;
>Ý nghĩa và hướng dẫn thực hành pháp tu trì lục độ Phật mẫu Tara
Nhân dịp này, Drukpa Việt Nam xin đăng tải lại bài
giảng về Kim Cương thừa trong mối quan hệ với Tam thừa Phật giáo và ý nghĩa của
Đức Phật A Di đà do bậc Toàn tri Tôn quý, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa,
thuyết giảng tại chùa Phổ Quang, TP Hồ Chí Minh nhân chuyến viếng thăm hoằng
pháp 2010 của Ngài và Tăng đoàn Truyền thừa tại Việt Nam.
ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
Chủng tử tự: SHRI
Tâm chân ngôn:
OM AH MI DEWA SHRI
Đức Phật Amitabha có nghĩa là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ,
Tiếng Việt gọi là Phật A Di Đà, trong Mandala ngài an trụ ở phương Tây và an tọa
trên bảo tòa Khổng Tước vương nêu biểu sự giác tỉnh cùng khả năng chuyển hoá
phiền não, đầy đủ các màu sắc, minh tuệ. Sắc thân màu đỏ nêu biểu lòng Đại bi,
tướng thanh tịnh của hỏa đại, tay Ngài kết ấn đại định (định ấn là ngón út, ngón đeo nhẫn, hai ngón giữa giao
nhau) nêu biểu 6 đại vô ngại, phương Tây là phương trí tuệ nội chứng. A Di Đà
là nghĩa chuyển Pháp luân thuyết pháp của Trí
tuệ Diệu Quan Sát lợi ích các loại căn cơ chúng sinh.
Tu trì chân ngôn Di Đà có khả năng chuyển tưởng uẩn, ý thức thành Diệu Quan Sát Trí; chuyển hóa những tham nhiễm, chấp trước thành đại nguyện vị tha và chứng đắc thành tựu Báo thân Phật A Di Đà.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ niềm tri
ân sâu sắc tới quý Hòa thượng, Thượng tọa, chư Đại Đức Tăng Ni, cùng toàn thể
quý vị Phật tử gần xa. Tôi xin được giới thiệu một chút về các vị Rinpoche
trong Tăng đoàn Drukpa viếng thăm Việt Nam lần này, và sau đó tôi xin giảng về
ba ngôi Tam Bảo. Rất nhiều người trong số quý vị hiện diện nơi đây năm ngoái đã
cùng với chúng tôi chia sẻ giáo pháp, nên tôi không cần phải nói nhiều về Truyền
thừa của mình. Tuy thế, tôi cũng nhìn thấy nhiều khuôn mặt mới, nên sẽ giới thiệu
ngắn gọn về Truyền thừa Drukpa. Truyền thừa Drukpa thuộc truyền thống Kim Cương
thừa, nhưng về pháp môn tu tập thì thực hành kết hợp ba thừa. Tôi nhớ năm ngoái
đã từng nói rõ rằng: Kim Cương thừa không thể tồn tại nếu không có nền tảng của
Đại thừa. Đại thừa không thể tồn tại nếu không có Nguyên thủy Phật giáo. Cho
nên mỗi thừa trong ba thừa không thể tự tồn tại riêng biệt. Ba thừa phải kết hợp
cùng nhau, cho dù tu theo bất cứ Truyền thừa nào, bạn cũng cần hiểu rằng: Trong
sự thực hành của bạn đều cần kết hợp cả ba thừa. Kim Cương thừa thực sự là một
nhánh thuộc Đại thừa Phật giáo, cho nên không thể đứng độc lập với hai thừa
kia. Tôi xin chia sẻ kỹ hơn trong buổi chiều nay và bây giờ xin giới thiệu về
các Ripoche thuộc Tăng đoàn Drukpa.
Trong
chuyến viếng thăm lần trước Tăng đoàn Truyền thừa có hai vị Rinpoche cao cấp là
Đức Nhiếp Chính Vương Khamtrul Rinpoche và Nhiếp Chính Vương Kunga Rinpoche.
Nhưng lần này, do Nhiếp Chính Vương Khamtrul Rinpoche bận việc Phật sự nên sau
ba ngày nữa Ngài mới tới Việt Nam. Còn Nhiếp Chính Vương Kunga Rinpoche thì vẫn
có mặt, Ngài đang ngồi trước quý vị, phía bên tay trái của tôi. Ngài là hoá
thân của một bậc Thầy vĩ đại trên dãy Himalaya thuộc truyền thống Kim Cương thừa.
