;
Hoàng dược tử - Khoai dái - Khoai trời là loại củ mọc trên các dây leo
Hoàng Dược tử tên khác tên thường gọi: Củ dại, Khoai trời, hoàng dược, khoai dái
Tên khoa học: Dioscorea Bulbifera Họ khoa học: Dioscoreaceae
Tên tiếng Trung: 黄 药 子
Cây khoai dái - Cây khoai trời
(Mô tả, hình ảnh cây khoai dái, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý)
Mô tả
Theo Từ điển cây thuốc Việt Nam của TS.Võ Văn Chi, khoai dái là cây leo sống lâu năm, có một thân rễ dạng củ to, với thịt củ màu vàng hay màu kem, Thân nhẵn, tròn hay hơi có cánh, trơn bóng, màu tím. Lá đơn, to tới 34 x 32cm, mọc so le, nhẵn, hình tim, có mũi nhọn.
Ở nách lá có những củ con, mà ta gọi là dái củ, hình trứng hay hình cầu có kích thước thay đổi, có khi rất to, đường kính tới 10cm. Hoa mọc thành bông thõng xuống; bao hoa 6; nhị 6, chỉ nhị đứng. Hoa cái nom giống hoa đực. Quả nang, mọc thõng xuống, có cánh. Cây ra hoa vào tháng 7-10; có quả tháng 8-11.
Phân bố
Ở Trung Quốc cây khoai trời thường gặp ở các tỉnh phía nam Hà Nam, miền nam An Huy, miền nam Giang Tô, Giang Tây, Chiết Giang, Phúc Kiến, Đài Loan, Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, phía nam Thiểm Tây, miền nam Cam Túc, Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Tây Tạng. Ngoài ra còn có ở các nước như Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Ấn Độ, Myanmar, Châu Đại Dương và Châu Phi, Việt Nam
Thu hái, chế biến.
Hoàng dược tử là củ của cây khoai dái. Củ khoai dái, khoai trời được thu hoạch vào cuối mùa hè đến đầu mùa đông (từ tháng 9 - tháng 11). Chọn củ khoai to để đào, thân, lá rễ cắt bỏ, củ đem rửa sạch hết đất, thái lát dầy 1- 1.5cm, sấy khô. Đây là vị thuốc hoàng dược tử.
Mô tả dược liệu
Hầu hết là các tấm cắt ngang, tròn hoặc gần tròn, đường kính 2,5-7cm và dày 0,5-1,5cm. Bề mặt có màu nâu đen, nhăn nheo, với nhiều rễ màu trắng, giống như điểm gốc hoặc rễ có cặn cong, có thể dễ dàng bóc vỏ, bề mặt cắt có màu vàng-trắng đến nâu vàng, phẳng hoặc không đồng đều. Cứng và giòn, dễ gãy, phần hạt, và rải rác với cam hố, mùi hơi đắng.
Hoàng dược tử - khoai dái hay còn gọi là khoai trời.
Nhận dạng vị thuốc hoàng dược tử bằng kính hiển vi
Mặt cắt ngang của củ, vách tế bào của nút chai là vi gỗ, và các tế bào đá bên trong được sắp xếp luân phiên thành một vòng. Các bó mạch là khó khăn và lỏng lẻo. Hầu hết các tế bào nhầy đều chứa một bó kim oxalat canxi. Các tế bào nhu mô có chứa các hạt tinh bột .
Nhận dạng vật lý và hóa học
Lấy 0,5g bột thô, thêm 5ml nước, lắc và lọc. Lấy 1 ml dịch lọc, thêm 2 giọt dung dịch thử ferric clorua 1% , xuất hiện màu xanh lá cây và tạo ra kết tủa flocculent. (kiểm tra phenol và tannin ) Lấy 1g bột thô, thêm 10ml ethanol, ngâm trong khoảng 10 phút và lọc.
