở rừng Thệ Ða thân cận đức Thế Tôn mà chẳng thấy thần lực tự tại của đức Thế Tôn, cũng chẳng thấy được đại hội Bồ Tát, vì không có tịnh nhãn vô ngại của đại Bồ Tát, nên chẳng có thể thứ tự ngộ nhập pháp giới thấy thần lực tự tại của đức Như Lai.
Ví như có người được thanh tịnh nhãn gọi là ly cấu quang minh, tất cả màu tối không làm chướng được. Bấy giờ ở trong đêm tối có vô lượng ức người, hoăc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hình tướng oai nghi. Người này ở trong đại chúng đó đều thấy biết rõ ràng. Còn đại chúng đó lại không thấy biết oai nghi tấn thối của người minh nhãn này.
Cũng vậy, đức Phật thành tựu trí nhãn thanh tịnh vô ngại thấy rõ tất cả thế gian.
Ðức Phật thị hiện thần thông biến hóa, chúng đại Bồ Tát câu hội. Hàng đại đệ tử Thanh Văn đều chẳng thấy được.
Trong thế giới vật lý, luôn có sự chướng ngại giữa hai vật thể, do sự chướng ngại mà không thể hòa nhập; Bởi vì vật chất là thể thô của vật lý, ánh sáng và âm thanh là thể tế của vật lý. Thế giới vật chất là sự tồn đọng cô đặc bị ý thức chấp chặt. Cùng một hiện tượng vật lý, bậc Bồ Tát không bị chi phối bởi hiện tượng vật lý, chư vị minh sư chứng đắc vô ngại, vì các Ngài có đủ năng lực chi phối mọi hiện tượng vật lý lẫn tâm lý – “tâm chủ đạo – tâm tạo tác – tâm dẫn đầu các pháp”. Dưới ánh sáng trí tuệ của bậc chứng đắc, vật lý và tâm lý là một.
Do tâm ô trược lầm chấp nên mọi hiện tượng chướng ngại lẫn nhau. Vì có chướng ngại nên không gian, thời gian bị hạn chế đối với mọi vật thể; ánh sáng và âm thanh bình thường không thể vượt qua vật cản, chúng sẽ bị bức xạ, nhiễu xạ, tán xạ hay phản xạ. Tuy nhiên, vi tế của vật lý như hạt Higgs có thể ít bị chi phối bởi không-thời gian, chúng tồn tại độc lập trong sóng dẫn bàng bạt khắp nơi, nhưng cùng có một tính năng tương thông cho dù hai hạt cách nhau hàng vạn dặm; đây là điều mà các nhà khoa học chưa lý giải được. Cái tận cùng của thể tướng, chưa phải là hạt Higgs; cái bản chất của thể tướng, phía sau là một hố đen mà nhà khoa học chưa vượt qua được để lý giải thực tướng của vạn vật. Hố đen vũ trụ hay hố đen tâm linh, hố đen vật thể hay hố đen tâm lý là ranh giới giữa thể tướng và thể tánh. Hố đen là tận cùng của vật thể và cũng là khởi đầu của tánh thể, cũng vậy, vô minh là khởi đầu của hiện tượng và tận cùng của tánh giác, khi tánh giác xuất hiện là vô minh bị đoạn diệt.
Thể tướng vũ trụ vật thể là sự vận hành, giao thoa của chủng tử tạp niệm; khi tạp niệm sinh khởi thì cái thấy biết còn bị giới hạn bởi vô minh chướng ngại, do vậy, hàng Thanh Văn chưa đạt toàn giác, không thể thấy được Thần lực của chư Phật, không cảm nhận được sự hiện hữu của chư đại Bồ Tát trùng trùng nơi không gian hạn hẹp tại Pháp hội. Tương tự cơ chế vật lý của bếp điện từ, còn gọi là bếp cảm ứng, dựa vào ngyên tắc từ trường của cuộn giây với dòng điện cảm ứng, dưới bề mặt thủy tinh, bên trên là vật dụng bằng kim loại có khả năng nhiễm từ, sẽ sinh dòng điện foucaut phát nhiệt. Bên dưới mọi hiện tượng vật thể là dòng vô minh tác động, bên trên là mặt bằng lý trí được tác động bởi dòng điện từ vô minh khởi sanh tạo năng lượng ý thức, năng lượng ý thức bị hạn chế và lệ thuộc bởi vô minh nên không cảm nhận được tính năng vi diệu của trí tuệ giác ngộ chư Phật, khả năng dung thông của năng lượng siêu thức.