Trong Hiển giáo không có truyền thống về sự hoá thân của các Bậc thầy, hay nói
cách khác không có truyền thống đi tìm hoá thân của các Bậc thầy vĩ đại. Còn
trong Kim Cương thừa, chúng tôi có truyền thống tìm lại hoá thân các Bậc thầy của
mình. Tất cả chúng tôi đều vâng theo quy luật này, vì đây là những yếu tố để
làm lợi lạc cho sự phát triển của Phật pháp, hay giúp duy trì Truyền thừa không
gián đoạn. Hiện nay có rất nhiều các Bậc thầy vĩ đại như thế, vì vậy tôi vui
mừng giới thiệu ngài Kunga Rinpoche tới quý vị. Kế đến tôi xin hân hạnh giới
thiệu một vị thành tựu giả về Thiền định, Ngài Dropon là vị đại diện của Truyền
thừa Drukpa tại chín quốc gia ở châu Âu. Đây là một duyên lành hy hữu, chúng ta
được cung đón Ngài tới Việt Nam. Nhân đây tôi xin giới thiệu một chút về Truyền
thừa Drukpa. Truyền thừa Drukpa được truyền không gián đoạn từ đức Phật Thích
Ca Mâu Ni tới các bậc Thầy giác ngộ liên tục cho tới ngày nay. Truyền thừa
Drukpa được khai sáng bởi Đức Pháp Vương Tsangpa Gyare đời thứ nhất, Ngài là
hoá thân của Đại thành tựu giả Naropa, một Đại Thượng sư chứng ngộ tại Ấn Độ gần
1000 năm trước.. Truyền thừa Drukpa là sự kết hợp giáo lý của cả Tam thừa, gồm
Nguyên thủy, Đại thừa và Kim Cương thừa. Trong dòng Truyền thừa hiện nay có rất
nhiều hoá thân chuyển thế của Bậc thầy giác ngộ. Đây là Truyền thừa áo vải, tức
là Truyền thừa của sự chứng ngộ Thiền định. Chúng tôi đang nỗ lực trì giữ và
phát triển rộng khắp không phải chỉ trong đời này, mà trong vô số kiếp về sau
và vô số kiếp về trước. Chúng tôi cố gắng giữ gìn năng lượng Thiền định được
trao truyền từ thời Đức Phật cho đến ngày nay. Đó là ý nghĩa của Truyền thừa
không gián đoạn.
Nói đến
“Truyền thừa” có nhiều nghĩa: “Truyền thừa huyết thống” như ông, cha, con, hay
“Truyền thừa Giáo Pháp” là hệ thống giáo lý được truyền không gián đoạn từ thời
Đức Phật, trải qua các đời Tổ, cho đến các bậc Thầy ngày nay. Riêng ở
truyền thừa Drukpa, chúng ta đặt niềm tin vào sự gia trì của Truyền thừa thuộc
trạng thái tâm Thiền định. Không phải chỉ người xuất gia, mà những Phật tử tại
gia đều có thể trì giữ, và phát triển Truyền thừa Thiền định từ thời Đức Phật.
Thiền định dựa trên cơ sở khẩu truyền trực tiếp. Khẩu truyền trực tiếp vô cùng
cần thiết, để bảo trì cho Truyền thừa Thiền định thanh tịnh không gián đoạn.
Nói về Thiền định, chúng ta có trường phái thiền Nguyên thủy, thiền Đại thừa và
thiền Kim Cương thừa. Trong Kim Cương thừa có tám loại Thiền khác nhau. Tôi muốn
giới thiệu với các vị về Thiền và kỹ thuật của thiền Mật Thừa. Có thể có câu hỏi
về sự khác biệt giữa ba Thừa, hay ba trường phái thiền định. Đó cũng là lý do tại
sao chúng ta cần thực hành cả ba, chứ không phải chỉ là hai hay một trong ba
trường phái. Chúng ta cần thực hành cả Tam Thừa, vì mỗi thừa có một số kỹ
thuật đặc trưng riêng. Đây cũng là lý do mà Đức Phật đã thuyết ra Tam Thừa, để
phù hợp với từng căn cơ trình độ của hàng đệ tử.
Bây giờ
tôi xin nói về ý nghĩa của Tam Bảo. Chúng ta Quy y Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
giáo pháp của Ngài gồm đủ cả Tam thừa, những hành giả thực hành Tam thừa là
Tăng già. Như thế chúng ta có Phật, Pháp, Tăng, ở mỗi thừa tuy quan kiến hơi
khác nhau, nhưng cả ba thừa đều được truyền dạy từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đức
Phật Thích Ca là Bậc thầy duy nhất, giảng dạy tất cả giáo pháp gồm đủ Tam thừa.
Trong hệ thống giáo lý Nguyên thủy, Đức Phật chủ yếu giảng bằng tiếng Pali; một
số giáo pháp của Đại thừa cũng được giảng tiếng Pali. Hầu hết giáo lý của Mật
thừa được giảng bằng tiếng Phạn, một phần lớn giáo pháp của Đại thừa cũng được
giảng bằng tiếng Phạn. Tuy nhiên, tất cả đều là giáo pháp được giảng dạy từ Đức
Phật Thích Ca. Nói chung, ở Việt nam có hai thừa chính là Đại thừa và Nguyên
thủy. Đây là hai thừa phổ thông của Phật giáo. Kim Cương thừa là một nhánh thuộc
Đại thừa Phật giáo. Nguyên thủy Phật giáo được giảng dạy ở Varanaisi Ấn Độ.