Các giọt đã lọc được đặt trên giấy lọc , và 1% dung dịch thử hydrochloride vanillin đã được thêm vào để cho thấy hoa oải hương. (kiểm tra gián ) Các dịch lọc ethanol trên được lấy và bỏ trên giấy lọc, và dung dịch thử p-dimethylaminobenzaldehyde được thêm vào, và sau đó là màu hồng sau khi đun nóng. (kiểm tra steroid, lacton, v.v.) Lớp mỏng sắc ký để cho ra 5g sản phẩm, ethanol 30ml, trên một cốc nước trào ngược khai thác 2h, lọc. Dịch lọc được cô đặc và được sử dụng làm dung dịch thử . Lấy thuốc màu vàng B để tham khảo.
Họ đã phát hiện trên silica gel G-CMC cùng một tấm TLC , etyl axetat - ethanol - cyclohexane (20: 1, 5: 1) để mở rộng, để phun dimethylaminobenzaldehyde giải pháp kiểm tra, 110 ℃ Nướng trong 10 phút, và sắc ký của dung dịch thử cho thấy cùng một điểm đỏ anh đào trên vị trí tương ứng của sắc ký đồ của chất chuẩn.
Thành phần hóa học
Các dạng củ khoai trời hoang dại có chứa độc tố thuộc nhóm steroid, diosgenin, được dùng để sản xuất một số hormon steroid tổng hợp.
Vị thuốc hoàng dược tử
(Tính vị, quy kinh, công dụng, liều dùng)
Tính vị
Hoàng dược tử có vị đắng, tính bình
Quy kinh
Vào kinh đại trường
Tác dụng
Hoàng dược tử có tác dụng tiêu viêm, tiêu sưng, long đờm, cầm máu. Được dùng trị bướu giáp, ung thư dạ dày thực quản, giang mai lở loét....
Dù có chút độc nhưng chỉ cần rửa sạch và luộc chín là loại củ này có hương vị rất thơm ngon
Cách dùng
Người ta thường lấy dái củ luộc kỹ ăn. Dái khoai có độc nhưng khi rửa nhiều lần và luộc kỹ thì chất độc bị loại đi. Bột khoai dái cũng tương tự như bột ngũ cốc và bột gạo. Củ ở dưới đất không dùng ăn nhưng cũng dùng làm thuốc. Khoai dái thường dùng trị bướu giáp (sưng tuyến giáp trạng); viêm hạch bạch huyết do lao; loét dạ dày và đường ruột; nôn ra máu, ho ra máu, chảy máu cam, chảy máu tử cung.
Dái củ có thể dùng chữa ho gà và dán hai bên thái dương chữa đau đầu, mài với nước uống gây mửa, giải được chất độc của thuốc. Liều dùng 10-15g, sắc uống, nếu là loét ung thư, có thể dùng liều cao, tới 30g. Dùng ngoài trị đinh nhọt, rắn cắn, chó dại cắn. Ở Campuchia, người ta dùng củ trị rối loạn tuần hoàn.
Ở Ấn Độ, dái của những cây mọc hoang dùng đắp các vết loét và dùng trong uống lẫn với cumin (thì là Ai Cập), đường và sữa trị trĩ, giang mai và lỵ. Bột dái củ lẫn bơ dùng trị ỉa chảy.
Ở Trung quốc, theo Tân biên Trung y học khái yếu, củ dùng trị loét thực quản, loét dạ dày, sưng tuyến giáp, nôn ra máu, khạc ra máu, chảy máu cam, chảy máu dạ con, nhọt độc, rắn cắn, chó dại cắn. Dái củ trị viêm phế quản cấp và mạn và hen suyễn.
Liều dùng
Dùng ngoài liều từ 3-5g giã đắp vào vết thương
Tác dụng chữa bệnh của vị thuốc hoàng dược tử
Chữa bướu giáp: Dùng 200g củ, ngâm vào 1.000cc rượu trắng trong một tuần, chiết lấy nước. Ngày uống 100ml rượu, chia làm 3-4 lần.
Thổ huyết, ho khạc ra máu, chảy máu mũi:
Dùng 8-16g củ khô hoàng dược tử sắc nước uống (dùng dái củ tốt hơn).