Theo quan điểm khoa học truyền thống, thời gian và không gian là hai thực thể khách quan và độc lập nhau, nhưng đến thời đại “các nhà bác học sau Newton, nhất là Einstein với thuyết Tương đối, Bohr, Heisenberg... với Cơ học Lượng tử đã giải quyết những nghi vấn đó một cách bất ngờ, có thể nói là theo hướng phủ định nếp suy nghĩ khoa học quen thuộc: Không gian và thời gian đã được chứng minh trong. thuyết Tương Đối Hẹp là hai mặt của cùng một thực thể gọi là continum thời - không, chúng không có giá trị khách quan tự thân nào mà tùy thuộc vào người quan sát và nhất là chúng có thể chuyển hóa cho nhau.”
Thể tướng của pháp giới cũng vậy, do bủa vây vô minh vọng tưởng nên có sự sai biệt, để vượt thoát sự sai biệt đó, Bồ Tát Văn Thù dạy cho Thiện Tài phải thâm nhập mọi ngõ ngách cuộc sống thông qua 53 vị đại biểu Thiện tri thức. Một khi thẩm thấu mà không vướng mắc thì hành giả thong dong giữa chợ đời, phiêu du vào cảnh giới tự tánh. Đó là trạng thái sau khi Thiện Tài đồng tử gặp Thiện Trụ Tỳ kheo tự tại kinh hành giữa cỏi không, không dính mắc bất cứ vọng tưởng nào, Thiện Tài đã trang bị cho mình áo giáp vô nhiễm để rồi vào chợ trời ( tụ lạc) gặp Bồ Tát Di Dà, và học hỏi mọi thứ xấu ác, ngôn ngữ bất tịnh để không còn bị nhiễm ô bởi bất tịnh xấu ác. Qua bao đẳng cấp trần tục để bước vào tự tánh pháp giới. Tự tánh của pháp giới là hàm tàng của quang năng và âm lực.
Tự tánh pháp giới
Càng ngày, khoa học càng đến gần với Phật giáo, dĩ nhiên không thể đuổi kịp trí huệ của đức Phật. Ví dụ, Pháp Tướng tông bảo: “nhất thiết duy tâm tạo” hay là “tam thế duy tâm, vạn pháp duy thức”…Một ai đó cảm hứng trong thiền định, thể nghiệm được vạn vật là chiếc bóng của một thực thể, hay nói cách khác, trong vũ trụ luôn tồn tại hai thực thể giống nhau. Khoa học gần đây, sử dụng hình ảnh hai chiều tạo thành một thực thể sống động như thật, và Brian Greene đoán rằng, thế giới là hình chiếu của holograms từ thế giới hai chiều, thuộc môn nghiên cứu của các nhà khoa học về lý thuyết dây (string theorist). Holograms là hình nổi, ngắt điện là mất tất cả, từ đó các nhà khoa học đặt vấn đề: “What if we’re holograms?” nghĩa là – chuyện gì sẽ xẩy ra nếu chúng ta là ảo ảnh? Thực ra chẳng có gì lạ đối với tinh thần Duy Thức học về thế giới hiện tượng. Hiện tượng là hình ảnh phóng tâm của chúng sanh. Một thiền giả cảm nghiệm những linh ảnh báo trước những sự kiện sắp xẩy ra hoặc đang xẩy ra cách xa vạn dặm. Trong chiêm bao, cảnh vật hiện ra như thật, làm tác động tâm lý của người nằm mộng, có thể khóc, cười, hoảng sợ…thì hiện tượng vật lý cũng chỉ là phóng ảnh của cuộc đại mộng do cộng nghiệp chúng sanh tác thành.
Các khoa học gia, tuy biết rằng nguyên tử, phân tử cấu thành vật chất, nhưng bản chất của chúng vẫn là số không; cái gì cấu tạo thành khối? người ta hy vọng hạt Higgs giải đáp được nguyên nhân cấu thành hiện tượng vũ trụ, nhưng đó chỉ là giả thuyết chưa thành tựu, vì khoa học chưa nắm bắt được tính “không” của Phật giáo, nên cứ mãi khổ công loanh quanh trong cơ chế hiện tượng holograms vật lý.