Ngày nay nếu đến Varanasi, chúng ta không còn thấy bất kỳ một dấu tích Phật
giáo nào ở đó nữa; dường như đã cải đạo sang đạo Hindu hay đạo Hồi, chẳng còn
thấy một người nào theo Phật giáo. Đây là điều đáng buồn, cho nên chúng ta cần
phải nỗ lực tu tập để phát triển thiền định và các phương tiện thiện xảo truyền
giảng giáo pháp tinh túy của hai thừa. Kỹ thuật thiền định và truyền giảng rất
quan trọng, vì đây là hai nền tảng quan trọng chúng ta cần giữ gìn và phát
triển.
Việt Nam
là đất nước có chiều dài lịch sử Phật giáo hơn hai nghìn năm, nên người Việt
Nam có trách nhiệm rất lớn trong việc trì giữ giáo pháp của Đức Phật, trì giữ
các kỹ xảo thiền định, trì giữ từ bi và trí tuệ. Chúng ta cũng cần trân trọng
những duyên lành mà mình đang có, chúng ta cần phải trân trọng trách nhiệm của
mình, về việc bảo vệ và phát triển giáo lý đạo Phật, để lợi ích chúng sinh. Lợi
ích chúng sinh chính là căn bản của Phật
giáo Đại thừa. Căn bản của Phật giáo
Nguyên thủy là không làm bất kỳ điều gì tổn hại ai. Đây là hai điểm mấu chốt của
giáo pháp Đức Phật. .
Nếu loài
người không ai hãm hại ai, tất cả đều thực hành hai giáo lý Phật pháp căn bản
trên, đều tương thân tương ái giúp đỡ nhau thì thế giới này sẽ trở nên an bình
hạnh phúc biết bao. ,. Chúng ta được sinh trong thân người quý giá nên có trách
nhiệm lớn lao phải chuyển hoá thế giới này thành một thế giới toàn hảo đối với
từng cá nhân. Đây là điều đáng được trân trọng, cần hiểu đúng và được thực
hành. Trong Phật giáo chúng ta không tin vào sự cải đạo, đó là lý do tại sao Phật
giáo từng được phát triển một cách rất tự nhiên không ép buộc tại nhiều quốc
gia như Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Miến Điện…,. Đạo Phật không ép buộc
mọi người cải đạo vì quan kiến Phật giáo là sống hòa bình trong giáo lý của Đức
Phật và trong sự hiểu biết, tôn trọng với các tôn giáokhác. Còn trong lịch sử
các tôn giáo khác đôi khi lại có truyền thống ép người cải đạo, điều này đã xẩy
ra trong lịch sử tại Indonesia hay Malaysia, do đó mà hiện nay các quốc gia này
còn rất ít người theo đạo Phật. Tại khu vực Đông Nam Á lúc này Đạo Phật chỉ còn
hưng thịnh ở các quốc gia như Việt Nam, Thái Lan và một số nước khác. Đặc
biệt, tại Việt Nam chúng ta có sự nâng đỡ ủng hộ của chính phủ trong việc phát
triển tâm linh, thế nên các bạn có rất nhiều điều kiện tốt để bảo vệ phát triển
giáo pháp của Đức Phật vì lợi ích của mỗi người và hết thảy hữu tình..
Vì sao
chúng ta không tin vào sự cải đạo? Bởi vì giáo pháp của Đức Phật đem lại kết quả
tự do tín ngưỡng cho mọi người. Con đường để thực hành tự do và ý tưởng tự do
đều dựa trên sự tự do của mỗi cá nhân, nên Đức Phật không ép buộc bất kỳ
ai, hoặc dùng bất kỳ phương pháp nào để bắt họ đổi đức tin. Hãy để họ tự do lựa chọn tín ngưỡng của mình,
đó là thông điệp chính của Đức Phật. Rất tiếc, thông điệp cao cả này đã không
được áp dụng một cách đúng đắn, cho nên rất nhiều sự cải đạo đã diễn ra ở nhiều
nơi, thậm chỉ trên cả phạm vi quốc gia chứ không chỉ cho một nhóm người. Trong khi họ đang cố gắng vận động cải đạo,
thì chúng ta cũng trải qua rất nhiều khó khăn trong sự thực hành giáo lý của Đức
Phật và giữ gìn truyền thống thiền định. Bởi vậy, mỗi chúng ta cần hết sức tôn
trọng cuộc sống của chính mình, một cuộc sống vô cùng quí giá. Để giải thoát
cho hết thảy chúng sinh, mang lại hòa bình vững bền và chân thật, từng quốc gia
cần những phương pháp cụ thể. Phương pháp của sự hiểu biết và tình yêu thương
là những giáo lý của Đức Phật đã được luận giải một cách sâu sắc. Đó cũng là
trách nhiệm của người Phật tử Việt Nam, đất nước có truyền thống lịch sử hàng
ngàn năm gắn liền với sự phát triển hưng thịnh của Đạo Phật.
Chúng ta
chia sẻ thêm về ba thừa, về đặc trưng và tinh túy trong giáo lý của ba thừa.