Chữa mụn nhọt sưng tấy, rắn cắn, chó dữ cắn:
Giã củ tươi, vắt lấy nước cốt uống, bã đắp vào chỗ đau.
Chữa giang mai, lở loét:
Khoai dái 15g, Thổ phục linh 12g, sắc uống thay trà, mỗi ngày 1 thang.
Tham khảo thêm
Hoàng Dược Tử có tác dụng tiêu sưng, tiêu viêm, cầm máu, long đờm chủ trị bướu giáp, giang mai lở loét, ung thư dạ dày, thực quản.
Hoàng dược tử được dùng để điều trị bướu cổ
Nó có tác dụng nhất định trên nhiều loại bướu cổ khác nhau. Liều lượng của các chế phẩm thay đổi từ nơi này sang nơi khác, và các đối tượng cũng khác nhau.
Sử dụng một nửa catty thuốc vàng, thuốc sắc 2 lần, trộn dịch lọc, thêm 400ml rượu vang trắng (không thêm và hiệu quả), tổng cộng 2400ml. 5ml mỗi lần, 2 lần một ngày, sau bữa ăn.
Hoặc bột thuốc vàng, 3 phút mỗi ngày, chia hoặc phục vụ. 10 ngày cho một quá trình điều trị, ngừng thuốc trong 3-5 ngày và sau đó tham gia các khóa học thứ hai và thứ ba.
Trong điều trị 127 trường hợp mắc bệnh bướu cổ đặc hữu với mức độ I-IV , sau khi dùng thuốc trong hơn một tháng, chu vi cổ của tất cả bệnh nhân đã giảm xuống mức độ khác nhau, và tỷ lệ chữa bệnh là 67,8%. Sử dụng thuốc sắc hoàng dược tử trong 5-8 tuần.
25 trường hợp adenoma tuyến giáp , u tuyến sau 3 biến mất, 17 giảm đáng kể khối u, 1 trường hợp tái phát thu hồi, xử lý một lần nữa nhưng vẫn kết quả. Một số trường hợp phàn nàn về khô miệng sau khi uống thuốc.
Dịch chiết thuốc hoàng dược tử (200g / lít truyền), 100ml mỗi ngày trong 3-4 lần. Nói chung, tổng lượng adenoma là khoảng 2 lít, đó là, ung thư biểu mô nên được thực hiện trong hơn 3 tháng. dòng điều trị khối u tuyến giáp, 7 trường hợp ung thư tuyến giáp, 2 trường hợp cường giáp hai trường hợp, tài sản không rõ của bướu cổ hai trường hợp, 3 trường hợp không hiệu quả, phần còn lại được tiêu tan hơn một nửa (trung bình giảm hơn đường kính cổ 25%), trong đó 6 Trường hợp giảm hơn 80% hoặc biến mất hoàn toàn.
Tác dụng phụ: 2 trường hợp có phản ứng tiêu hóa, buồn nôn nặng, ảnh hưởng đến thuốc, 2 trường hợp vàng da do tổn thương tế bào gan , chủ yếu là do liều quá mức.
Do đó, tổng liều thuốc nên được ngừng trong 10 ngày, và cần kiểm tra chức năng gan nếu vàng da xảy ra, nên ngừng thuốc ngay lập tức và điều trị kịp thời.
Tôi nghĩ bulbifera rượu vang của khối u tuyến giáp dường như có khả năng thay thế một phần phẫu thuật cắt bỏ, ung thư tuyến giáp, bằng phẫu thuật có thể cải thiện kết quả.
