;
Đúng như trong kinh đã nói: “Đức Như Lai dùng tâm vô tận đại bi thương xót chúng sinh trong ba cõi mà xuất hiện nơi đời, xiển dương giáo pháp vì muốn cứu vớt quần mê, đem lại lợi tích chân thật cho chúng sinh”. Lợi ích chân thật cứu kính mà đức Thế Tôn đem lại cho chúng sinh là dứt trừ cội gốc sinh tử luân hồi từ vô lượng kiếp, đưa chúng sinh đến Niết Bàn bỉ ngạn, nhanh chóng thành Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.
Nhưng chúng sinh ở cõi Sa Bà cấu nhiễm sâu nặng mê thất bản tâm, tham đắm vui chơi ở trong nhà lửa mà ngăn chướng thánh đạo. Đức Thế Tôn sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, trong khoảng 21 ngày vì 41 vị pháp thân Đại sĩ và hàng thiên long bát bộ có túc thế thiện căn thuần thục mà diễn thuyết kinh Hoa Nghiêm, các bậc đại Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền v.v… đều lĩnh giải mà được lợi ích giải thoát, còn các hàng Thanh văn và Bồ tát sơ phát tâm thì không nghe, không thấy như điếc như ngây.
Khi ấy đức Thế Tôn suy nghĩ rằng: “Giáo pháp của ta thậm thâm vi diệu khó hiểu khó biết, hết thẩy chúng sinh bị trói buộc ở pháp thế gian, tham đắm năm dục cho nên không sao hiểu nổi, chẳng bằng cứ an nhiên nhập Niết Bàn là hơn cả”.
Khi ấy Phạm Vương và Đế Thích cung kính thỉnh đức Thế Tôn trụ thế, vì chúng sinh cõi Sa Bà mà chuyển bánh xe pháp. Sau ba lần cầu thỉnh, đức Phật im lặng hứa khả. Ngài liền nhập định để quán xét căn cơ của chúng sinh xem ai có thể tiếp thụ được giáo pháp thì sẽ độ cho. Ngài liền đến vườn Lộc Uyển xứ Ba La Nại, vì năm anh em ông Kiều Trần Như mà chuyển đại Pháp luân, thuyết giảng giáo pháp Tứ Đế.
Đức Thế Tôn giảng kinh thuyết pháp là tùy theo căn tính cao thấp khác nhau của chúng sinh, tùy bệnh mà cho thuốc, phương tiện lập ra năm thừa để mà tiếp dẫn. Thời A hàm, trước vì chúng sinh căn thính thấp kém mà giảng pháp Tứ Đế, Mười Hai Nhân Duyên, Lục Độ v.v… đó là quyền giáo Tam thừa. Đến thời kỳ Phương Đẳng thì phê phán Tiểu thừa chấp “Pháp”, thời Bát Nhã thì loại bỏ chấp ngã (ngã pháp đều không) trải hơn 40 năm đến hội Pháp Hoa mới khai quyền hiển thực, hội quy Tam thừa về Nhất Phật thừa. Một đời giáo hóa của đức Phật được chia thành năm thời tám giáo, nên nói: "tùy chúng sinh tâm ứng sở tri lường" (tùy theo tâm của chúng sinh mà đáp ứng những sự hiểu biết cần thiết, thích hợp).
Đức Thế Tôn trong quá trình giáo hóa, điều phục những chúng sinh có duyên với Phật pháp, Ngài quán sát thấy căn tính của chúng sinh đã dần thuần thục, có thể gánh vác được đại pháp xuất thế, Ngài liền tuyên dương bản hoài đó là giảng thuyết pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ. Kinh A Di Đà là pháp vô vấn tự thuyết, chỉ thẳng Tây Phương Tịnh độ, được hướng tới bậc trí tuệ đệ nhất - Xá Lợi Phất để giới thiệu, điều này ngầm chỉ đương cơ của pháp môn Tịnh độ phải là bậc thượng căn lợi trí, người có trí tuệ nông cạn khó có thể đảm đương, tin sâu mà không nghi ngờ.
Vậy pháp môn Tịnh độ chiếm vị trí nào trong giáo pháp của đức Phật? Như mọi người đều biết kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa là Nhất thừa viên giáo. Kinh Hoa Nghiêm được công nhận là vua của các kinh, song điều cốt lõi của thâu tóm toàn bộ kinh Hoa Nghiêm là sản phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện; điều cốt lõi của phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện là ở chỗ Bồ tát Phổ Hiền dùng 10 đại nguyện dẫn quy về thế giới Tây Phương Cực lạc.
Có thể nhận thấy Hoa Nghiêm và Tịnh độ là hết sức thậm thâm vi diệu. Trong kinh Pháp Hoa có kệ rằng: "Nhất xưng Nam mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo". Nghĩa là chỉ cần xưng một câu Nam mô Phật đều tạo nhân duyên thành Phật đạo. Tịnh độ là chỉ cho phương pháp chuyên trì danh niệm Phật vãng sinh Cực Lạc ắt sẽ thành Phật. Đại Sư Ngẫu Ích tán thán rằng: “Hoa Nghiêm áo tạng, Pháp Hoa bí tủy, hết thảy tâm yếu của chư Phật, kim chỉ nam của Bồ tát vạn hạnh, đều xuất phát từ đó”.