Giáo lý của Nguyên thủy Phật giáo là Tứ Diệu Đế. Tất nhiên, đây không phải là
giáo lý riêng của Nguyên thủy mà là giáo pháp vô cùng thâm diệu được Đức Phật
truyền giảng ở vườn Lộc Uyển, là một phần quan trọng trong toàn bộ kho tàng
Giáo pháp. Theo quan kiến Đạo Phật chúng ta có bốn chân lý cao quý: Khổ đế (khổ
đau của thế giới), Tập đế (nguyên nhân của sự đau khổ), Diệt đế (sự giải thoát)
và Đạo đế (con đường dẫn đến giải thoát). Bốn chân lý này rất dễ hiểu, là nền tảng
căn bản mà người Phật tử phải nắm hiểu tường tận. Trong truyền thống Đại thừa
Phật giáo, và đặc biệt là trong quan kiến của Kim Cương thừa, bốn chân lý này
được phát triển luận giải một cách vô cùng sâu xa. . Theo đó, các xúc tình phiền
não như vô minh, tham dục, kiêu man, tật đố đều cùng là tác nhân dẫn đến khổ
đau luân hồi. Đây là những gì Đức Phật thường giảng chung, đặc biệt được nhấn mạnh
hơn trong Kim Cương thừa. Sự khác biệt là quan kiến về vai trò của bản ngã.
Theo Kim Cương thừa miêu tả thì bản ngã là sự vô minh hay hiểu biết một cách
sai lầm. Ví dụ, chúng ta có thể hiểu những gì chúng ta thấy, chúng ta nghe.
Nhưng chúng ta không thể hiểu được bí mật của vạn pháp. Vì thế chúng ta trở nên
bám chấp mạnh mẽ vào những gì mình thấy nghe. Điều này trong Phật giáo gọi là
hiểu biết sai lầm, trong Kim Cương thừa gọi là bản ngã hay vô minh. Vô minh là
một trong bốn phiền não chính (vô minh, sân hận, tham dục, kiêu mạn). Đó cũng
là lý do tại sao vô minh là nguyên nhân sinh khởi tất cả các xúc tình tiêu cực.
Điều này rất dễ hiểu. Ví dụ chúng ta thường sân với một ai đó vì tin chắc rằng
người đó đã nói lên hay đã thực hiện hành vi gì sai trái. Kết quả của sự giận dữ
là tâm chúng ta đau khổ, rồi dẫn đến khổ đau của thân xác, khiến chúng ta ốm yếu,
hoặc huyết áp cao, tất cả bởi phiền não giận dữ gây nên. Như vậy nguyên nhân
của sự giận dữ là do chúng ta tin vào những gì mình thấy nghe. Nếu không muốn
thân tâm mình đau khổ thì chúng ta phải giảm bớt sân giận.
Vậy cần
làm gì để giảm bớt sân giận? Chúng ta cần giảm bớt sự tin tưởng vào những gì
mình thấy nghe. Nếu thấy nghe điều gì đó, chúng ta nên quán chiếu đó chỉ là những
hình ảnh hay âm thanh do tâm ta tự biến ra. Đức Phật Thích Ca dạy chúng ta
không nên tin chúng. Nếu cố chấp tin tưởng thì có nghĩa chúng ta đang bị vô
minh chi phối, chúng ta đang nuôi dưỡng độc vô minh trong sự tin tưởng của
mình. Hãy đừng tin tưởng, mà để yên chúng tự tan trong tính Không. Con đường
chung của sự hiểu biết tức là con đường Trung đạo. Trung đạo là con đường chân
thật và là tri kiến cốt tủy của Đại thừa và Mật Thừa. Chúng ta cần phải giảm bớt
giận dữ vì chúng làm ảnh hưởng đến sức khỏe của mình. Để làm được điều này, bạn
cần phải tìm nguyên nhân của chúng. Nguyên nhân là do chúng ta tin tưởng vào sự
thấy nghe của mình, thế nên chúng ta phải tìm cách trở về taính Không, về lý
Trung đạo, đừng tin tưởng vào bất kỳ điều gì mà chúng ta thấy nghe, đó là
phương pháp căn bản để giảm bớt giận dữ.
Ngài Long
Thọ, một bậc Thầy vĩ đại của truyền thống Đại thừa đã trình bày tri kiến của
Ngài về quan điểm Phật giáo là không tin tưởng vào những gì mình thấy nghe.
Đây là giáo lý vô cùng sâu sắc của Đức Phật mà chúng ta cần phải hiểu và phải
thực hành như Giáo pháp căn bản của Đại thừa và Kim Cương thừa. Điều tôi đang cố
gắng giảng giải ở đây là tại sao chúng ta lại sân giận, tật đố, kiêu căng. Khi
những xúc tình này hiện khởi chúng ta cần biết chúng từ đâu tới. Đó chính là
giáo pháp mà Đức Phật đã dạy trong cả Tam Thừa. Tìm hiểu xem các xúc tình này đến
từ đâu là phương pháp vô cùng quan trọng.
Trên thế
giới này rất nhiều người tin rằng: mọi khổ đau hay hạnh phúc của con người đều
bắt nguồn từ Đấng Sáng tạo. Đạo Phật không tin như thế, mà tin vào Nghiệp, tin
vào nhân quả. Nhân của khổ đau là tham, sân, si. Quả là cõi luân hồi thống khổ.