Dịch chiết hoàng dược tử, 3-6ml mỗi ngày, được chia thành 3 lần sau khi ăn. Trong điều trị 26 trường hợp ngộ độc tuyến giáp, các triệu chứng lâm sàng của các trường hợp nữ biến mất 2-3 ngày sau khi điều trị, và 21 trường hợp cho thấy sự cải thiện đáng kể trong 4-6 ngày sau khi uống, và 1 trường hợp không hiệu quả. Trong hầu hết các trường hợp, tỷ lệ trao đổi chất cơ bản đã được giảm xuống mức độ khác nhau, và chu vi cổ đã giảm xuống mức độ khác nhau. Kinh nghiệm từ khắp nơi trên thế giới đã chứng minh rằng hiệu quả có liên quan đến tuổi tác và thời gian. Tuổi trẻ và bệnh ngắn hơn có tác dụng chữa bệnh tốt hơn.
Một số bài thuốc có chứa Hoàng Dược Tử
Bài thuốc chữa ung thư thực quản, dạ dày: lấy củ tươi Hoàng Dược Tử đem cạo sạch vỏ và rửa sạch, thái lát, sấy/phơi khô rồi đem tán thành bột uống 2-3 lần/ngày khoáng 16g bột mỗi ngày hoặc có thể chế thành viên và uống.
Chữa lở loét, giang mai: Hoàng Dược Tử 15g, thổ phục linh 12g cho vào sắc uống thay trà 1 thang mỗi ngày.
Chữa bướu giáp: ngâm 200g củ Hoàng Dược Tử trong 1000cc rượu trắng trong 1 tuần sau đó chiết thu lấy dịch và uống 100ml dịch chiết rượu trên/này, chia thành 3-4 lần/ngày.
Chữa ho khạc ra máu, thổ huyết, chảy máu mũi: dùng 8-16g củ đã được phơi hay sấy khô của Hoàng Dược Tử đem sắc với nước uống.
Chữa mụn nhọt, chó dại cắn, rắn cắn: giã củ tươi sau đó vắt lấy nước cốt để uống và phần bã thì đắp vào vị trí bị tổn thương.
Liều dùng
Hoàng Dược Tử dùng theo đường ngoài da để giã đắp lên vết thương với liều 3-5g. Khi dùng Hoàng Dược Tử theo đường sắc uống có thể dùng 10-15g nếu dùng trong trường hợp loét ung thư có thể dùng liều cao lên đến 30g.
----------------------------------------
Khoai trời
Tên gọi khác: Củ dại, khoai dái, hoàng dược, mác cao, mác múc (Tày), ly cam bua (H'Mông).
Tên khoa học: Dioscorea bulbifera L.
Họ: Củ nâu (Dioscoreaceae)
Công dụng: Củ dái và củ dưới đất (thân rễ) khoai trời được dùng chữa thổ huyết, ho
ra máu, chảy máu cam, chữa bướu cổ, sưng tuyến giáp, viêm hạch bạch huyết, lao hạch, viêm dạ dày, ruột.
Mô tả
- Dây leo bằng thân quấn, sống nhiều năm. Thân tròn hoặc có cạnh, dài 3 – 5m, nhẵn, màu tím.
- Rễ củ, hình cầu, to và nặng có thể đến vài kg; vỏ màu nâu thẫm, có nhiều rễ con, ruột màu vàng.
- Lá mọc so le, hình tim, đầu thuôn thành mũi nhọn dài, 7 – 9 gân chân vịt nổi rõ, gân phụ kết thành mạng, hai mặt nhẵn; cuống lá dài 3 – 4 cm. Ở kẽ lá, thường có những củ nhỏ hình tròn gọi là dái (như dái cây củ mài).
- Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùm buông thõng; hoa rất nhiều, có bao hoa 6 phiến, 6 nhị, hoa đực và hoa cái giống nhau.
- Quả nang có cánh mỏng.
- Mùa hoa quả: tháng 4 – 8.
Phân bố, sinh thái
Sự phân bố của loài khoai trời (Dioscorea bulbifera L.) trên thế giới coi rộng rãi nhất so với tất cả các loài khác cùng chi. Cây mọc tự nhiên và được trồng ở khắp các vùng nhiệt đới, bao gồm cả vùng nhiệt đới núi cao và cả ở vùng cận nhiệt đới, kể từ vùng ven biển Đại Tây Dương của châu Phi sang đến châu Mỹ, các đảo ở Thái Bình Dương và đến các quốc gia ở vùng Đông Nam Á, Nam Á và cả ở Trung Quốc.