Bát Nhã là tinh thần tuyệt đối đề cập đến tự tánh pháp giới:
“Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố vô hữu khủng-bố; viễn ly điên-đảo mộng tưởng; cứu cánh Niết-bàn, Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.”. ……
Thế đấy, Bát Nhã là dòng điện được ngắt để thực tướng hiển lộ, nó không bị xóa mất trắng như holograms, nhưng nó sẽ hiển lộ tự tánh của thực tướng. Thế thì lý thuyết dây, lý thuyết lượng tử, hạt cơ bản…cũng chỉ là chiếc bóng ẩn hiện của một holograms tâm thức; khoa học chạy lòng vòng trong holograms tâm thức để bị bế tắt trước bức tường kiên cố của vọng tưởng. Nếu loại bỏ vọng tưởng, lọt vào vòng đai Bát Nhã thì khoa học không còn là khoa học vật lý, khoa học tâm lý mà tạm gọi là khoa học tâm thức.
Nhà khoa học vật lý Trịnh Xuân Thuận bảo: "Mọi thứ đều khả hữu được hết dưới sự thống trị của nguyên lý bất định, và đối với nó, mọi qui luật được làm ra chỉ để bị vi phạm", có nghĩa – lý nhân quả chỉ còn giá trị tương đối trước nguyên lý bất định. Thật ra, Phật giáo đã từng nói, Phật pháp tức bất định pháp, tuy bất định nhưng vẫn có sự ràng buộc của luật nhân quả; nếu không phải bất định pháp thì luật vô thường không tồn tại, lý nhân-duyên không có mặt trong cuộc sống. Từ nhận định trên, Trịnh Xuân Thuận cảm nhận được những hạt ảo tạo năng lượng ảo bất chợt xuất hiện, bất chợt biến mất như “ma”, vì thế ông ta bảo “tù mù lượng tử”. Và theo Trịnh Xuân Thuận, hình như không có gì gọi là khách quan, mọi thứ tùy thuộc vào đương sự đứng vào cuộc: "Sự có mặt của chúng ta (khi quan sát hay làm thí nghiệm) thay đổi hẳn tiến trình của vở kịch. Hiện tượng khách quan đã bị biến dạng, không tài nào sửa chữa được và biến thành một hiện tượng chủ quan, cái hiện tượng chủ quan đó tuỳ thuộc vào người quan sát và dụng cụ đo lường" (Trịnh Xuân Thuận). Tất cả bị "cách mạng hóa' đến mức "để mô tả điều đã xảy ra, cần xóa bỏ từ ngữ cố lỗ "Người quan sát" và thay vào đó "Người tham dự” (J.Wheeler).
Phải chăng, khoa học vật lý đã khởi đầu đi vào con đường Duy Thức của Phật giáo: “Nhất thiết duy tâm tạo” ?
Âm lưu nội tại
Trong vũ trụ tồn tại một dạng sóng mà khoa học gọi là “trường”, là “năng lượng”, đó là sự chuyển động của nhũng hạt cơ bản giao thoa, một sự chuyển động tại chỗ chứ không phải sự di dịch vị trí của một vật thể. Ví dụ ném một vật xuống nước, những đợt sóng nhấp nhô là do dao động của nước chứ không phải nước có sự di chuyển. Electron bàng bạc khắp không gian trên trường nguyên tử, tạo một dạng sóng của hạt cơ bản. Nó làm nền cho mọi dạng thông tin về sóng dẫn. Sóng quang và sóng âm được tồn tại trong môi trường vật lý. Ngay cả năng lượng sinh thức và năng lượng siêu thức cũng ký gửi thông tin tâm thức vào trường năng lượng nền đó, để đối tác tâm linh cảm nhận thông tin cho nhau.
Những loại thông tin vật lý được chuyển tải trong trường năng lượng vũ trụ, bị giới hạn bởi khả năng phát triển của khoa học đương đại; nhưng thông tin siêu thức có khả năng vượt khỏi giới hạn vũ trụ vật thể để xuyên thấu vào thế giới siêu thể như Pháp hội Hoa Nghiêm được trình bày:
Khi đức Thế Tôn nhập tam muội này rồi, tất cả thế gian đều khắp nghiêm tịnh.