Đây là đức tin của đạo Phật, cho nên chúng ta cần phải có trách nhiệm với toàn
bộ cuộc sống của mình. Chúng ta không thể trốn chạy khỏi nhân quả mà mình đã tạo
ra, nên cần thận trọng với nhân quả của chính mình. Đức Phật Thích Ca dạy rằng:
sứ mệnh của Ngài là chỉ có thể chỉ ra con đường giúp chúng ta trở thành người tốt,
hay con đường chấm dứt khổ đau. Phần còn lại chúng ta phải tự mình lo liệu,
chúng ta phải có trách nhiệm với chính cuộc đời mình, có trách nhiệm với nhân
quả của chính mình, như thế là cách tốt nhất giúp bạn tự do giải thoát. Chúng
ta sẽ không nương tựa vào bất kỳ ai khác thậm chí cả Đức Phật, chỉ nương theo
giáo pháp Ngài hướng dẫn, là con đường chân chính ta phải đi theo. Bạn hoàn
toàn tự do lựa chọn con đường nào thích hợp với mình, như con đường Nguyên thủy,
Đại thừa, hay Kim Cương thừa, Bạn đang ở trên mảnh đất của tự do, bạn có thể tự
do chọn lựa con đường tốt nhất, phù hợp với mình, để có thể chấm dứt khổ đau.
Tôi tin chắc rằng chúng ta cần tự do giải thoát, chúng ta cần sự hướng đạo. Nếu
không có sự hướng đạo chắc chắn, chúng ta không có tự do giải thoát chân thật.
Bởi thế, sự hướng đạo của Đức Phật là vô cùng cần thiết. Ngài muốn hướng dẫn
chúng ta con đường để giải thoát. Sự tự do tạm thời và sự tự do tuyệt đối, thuật
ngữ trong Phật giáo gọi là Chân đế và Tục đế.
Khi nói về
thế giới này, có rất nhiều sự thật tương đối và sự thật tuyệt đối. Tương đối tức
là cần hiểu làm thế nào để sống tự do an lạc ngay tại thế giới vật chất này.
Tuyệt đối nghĩa là làm thế nào giải thoát khỏi khổ đau và nhân của đau khổ.
Chúng tôi muốn nói kỹ hơn một chút về quan kiến của Kim Cương thừa. Trên thực tế, cốt tủy giáo pháp
của Đức Phật trong các thừa Phật pháp không hề sai khác và Kim Cương thừa cũng
có cùng một quan kiến như hai Thừa còn lại. Điểm khác biệt giữa các thừa là ở
phương tiện và Kim Cương thừa sử dụng phương tiện thiện xảo để trực tiếp chuyển hoá giận dữ, ái
dục, vô minh, tật đố… thành trí tuệ. Tất cả những loại năng lượng của những xúc
tình tiêu cực, thông qua các phương tiện đều chuyển thành trí tuệ. Đó là sự
khác biệt duy nhất của Kim Cương thừa với hai thừa nói trên.
Phương tiện
thiện xảo này được thể hiện trong các giáo pháp quán đỉnh của Kim Cương thừa.
Hôm nay chúng ta có quán đỉnh A Di Đà và quán đỉnh Quan Âm.. Ví dụ pho tượng
trước mặt tôi là tượng Amitayus tức là Đức Phật Trường Thọ. Ngài chính là Đức
Phật A Di Đà trong hình tướng Báo thân. Trong Kim Cương thừa pháp tu của Đức
Phật A Di Đà thực chất là một phương pháp thực hành, nhằm chuyển hoá ái dục của
chúng ta. Ái dục thiêu đốt cuộc sống rất mạnh mẽ. Chúng ta tham muốn đủ mọi thứ
trong cuộc sống này như tham tiền, tham danh, tham sắc, tham ăn, tham hưởng thụ…
đó gọi là tham dục. Tham dục rất cần được chuyển hoá. Chỉ cần chuyển hoá chứ
không phải loại bỏ chúng. Nếu loại bỏ chúng, bạn sẽ trở nên khô khan, thiếu
sinh lực như một cây gỗ mục. Bởi thế, chúng ta cần pháp tu A Di Đà để giúp chuyển
hoá ái dục. Đây là phương tiện thiện xảo của Kim Cương thừa, không thấy nhắc đến
trong hai thừa trước. Đây cũng là điểm đặc trưng của Kim Cương thừa so với hai
thừa trên.
Tôi muốn
chia sẻ kỹ hơn về sự chuyển hoá ái dục. Nếu loại bỏ ái dục, bạn sẽ không còn tâm
muốn giúp đỡ mọi người, cứu độ chúng sinh, không muốn thực hành Bồ tát hạnh.
Như vậy, loại bỏ ái dục không phải là phương pháp thích hợp. Do đó, ái dục cần
phải được chuyển hoá và sử dụng một cách đúng đắn. Hiện tại chúng ta không chuyển
hoá được ái dục, bởi chúng ta không có sự gia trì của Đức A Di Đà, Đức Quan Âm,
hay Đức Phật Thích Ca, nên ái dục dẫn tới vô vàn khổ đau và rắc rối. Bởi thế rất
nhiều tôn giáo khác cho rằng ái dục là rất xấu, cần loại bỏ chúng, nhưng thật
ra ái dục không thể loại bỏ, mà cần chuyển hoá và sử dụng một cách chân chính.