Loài khoai trời ở Đông Nam Á có sự đa dạng cao, với 4 thứ (var.) như:
- D. bulbifera var. bulbifera: cây mọc tự nhiên khắp vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, lá hình tim ngắn; củ (cả dải mài) có vị chát, nếu không chế biến, ăn vào sẽ gây nôn
- D. bulbifera var. heterophylla (Roxb.) Prain ct Burkill: mọc tự nhiên chủ yếu ở bán đảo Malaysia, lá hình tim dài. Củ và dái mài ăn được nhưng phải chế biến kỹ.
- D. bulbifera var. suavior Prain et Burkill: cây trồng, nhưng có nơi đã trở thành hoang dại hoá. Có ở Java, Madura, Buru, Hamahera, Đông – Nam Niu Ghinê và một số đảo ở phía Đông Níu Ghing. Thịt củ của cây màu xám trắng, có vị chát và đắng, phải chế biến kỹ trước khi nấu để ăn.
- D. bulbifera var. sativa Prain: cũng là cây đã được đưa vào trồng, đồng thời cũng còn quần thể mọc hoang dại, tại Malaysia, Singapo, Jaya, Niu Ghinê, Ấn Độ, Nhật Bản và một số đảo ở Thái Bình Dương. Củ vẫn có vị chát và gây nôn, nhưng củ to và nhiều cái mài hơn các thứ (var.) trên, bởi vậy cây được trồng ở nhiều nơi,
Trong 4 thứ (var). trên, cây khoai trời ở nước ta thuộc dạng thứ nhất (D. bullifera var. bulbifera). Cây phân bố tự nhiên rải rác khắp các tỉnh, từ vùng núi cao khoảng 1.600m xuống đến tận vùng đồng bằng: Lai Châu (Phong Thổ, Than Uyên, Sin Hồ); Lào Cai (Sa Pa, Bát Xát); Hà Giang (Yên Minh, Quản Bạ); Cao Bằng (Hà Quảng); Lạng Sơn (Hữu Lũng); Quảng Ninh (Quảng Yên); Sơn La (Mộc Châu); Điện Biên (Điện Biên Đông); Hà Nội (Ba Vi); Kon Tum, Đắc Lắc, Lâm Đồng và còn có ở một số tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Cây leo bằng thân quấn, ưa sáng, ưa ẩm; thường mọc ở ven rừng, dọc theo các bờ khe suối cửa rừng, nhất là ở các bờ nương rẫy. Cây ra hoa quả nhiều năm. Tái sinh tự nhiên tốt bằng hạt và bằng các dải mài, khi tiếp xúc với mặt đất đều mọc lên cây mới. Củ ăn được, nhưng phải ngâm nước gạo, nước tro bếp và nấu kỹ,
Bộ phận dùng
Thân rễ và dái củ.
Thành phần hóa học
- Củ nấu kỹ ăn được, củ và dái củ chứa glycosid độc có tên là diosbulbin A tan trong nước nóng và betatasin (Phạm Hoàng Hộ, 2006). Ngoài ra còn có albuminoid, chất béo, carbohydrat [The wealth of raw material in India, 1996].
- Theo các tác giả Trung Quốc, khoai trời còn chứa diosbulbin B và H, D – sorbitol, 2, 4, 6, 7 – tetrahydroxy – 9 – 10 -dihydro- phenanthren và 2, 4, 5, 6 -tetrahydroxy-phenanthren.
- Loài khoai mỡ dại (D. villosa) chứa dioxin, 8 – sitosterol, alcaloid, tanin và tinh bột (Andrew chevallier, 2006).