Hoa Nghiêm là toàn viên, Pháp Hoa là thuần viên, áo tạng và bí tủy của nó đều không ra ngoài pháp môn Tịnh độ, điều đó chứng tỏ Tịnh độ tông là pháp môn viên đốn lại. Vả lại Hoa Nghiêm và Pháp Hoa tuy viên đốn lại phương tiện, chỉ cần trì danh niệm Phật, liền có thể viên thành đạo nghiệp. Như ngài Liên Trì Đại sư nói: "Việt tam kỳ vu nhất niệm, tề chư Thánh vu phiến ngôn”, nghĩa là một niệm tịnh tín thể nhập vào bể đại nguyện của Phật Di Đà có thể siêu việt công hạnh tu tập trong ba đại A Tăng Kỳ kiếp; chấp trì 6 chữ hồng danh Nam Mô A Di Đà Phật (phiến ngôn) liền có thể công đức trí tuệ ngang bằng với chư đại Bồ tát Quán âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền...
Như vậy, pháp môn Tịnh độ vừa phương tiện vừa cứu cánh, có thể nói là pháp liễu nghĩa bậc nhất trong các pháp liễu nghĩa, là pháp cực kỳ viên đốn trong các pháp viên đốn.
Tịnh độ Tông thu nhiếp và siêu việt một cách viên mãn hết thẩy các pháp môn. Một câu A Di Đà Phật gồm đủ cả 4 câu tông chỉ:
1. Lấy duy tâm làm Tông (toàn tâm tức Phật)
2. Lấy duy vật làm Tông (toàn tâm tức Phật) .
3. Lấy tuyệt đãi viên dung làm Tông (ngoài tâm không có cảnh là tuyệt đãi - dứt bặt đối đãi tâm chúng sinh và tâm Phật dung nhiếp lẫn nhau là viên dung).
4. Siêu tình ty kiến làm Tông (vượt bỏ phàm tình, lìa bỏ thánh kiến).
Phật pháp có vô lượng pháp môn, nhưng chúng quy không ngoài 4 môn đó là: Hữu môn, Không môn, Diệc hữu diệc không môn và Phi hữu phi không môn. Điều này chứng tỏ Tịnh độ Tông thu nhiếp hết thảy các pháp môn một cách viên mãn. Lại thấy Tông duy tâm viên siêu hữu môn; Tông duy Phật viên siêu không môn; Tông tuyệt đãi viên siêu diệc hữu diệc không môn; Tông siêu tình ly kiến viên siêu phi hữu phi không môn. Điều đó chứng tỏ Tông tịnh độ điêu việt một cách viên mãn hết thảy các pháp môn.
Mặt khác chính viên thu lại viên siêu, chính viên siêu lại viên thu; siêu việt thu nhiếp đồng thời không ngăn ngại. Tất cả những điều đó càng chứng tỏ một câu A Di Đà Phật thu nhiếp, siêu việt hết thảy các pháp môn một cách viên mãn, là pháp môn đại tổng trì của 12 bộ kinh, cao sâu khó tin chẳng thể nghĩ bàn.
Đại sư Thiện Đạo với đầy đủ tuệ nhãn đã từng chỉ dạy: "Đức Như Lai sở dĩ xuất hiện nơi đời chỉ vì thuyết minh bản nguyện rộng sâu của đức Phật A Di Đà". Câu nói ấy khai thông lỗ tai cho kẻ điếc, mở con mắt cho kẻ mù lòa, phát khởi; những điều chưa từng được phát khởi, tất cả nhằm chỉ rõ: Đức Thích Ca Như Lai (cho đến mười phương ba đời hết thảy chư Phật) thị hiện ở thế gian chỉ nhằm một mục đích duy nhất là tuyên thuyết pháp môn niệm Phật.
Câu nói đó không phải người tầm thường có thể chỉ ra được. Trong Tây Phương lược truyện tôn xưng ngài Thiện Đạo là hoá thân của Phật Di Đà, Đại sư Liên Trì thì nhận định: "Đại sư Thiện Đạo được mọi người tôn xưng là hóa thân của Phật Di Đà, nếu chẳng phải là hóa thân của Phật Di Đà thì cũng là hóa thân của các Đại Bồ tát như Quán âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền v.v…”
Đại sư Ngẫu Ích cũng từng nói: "Một câu A Di Đà Phật chính là pháp Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác mà đức Thích Ca chứng đắc ở nơi đời năm ác trược này, nay lấy quả giác ấy trao lại toàn thể chúng sinh đời ác trước. Còn như cảnh giới của chư Phật, chỉ có Phật với Phật mới có thể hiểu thấu cùng tận, chẳng phải sức của chúng sinh trong chín cõi có thể hiểu được”. Ẩn ý trong lời khai thị của Đại sứ Ngẫu Ích với lời minh thị của Đại sư Thiện Đạo là không hai không khác, cái thấy biết của bậc thánh nhân tuy ở thời khác nhau nhưng cũng rất trùng hợp, thật đáng để chúng ta chắp tay tuân phục.
Như trên có thể thấy Tịnh độ tông chiếm vị trí trung tâm trong toàn bộ giáo pháp của đức Phật, là giáo lý liễu nghĩa thâu tóm toàn bộ giáo nghĩa trong Đại tạng giáo, chỗ tu hành chứng quả của nó là chỗ hội quy của tam thừa Phật pháp.
Như Đại sư Ấn Quang nói: "Pháp môn Tịnh độ rộng lớn không gì ngoài nó, khắp lợi ba căn, thu nhiếp thượng căn hạ trí. Chúng sinh trong chín cõi bỏ pháp môn này thì không lấy gì để viên thành Phật đạo; Mười phương chư Phật lìa pháp môn này thì không lấy gì phả độ quần mê. Hết thảy pháp môn đều từ pháp giới đó lưu xuất hết hành hành môn đều trở về với pháp giới đó”.
Người ta nếu có thể thể nhận sâu sắc địa vị trung tâm của pháp môn Tịnh độ trong giáo pháp của chư Phật sẽ phát sinh tín niệm sâu sắc pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ.
Nguồn tinhdo.net