Khi tôi nói sử dụng một cách chân chính, thật ra không đơn giản. Nói thì khá dễ
nhưng bắt tay vào thực hành thì không dễ. Tôi muốn nói rằng chúng ta cần phải
chuyển hóa ái dục thành trí tuệ.
Ví dụ sân
giận cần được chuyển hoá thành Diệu quan sát trí, theo danh từ thế gian gọi là
trí thông minh. Nếu thiếu loại trí tuệ này, bạn sẽ trở thành người ngu ngốc.
Ái dục cũng cần được chuyển hóa thành trí tuệ. Chuyện gì sẽ xảy ra khi ái dục
chuyển thành trí tuệ? Khi đó, chúng ta sẽ kiểm soát và sử dụng được nó, trợ
giúp cho những mục đích tốt, để lợi ích cho sự nghiệp giải thoát cứu độ chúng
sinh. Đó là việc sẽ xảy ra khi chúng ta chuyển hoá ái dục thành trí tuệ. Nếu
không chuyển hoá chúng, ta sẽ không có cơ hội, hoàn toàn bị nô lệ cho ái dục
và sẽ tạo rất nhiều ác nghiệp bởi ái dục đã chi phối chúng ta một cách lầm lạc.
Cũng thế, dù chúng ta biết sân giận là xấu, nhưng vì không được chuyển hoá nên
bị nó dẫn dắt. Chúng ta gào thét đánh đập và vô cùng hung dữ. Tuy biết là xấu
mà chúng ta không có chọn lựa nào khác, khi có sự chuyển hoá, nhờ sự thực hành
thì giận dữ không còn dẫn dắt, ngược lại chúng ta kiểm soát và làm chủ được
chúng. Vào lúc này, sân giận còn đang như một vị vua và chúng ta như những kẻ
nô lệ, những xúc tình như sân giận chỉ đạo chúng ta tạo rất nhiều bất thiện
nghiệp, nó thống trị toàn bộ cuộc đời chúng ta. Không những sân giận, mà ái dục,
tật đố, vô minh đều là những kẻ thống trị cuộc đời chúng ta. Vì thế toàn bộ cuộc
đời chúng ta trở thành sai lầm. Bởi thế, chúng ta cần học cách nhận diện, kiểm
soát, chuyển hóa và làm chủ những xúc
tình tiêu cực.
Như thế sự
thực hành trong Kim Cương thừa nhấn mạnh đến sự chuyển hoá, chứ không phải sự
đè nén hay nuôi dưỡng chúng. Chúng ta cần chuyển hoá các xúc tình, nên sự thực
hành này không phải là việc thờ cúng một đối tượng hay một người nào khác mà là
tiến trình chuyển hóa các xúc tình tiêu cực. Thông qua tiến trình này, chúng ta chuyển hoá mục đích ý nghĩa cuộc đời
mình để thực hành các thiện hạnh của bậc Bồ tát lợi ích bản thân và người khác,
điều đó cũng như thông qua việc phát Bồ đề tâm chúng ta trưởng dưỡng tình yêu
thương và chuyển hoá các xúc tình tiêu cực thành tuệ giác. Ví dụ ái dục chuyển
thành Diệu quan sát trí, sân giận chuyển thành Đại viên cảnh trí, vô minh chuyển
thành Pháp giới thể tính trí…rất nhiều trí tuệ ở trong nền tảng của tâm thức.
Như thế có thể nói việc thực hành Kim Cương thừa là phương tiện vô cùng hiệu quả giúp chúng ta chuyển hoá khổ đau một cách
tích cực.
Một bậc
Thầy vĩ đại nói rằng: Tất cả chúng sinh xưa nay là Phật, điều này cũng đã từng
được Đức Phật Thích Ca nhắc đến. Ngài còn dạy rằng: Luân hồi hay Niết bàn chỉ
là vấn đề ở vô minh hay trí tuệ. Vô minh là Luân hồi, Trí tuệ là Niết Bàn. Đức
Phật Thích Ca đã dạy rất rõ việc này. Kim Cương thừa cũng nói rằng: Trí tuệ vốn
sẵn có từ vô thủy nhưng chúng ta đã không nhận ra, không chứng ngộ, nên bị sử
dụng sai đường thành tham dục, giận dữ, tật đố, rồi dẫn dắt đến vô số khổ đau.
Vì vậy cần chuyển hoá chúng thành trí tuệ. Trí tụê vốn sẵn có xưa nay, đó là
cốt tủy của Kim Cương thừa. Trong Kim Cương thừa tin rằng: Chúng ta có thể trưởng
dưỡng Đức Phật bên trong chính mình, có thể tự tạo hạnh phúc cho chính mình,
không cần thiết phải lệ thuộc vào bất kỳ một thứ gì khác bên ngoài. Ngay chính
Đức Phật Thích Ca cũng nói rằng: đừng nương tựa vào Ngài.