Tác dụng dược lý
Tác dụng kháng khuẩn:
Phân đoạn tan trong diclormethan của các chiết thổ rễ củ cây khoai trời và 2 chất diterpenoid clerodan là bafoudiosbulbin A1 và B2 phân lập từ rễ củ khoai trời đã được nghiên cứu tác dụng kháng khuẩn, dùng hai kỹ thuật là khuếch tán trên thạch và hệ nồng độ pha loãng. Kết quả cho thấy cả cao và cả hai clerodan đều có tác dụng ức chế sự phát triển có ý nghĩa trên các vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa, Salmonella typhi, Salmonella paratyphi A và Salmonella paratyphi B (Teponno et al., 2006).
Tác dụng kích thích sự thực bào:
Trong môi trường có các đại thực bào và vị khuẩn, dịch chiết rễ củ khoai trời có tác dụng kích thích sự thực bào đối với vi khuẩn. Kết quả được chứng tỏ khoai trời có tác dụng hỗ trợ tiêu diệt vi khuẩn của đại thực bào. Mặt khác cũng cho thấy có tác dụng chống ung thư [Chang, 1992: 224].
Tác dụng ung thư:
Dịch chiết khoai trời có tác dụng ức chế sự phát triển của các tế bào u Sarcoma-180 và cả tế bào ung thư cổ tử cung người khi cấy vào chuột nhắt trắng [Chang, 1992: 224].
Tác dụng gây độc gan:
Tác dụng gây độc gan của thân rễ cây khoai trời đã được nghiên cứu trên bốn lô chuột cống trắng: lô I đối chứng uống nước có pha 20% polyvinyl pyrolidon; lô II có 10% cao methanol toàn phần; lô III có 5% phân đoạn chiết cloroform và lô IV có 5% phân đoạn methanol (sau khi đã chiết lấy phân đoạn cloroform) của bột thân rễ cây khoai trời. Các thông số theo dõi là bilirubin trực tiếp, glutamic – pyruvic transaminase (GPT); chỉ số gan (liver index); xét nghiệm hình thái gan và mô học gan trên kính hiển vi quang học và kính hiển vi điện tử. Kết quả cho thấy, lô II và lô III có biểu hiện độc có ý nghĩa trên gan.
Như vậy, phân đoạn chiết bằng cloroform của thân rễ khoai trời là phân đoạn gây độc trên gan (Tan et al., 2003).
Tính vị, công năng
Thân rễ (củ) khoai trời của những cây mọc hoang dại có thịt vị đắng, màu vàng chanh hay màu kem, tính bình, có công năng giáng hoả, lương huyết, tiêu bướu, gây buồn nôn; chất dịch màu tím nhạt ở củ có độc. Do trồng trọt nên vị đắng và độc tính giảm và có thể ăn được.
Công dụng
Củ dái và củ dưới đất (thân rễ) khoai trời được dùng chữa thổ huyết, ho ra máu, chảy máu cam. Ngày dùng 8 – 16g củ khô sắc uống. Nếu họ thì dùng củ dái tốt hơn. Còn dùng chữa bướu cổ, sưng tuyến giáp, viêm hạch bạch huyết, lao hạch, viêm dạ dày, ruột. Liều dùng mỗi ngày 10 – 15g sắc nước uống có thể dùng đến 30g một ngày.
Để chữa đau đầu, thái lát củ khoai dái tươi, dán vào hai bên thái dương.
Để dùng ngoài, lấy khoảng 20 – 30g củ dài hoặc thân rễ (củ dưới đất) tươi, cạo bỏ vỏ, giã nát, vắt lấy nước uống, bã đắp vào chỗ sưng tấy, mụn nhọt, rắn cắn, chó dữ cắn.
Củ dái và củ dưới đất có độc, nhưng gọt sạch vỏ, ngâm nước và rửa nhiều lần rồi luộc kỹ thì chất độc bị loại bỏ đi và có thể ăn được. Bột khoai trời cũng tương tự như bột ngũ cốc và bột gạo.
-Ở Indonesia, dái củ được dùng chữa đau bụng, củ (thân rễ) được dùng chữa viêm hạnh nhân, áp xe, sưng phồng và để chống độc; toàn cây để lợi sữa [Med. herb index, 1995: 287].