Liền đó, lâu các đại trang nghiêm bỗng nhiên rộng rải không có ngằn mé, kim cang làm đất, bửu vương che phía trên, vô lượng bửu hoa và những châu ma ni rải đầy khắp trong lầu, lưu ly làm cột, các thứ báu hiệp thành, trang nghiêm với đại quang ma ni, vàng diêm phù đàn, như ý bửu vương trùm khắp phía trên nghiêm sức. Lầu cao thành dãy, đường gác kèm bên. Kèo máy thừa nhau, cửa nghạch chói nhau. Thềm, bực, hiên, bao lơn đều đầy đủ. Tất cả đều trang nghiêm với diệu bửu. Những bửu ấy đều là hình tượng nhơn thiên, kiên cố đẹp lạ đệ nhứt thế gian. Lưới báu ma ni che khắp phía trên. Bên cửa đều dựng tràng phan, đều phóng quang minh cùng khắp giới. Ngoài đạo tràn, thềm cấp lan can nhiều vô lượng không thể kể nói, đều bằng ngọc ma ni.
Lúc đó lại do thần lực của Phật, rừng Thệ Ða bỗng nhiên rộng rãi đồng với bất khả thuyết Phật sát vi trần số quốc độ. Tất cả diệu bửu xen lẫn trang nghiêm. Bất khả thuyết bửu trải khắp mọi nơi. Vô số bửu làm tường rào. Cây đa la báu trang nghiêm bên đường.
Trong rừng lại có vô lượng hương hà, đầy những nước thơm sóng gợn xoay quanh. Tất cả hoa báu theo dòng chuyển về phía hửu, tự nhiên diễn ra âm thanh Phật pháp. Bất tư nghì bạch liên hoa báu búp nở thơm tho giăng bày trên mặt nước. Những cây bông báu trồng hàng bên bờ sông. Bất tư nghì những đài, nhà mát xếp hàng trên bờ sông, lưới báu ma ni che trùm. Vô số báu phóng đại quang minh. Ðốt những diệu hương mùi thơm ngào ngạt…
Bấy giờ trong hư không trên rừng Thệ Ða có bất tư nghì thiên cung điện vân, Vô số hương thọ vân, bất khả thuyết Tu Di sơn vân, bất khả thuyết kỹ nhạc vân phát ra tiếng hay diệu ca ngợi đức Như Lai, bất khả thuết bửu liên hoa vân, bất khả thuyết bửu tòa vân trải thiên y Bồ Tát ngồi trên đó ca ngợi công đức của Phật, bất khả thuyết thiên vương hình tượng ma ni bửu vân, bất khả thuyết bạch chơn châu vân, bất khả thuyết xích châu lâu các trang nghiêm cụ vân, bất khả thuyết vũ kim cang kiên cố châu vân. Những bửu vân này đều dừng ở hư không bao vòng cùng khắp để trang nghiêm.
Sự tồn tại của năng lượng siêu thức từ quang năng và âm lưu của Phật lực làm nền cho mọi thường trụ và thông tin, xuyên thấu mọi cảnh giới, nhưng năng lượng Phật lực đó không được chúng sanh cảm nhận do nghiệp thức ngăn che. Trong phẩm “Hoa Tạng thế giới” và “Thành Tựu thế giới” dẫn chứng phước báu trang nghiêm, công đức Phật lực và chư đại Bồ Tát mười phương mà vũ trụ được an bày và tồn tại dưới nhiều dạng thức. Đó là một trường lực vô biên mà năng lượng siêu thức của mỗi hành giả tâm linh sẽ hòa nhập đồng thể đại bi:
“…Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! mỗi mỗi thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần-số chỗ nương trụ. Hoặc nương tất cả trang-nghiêm mà trụ. Hoặc nương hư-không mà trụ. Hoặc nương bửu-quang-minh mà trụ. Hoặc nương bửu-sắc quang-minh mà trụ. Hoặc nương thinh-âm chư Phật mà trụ. Hoặc nương Kim-Cang hình đại-lực a-tu-la chúng-sanh như huyễn mà trụ. Hoặc nương thân các Thế-Chủ mà trụ. Hoặc nương thân chư Bồ-Tát mà trụ. Hoặc nương tất cả biển trang-nghiêm sai khác hạnh-nguyện Phổ-Hiền mà trụ.
Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải có thế-giới vi-trần-số chỗ nương trụ như vậy…”
Cái trường năng lượng tồn tại trong vũ trụ đó, “Phẩm thế giới Thành tựu” trong Hoa Nghiêm đã cho thấy vô số chủng loại “thế giới hải vi trần” nương vào nhiều yếu tố mà trụ, trong đó quan trọng cho thấy có thế giới hải vi trần tồn tại bằng “Quang Minh hoặc Bửu sắc quang minh” hoặc nương “thinh âm của chư Phật mà trụ”. Năng lượng và năng lực đó từ quyền thứ nhất đến quyển thư 81, bốn mươi phẩm đều bàng bạc quang năng và âm lưu của Phật lực. Khi chuyển qua thế giới vật lý, khoa học gia chỉ nhìn thấy được dạng sóng của những hạt cơ bản, hạt Higgs, electron hư ảo, nên không thể nắm bắt được nền tảng chắc thật cố định, vì thế mà Trịnh Xuân Thuận gọi là bất định, chúng ẩn hiện như ma. Thật ra, dưới nhãn quang nhà Phật, thế giới nầy là hư ảo, vì thế chúng ta thấy mọi chướng ngại. Theo tinh thần Hoa Nghiêm thì lý sự vô ngại – sự sự vô ngại, nên “nhất đa tương dung” vì tâm chư Phật vốn vô ngại, vì vậy lòng từ của chư Phật đối với chúng sanh vô ngại đại bi.
Đi đến tận cùng của vật thể, khoa học đối diện với một khoảng không đen tối và bất lực, vật chất không đáp ứng mọi thắc mắc của khoa học vật lý, một số khoa học gia tìm thấy phía sau hố đen vũ trụ cũng như khoảng đen tri thức là một dạng sóng siêu thức, thế nhưng, với óc thực dụng, chưa phải là chìa khóa khả hữu để họ bước vào lãnh vực tâm linh siêu thoát.
Tuy nhiên, trong mỗi sinh loại đều tồn tại một dạng năng lượng chưa được khai thông, từ năng lượng sinh học đến năng lượng sinh thức và năng lượng siêu thức đang bị vây bủa bởi một bóng đen vô minh cố hữu. Một hành giả đủ duyên, gặp chánh pháp, gặp Phật, Bồ Tát, Thánh sư câu thông năng lượng vũ trụ, hay còn gọi là năng lượng “Hoa tạng” tức chân như Phật tính, từ đó, hành giả luôn được bao bọc bởi năng lượng tiên thiên, năng lượng Phật lực, hành trì, nghiệp thức dần dà tiêu mòn, trí huệ càng được khai thông. Năng lực nội thể đó là dạng âm lưu nội tại, một dạng chấn động lực nội thể hòa nhập cùng chấn động lực ngoại biên, nâng tần số siêu âm của võ não, giúp hành giả hoán cải từ thể chất đến tâm linh; con người mới hoàn toàn thay đổi, đặc biệt lòng từ bi phát triển không hạn chế, sức khỏe và tinh thần an lạc hoan hỷ sống một cách tự tại vô ngại giữa xã hội nhiều chướng ngại.
Mỗi hành giả tâm linh là một Thiện Tài đồng tử được khai sinh từ thiện pháp, tâm thể hồn nhiên, thâm nhập muôn pháp thế gian, hóa giải mọi chướng duyên ràng buộc, để sẵn sàng nhập pháp giới Hoa Tạng, một thế giới tràn đầy năng lượng sóng âm và quang năng làm nền để thế giới hoa tạng cùng tồn tại mà không hề chướng ngại nhau như thế giới vật lý. Thiện Tài đồng tử hay hành giả tâm linh đều cần nương vào thần lực và âm lực của chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh sư để chuyển hóa nghiệp thức, nâng cao tâm thức; hành trạng nầy, Thiền tông gọi là giáo ngoại biệt truyền, tâm ấn tâm giữa thầy và trò, từ đó, năng lực của thầy luôn hỗ trợ cho đệ tử suốt cuộc hành trình thấm gội quang năng và âm lực siêu thức.
Hành giả quán âm luôn lắng nghe âm lưu nội tại là tần số rung động của năng lượng sinh thức để tiến vào thế giới siêu thức, vượt qua mọi chướng ngại của thế pháp, một dạng thể nhập pháp giới tự tánh!