Là những
hành giả Kim Cương thừa, chúng ta cần tin rằng: mọi thứ đều có thể được tạo ra
từ bên trong chính mình, vì chính chúng ta tạo nên mọi thứ. Khi bị ái dục chi
phối, chúng ta tạo nên bất thiện nghiệp hoặc thiện nghiệp. Vì thế chúng ta có
thể tự chuyển hoá, để tạo nên sự an lạc hạnh phúc cho chính mình. Chúng ta có
thể tự mình tránh các nhân đau khổ, đấy là niền tin của chúng ta. Cùng với niềm
tin tưởng như vậy, trong thực hành của Kim Cương thừa chúng ta kèm với việc
quán tưởng. Có rất nhiều loại quán tưởng như quán tưởng Đức A Di Đà, Quan Âm,
Liên Hoa Sinh. Rất nhiều cách quán tưởng khác nhau, nhiều Chân ngôn khác nhau,
nhiều khế ấn khác nhau, nhiều tư thế của thân khác nhau. Tư thế ngồi kết già được
gọi là tư thế của Đức Tỳ Lô Giá Na, như vậy có hàng trăm các kỹ xảo khác nhau,
nhưng kỹ xảo này rất cần thiết để nâng đỡ tâm chúng ta trong sự chuyển hoá.
Trong
Nguyên thủy Phật giáo chỉ nhắc đến một mình Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong Đại
thừa Phật giáo ngoài Đức Phật Thích Ca, còn nhắc đến chư Phật ba đời hay ngũ
phương Phật và rất nhiều các vị Bồ tát. Còn trong Kim Cương thừa không phải chỉ
có thế, mà còn vô số chư Phật khác nhau, như những Đức Phật trong hình tướng
nữ, hình tướng nam, vô số các vị Bồ tát như các hoá thần Daka, Dakini, Yogi,
Yogini…Bởi vì theo Kim Cương thừa, mỗi cá nhân có các loại xúc tình phiền não
khác nhau, rất nhiều khía cạnh khác nhau của tâm như giận dữ, ái dục,… Mỗi khía
cạnh của tâm, bản chất đều là Như Lai Tạng. Chúng ta có hàng ngàn khía cạnh của
tâm, nên có hàng ngàn chư Phật, chư Bồ tát trong các hình tướng khác nhau. Mỗi
Ngài có thể là đối tượng để chúng ta thiền định quán tưởng. Một trong các Ngài
có thể có sắc thân màu xanh, màu lục, màu đỏ… Hoặc các Ngài trong hình tướng phẫn
nộ, hiền hòa. Tất cả những hình tướng này đều tượng trưng cho các khía cạnh Tâm
của chính chúng ta, chứ không phải là bất kỳ một ai khác ở bên ngoài. Những điều
này không thấy nhắc đến trong truyền thống của Nguyên thủy hay Đại thừa. Bạn có
thể thấy trong Kim Cương thừa có Hộ Pháp Mahakala với hình tướng cực kỳ phẫn nộ
và sắc thân màu đen. Nếu gọi Ngài là Phật chắc bạn không thể tin nổi, bởi vì
trông Ngài rất là phẫn nộ, rất đen và rất giận dữ. Cho nên những ai không hiểu
về Kim Cương thừa thì không thể tin rằng Ngài là một vị Phật. Hay nói về Đức
Quan Âm, trong truyền thống Đại thừa người ta gọi Ngài là Bồ tát vì mọi người
không tin rằng một Đức Phật lại có thể có nghìn tay nghìn mắt. Họ nghĩ rằng một
Đức Phật chỉ có hai tay hai mắt giống như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Còn trong
Kim Cương thừa thì có vô số chư Phật khác nhau. Hộ pháp Mahakala cũng là một Đức
Phật, Hộ pháp Mahakali cũng là một Đức Phật hay Lục Độ Mẫu, Bạch Độ Mẫu, Kim
Cương Hợi Mẫu… tất cả các Ngài đều là Phật. Các Ngài có thể ở trong tư thế vũ
điệu Kim Cương, có thể sắc thân các Ngài màu xám, màu đen, màu xanh… Tại sao lại
như vậy? Bởi vì các Ngài tượng trưng cho sự chuyển hóa các xúc tình tiêu cực
trong tâm chúng ta. Những xúc tình này luôn thúc đẩy chúng ta trong trạng thái
không cân bằng của những sân giận, ham muốn…, song bản chất của những xúc tình
đó là thể tính và hình tướng của chư Phật, chư Bồ tát. Đó là sự phóng chiếu của
tâm bạn. Giống như khi giận dữ thì mặt bạn rất xấu, khi vui mặt bạn trông rạng
rỡ hoan hỷ tươi tắn, khi buồn trông mặt bạn ủ dột nặng nề… Tất cả những bộ mặt
đó đều là sự phản chiếu của tâm bạn. Vì thế chúng ta cần phải hiểu tất cả chư
Phật, đều là những biểu hiện tâm của chúng ta. Có rất nhiều người tu Mật thừa
không hiểu biết, họ không hiểu sự thật rằng những Đức Phật như Mahakala,
Mahakali, Lục Độ Mẫu, Bạch Độ Mẫu… đều là sự phản chiếu của chính tâm họ. Mặc
dù thực hành Kim Cương thừa nhưng họ không hiểu được ý nghĩa của Kim Cương thừa.