-Nhân dân vùng phía Tây đảo New Guinea (thuộc Indonesia) dùng khoai trời để chữa ia chảy (Holdsworth, 2001).
-Ở Ấn Độ, khoai dái và củ dưới đất có vị đắng, cay nồng được dùng tươi, giã nát, đắp để chữa lở loét ngoài da; có thể phơi khô, tán bột, rắc lên chỗ lở loét (củ của cây mọc hoang được coi là có tác dụng tốt hơn). Dùng trong (thường dùng dái củ) phối hợp với thìa là, đường, sữa để trị trĩ, giang mại, lỵ. Bột dái củ có tác dụng sẵn se, được dùng chữa ia chảy; thường lấy bột chế thành viên để uống [Chopra et al., 2001: 97; Nadkarni, 1999: 450]. Còn được dùng làm mạnh dạ dày, làm ăn ngon, trị khó tiêu, đau bụng, lợi tiểu, chữa đái són [Kirtikar et al., 1998, IV: 2486].
Bài thuốc có khoai trời
Chữa bướu cổ, sưng tuyến giáp:
Lấy 200g củ đã gọt vỏ, thái lát, phơi khô, ngâm với 1 lít rượu trắng trong ít nhất một tuần. Chiết lấy nước, mỗi lần uống một chén con (30ml), ngày 3 lần. Có thể dùng củ khoai trời, gan vỏ, thái lát, phơi khô, tán bột, mỗi ngày uống 15g bột chia làm 2 – 3 lần [Chang, 1992: 225].
Chữa các loại ung thư:
Ung thư trực tràng, ung thư tim, ung thư dưới thực quản (trong đó có ung thư dạ dày), ung thư cổ tử cung, ung thư vú: lấy 500g củ khoai trời đã thái thành lát mỏng, rửa với 1500ml rượu, năm chặt các lát khoai trời lại, rồi lấy bột thạch cao trộn với nước, đắp kín bên ngoài, vùi vào tro nóng đỏ (tro của vỏ hạt kê) trong hai giờ. Sau đó ngâm các lát khoai trời với 1 lít rượu hoặc nước sôi để nguội trong 7 ngày. Lọc lấy nước uống mỗi ngày 50 – 100 ml chia làm nhiều lần trong ngày, mỗi lần uống một ít [Tài liệu đã dẫn].
Nguồn: https://tracuuduoclieu.vn/khoai-troi.html
Nơi mua bán vị thuốc Hoàng dược tử (Khoai trời) đạt chất lượng ở đâu?
Trước thực trạng thuốc đông dược kém chất lượng, nguồn gốc không rõ ràng,... xuất hiện tràn lan trên thị trường, làm ảnh hưởng tới hiệu quả điều trị cũng như ảnh hưởng tới sức khỏe của bệnh nhân.
Việc lựa chọn những địa chỉ uy tín để mua thuốc đông dược là rất quan trọng và cần thiết. Vậy khách hàng có thể mua vị thuốc Hoàng dược tử (Khoai trời) ở đâu? Hoàng dược tử (Khoai trời) là vị thuốc nam quý, được sử dụng rộng rãi trong YHCT.
Hiện tại hầu hết các cửa hàng thuốc đông dược, phòng khám đông y, phòng chẩn trị YHCT... đều có bán vị thuốc này.
Tuy nhiên người mua nên chọn những địa chỉ có uy tín, đảm bảo chất lượng, có giấy phép hoạt động để mua được vị thuốc đạt chất lượng.
Với mong muốn bệnh nhân được sử dụng những loại dược liệu đúng, chất lượng tốt .
+ Khách hàng có thể mua trực tiếp 090 514 6565
+ Mua trực tuyến: Thuốc được chuyển qua đường bưu điện. Khi nhận được thuốc khách hàng thanh toán tiền.
Tài liệu tham khảo: Từ điển Cây thuốc Việt Nam, Hoàng Dược Tử, trang 1207 tập II. Và tổng hợp từ các nguồn
Minh Tuệ