Rất đáng tiếc khi thực hành Kim Cương thừa, họ nhìn vào những vị Phật này và
cho rằng các Ngài là quỷ. Đây là một kiểu thực hành vô cùng nguy hiểm, hoàn
toàn sai lầm. Chúng ta cần phải hiểu rằng chư Phật, Bồ tát là hiện thân hay là
sự phản chiếu của các loại xúc tình khác nhau trong tâm của chúng ta. Bởi thế Đức
Phật Thích Ca muốn chúng ta thực hành các phương tiện khác nhau, nhằm chuyển
hoá mọi khía cạnh của tâm thành trí tuệ giác ngộ.
Có thể sẽ
có nghi vấn rằng: Tại sao một hành giả cần phải thực hành Pháp tu Mahakala, hay
các pháp tu về chư Phật, chư Bồ tát, các Bản tôn khác nhau? Câu trả lời rất đơn
giản như tôi đã đề cập ở trước. Chúng ta muốn có sự chuyển hoá trong tâm mình,
thông qua sự thực hành thì sự chuyển hoá sẽ xẩy ra, khi sự chuyển hoá diễn ra,
thì đó là giác ngộ. Sự giác ngộ này đồng với sự giác ngộ được nói đến trong
Nguyên thủy hay Đại thừa, chỉ có phương tiện là khác. Kim Cương thừa nhấn mạnh
đến sự chuyển hóa tâm chúng ta thành Phật thông qua phương tiện trực tiếp từ Đức
Phật A Di Đà.
Tư tưởng
Phật giáo Nguyên thủy cho rằng chúng ta
phải loại bỏ hết phiền não thì trí tuệ mới được hiển lộ. Quan kiến Kim Cương thừa
nhìn nhận điều này hơi khác một chút qua
việc đề cập sự chuyển hóa trực tiếp phiền
não thành Bồ đề. Đây là điểm then chốt của Kim Cương thừa. Không cần phải từ bỏ
xác thân, chúng ta có thể chuyển hoá phàm thân thành Phật thân. Không cần chạy
trốn những giai điệu thế gian, chúng ta
có thể chuyển hóa chúng thành hàng ngàn giai điệu chân ngôn khác nhau. Nhờ việc
trì chú chúng ta chuyển hoá khẩu thành khẩu giác ngộ của Phật. Như vậy trong
Kim Cương thừa có ba loại chuyển hoá là: chuyển hoá Thân, chuyển hoá Khẩu, chuyển
hoá Ý. Tuy trên góc độ phương tiện thiện xảo Kim Cương thừa có đặc biệt hơn, nhưng
bạn cần nhớ bản chất Tam Thừa Phật giáo không khác biệt vì đều có cùng một mục
đích là chứng ngộ Phật tính nơi chính mình.
Trong Kim
Cương thừa bạn có thể nhìn thấy các đối tượng, các biểu tượng khác nhau. Ví dụ
như chày Kim cương hay linh Kim cương, đều là những biểu tượng với những ý
nghĩa tượng trưng riêng, Chày kim cương nêu biểu cho năng lượng phụ tính, Linh
kim cương nêu biểu cho năng lượng mẫu tính, cả hai năng lượng này đều vốn ở
trong tâm chúng ta từ vô thủy; là căn bản sinh khởi tất cả các loại xúc tình.
Căn bản toàn bộ cuộc sống của chúng ta, cuộc sống tiềm ẩn của chúng ta là năng
lượng của phụ tính và mẫu tính. Linh và Chày là biểu tượng của hai loại năng lượng
này. Việc sử dụng hai pháp khí này có rất nhiều ý nghĩa giúp bạn hiểu về thiền định,
và hướng sự thiền định của bạn tập trung vào trạng thái tâm, hay tập trung vào
con đường của Đức Phật mà không lạc đường tà. Dần dần, bạn sẽ cân bằng được
hai năng lượng này và sự thực hành của bạn sẽ thành tựu viên mãn. Bạn sẽ có thể
loại bỏ các chướng ngại và đạt giác ngộ. Như vậy trong một nghi thức Mật Thừa,
chúng ta sử dụng các nhạc khí để trợ giúp cho sự thiền định, chứ không phải để
cho vui theo giai điệu trầm bổng. Xin quý vị ghi nhớ và hiểu rõ điều
này.
Trước khi dừng lời tôi xin chân thành cảm niệm công đức chư tôn Hòa thượng, Thượng toạ, chư Đại đức Tăng Ni, cùng tất cả quý Phật tử gần xa có duyên vân tập nghe pháp nơi đây. Nguyện cầu Quý vị ngày đêm sáu thời an lạc trong ánh từ quang của chư Phật.
(Trích: Mandala, Sư hợp nhất của Từ bi – Trí tuệ theo quan kiến Kim Cương thừa, NXB Tôn giáo, 2011)